TIỂU LUẬN
MƠN: QUẢN TRỊ KINH DOANH BÁO CHÍ TRUYỀN THƠNG
Đề tài:
MƠ HÌNH QUẢN TRỊ KINH DOANH TRANG THƠNG TIN
ĐIỆN TỬ CAFEF
0
LỜI MỞ ĐẦU
Ngành báo điện tử Việt Nam đang bước vào thời kỳ tăng trưởng mạnh
mẽ. Các trang báo lớn mở rộng hoạt động, các tổ chức truyền thông nối tiếp
cho ra mắt báo điện tử, các cơ quan báo giấy truyền thống cũng bắt đầu chú
trọng hơn đến phiên bản trực tuyến của mình. Cùng lúc là sự bùng nổ của
hàng ngàn website tin tức thuộc khối doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt với các
phương tiện thơng tin chính thống. Trong khi đó nhu cầu tiếp nhận thơng tin
qua Internet vẫn tiếp tục tăng cao và ngày càng đa dạng. Tất cả khiến cho thị
trường truyền thông số trở nên náo nhiệt hơn bao giờ hết.
Sự tăng trưởng của báo điện tử đi liền với những vấn đề về lợi nhuận và
chất lượng tin tức. Các website báo chí đang đi theo xu hướng đăng tin giật
gân, câu khách cốt để thu hút lượt truy cập, nhờ đó tăng doanh thu quảng cáo,
ngày càng nhiều. Các tin bài bị sao chép tràn lan không theo một quy tắc nào
thống nhất. Độc giả đơi khi bị bão hồ bởi những tin tức trên mạng mà họ
thấy rõ rằng chất lượng đang dần đi xuống. Bản thân các tờ báo trực tuyến lại
phải đối mặt với những khó khăn về mặt tài chính khi mà nguồn thu duy nhất
là quảng cáo thì hạn chế, nội dung lại vẫn phải cung cấp miễn phí cho cộng
đồng. Điều này đặt ra yêu cầu phải có những nghiên cứu định hướng cho sự
phát triển của ngành báo điện tử trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
Các nhà quản lý trong nước thường đặt báo chí dưới góc nhìn học
thuật, coi như một công cụ nâng cao nhận thức cho công chúng. Nhưng trong
một nền kinh tế thị trường, báo chí trước hết cũng là một ngành kinh doanh
như mọi ngành khác. Báo điện tử, ra đời từ sự kết hợp của báo chí truyền
thống và cơng nghệ hiện đại, lại càng điển hình cho tính chất này. Bởi vậy để
đưa ra được hướng phát triển cho báo điện tử thì phải xem xét hoạt động của
nó cả dưới góc nhìn kinh tế, đặt nó trong mơi trường riêng mà ở đó những xu
hướng của tương lai được thể hiện rõ nét.
Với đối tượng nghiên cứu là mơ hình kinh doanh báo điện tử tại Việt Nam,
mục đích cuối của bài khóa luận là đề ra hướng phát triển đúng đắn cho loại
hình kinh doanh này. Mơ hình kinh doanh báo điện tử tại Việt Nam được đánh giá
trên cơ sở phân tích từng yếu tố cấu thành nên mơ hình kinh doanh của một số
website báo điện tử trong nước tiêu biểu, đặt sự phân tích đánh giá trong mối tương
quan chặt chẽ với môi trường hoạt động và từ đó rút ra các vấn đề bất cập cốt lõi.
Cuối cùng xu hướng phát triển của báo điện tử cả trong nước và trên thế giới được
xem xét để đưa ra các giải pháp cụ thể cho sự phát triển của ngành báo điện tử Việt
Nam.
2
NỘI DUNG
1.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.
Khái niệm về quản trị kinh doanh
Quản trị kinh doanh là quản trị các hoạt động từ khâu đầu đến khâu cuối của
quá trình kinh doanh, bao gồm việc cần nhắc, tạo ra hệ thống, xây dựng các quy
trình và tối đa hóa hiệu quả bằng quá trình tư duy và ra quyết định của nhà quản trị,
nhằm duy trì, phát triển một/ các cơng việc kinh doanh của một tổ chức kinh tế nào
đó
1.2.
Khái niệm quản trị kinh doanh BCTT
Quản trị kinh doanh báo chí truyền thơng là quản trị các hoạt động báo chí
truyền thơng từ khâu đầu đến khâu cuối của q trình kinh doanh báo chí – truyền
thơng. Đây là một hoạt động mang tính tổng hợp và phức tạp, là sự kết hợp hài hịa
các chức năng (quản trị tài chính,mua hàng, chuỗi cung ứng, tài chính,marketing,
quản trị sản xuất, quản trị chất lượng, nhân lực...) trong hoạt động báo chí – truyền
thông
1.3.
Nội dung quản trị kinh doanh BCTT
Quản trị kinh doanh BCTT là một phạm trù bao gồm nhiều vấn đề, trong đó
có Quản trị nguồn nhân lực, thơng qua việc xây dựng chiến lược và kế hoạch tuyển
dụng, đào tạo, phát triển nhân viên, khen thưởng, kỷ luật, tạo sự hài lòng, thúc đẩy
sự tham gia, xây dựng mối quan hệ giữa nhà quản lý với nhân viên và phát triển hệ
thống thông tin nguồn nhân lực. Quản trị nguồn nhân lực được coi như yếu tố mấu
chốt trong vấn đề quản trị kinh doanh BCTT.
Thứ hai, Quản trị thông tin và công nghệ tập trung nghiên cứu xu hướng và
xác định công nghệ thông tin và công nghệ sản xuất trong hoạt động kinh doanh
báo chí truyền thơng, xây dựng và quản trị nguồn nhân lực, tương xướng với công
nghệ, xây dựng và quản lý các thiết chế thông tin trong sản xuất, kinh doanh báo
chí truyền thơng.. quản trị lữu trữ thơng tin trong hoạt động kinh doanh báo chí
truyền thơng, triển khai và kiểm sốt tính bảo mật của hệ thống
Thứ ba, Quản trị các mối quan hệ bên ngồi địi hỏi cần chú trọng quan hệ
công chúng, tạo mối quan hệ với đối tác với cộng đồng, quan tâm các vấn đề pháp
luật và đạo đức, quản trị thương hiệu và quản trị khủng hoảng nhằm tạo thị trường
cho sản phẩm BCTT.
Thứ tư, Quản trị các vấn đề môi trường, sức khỏe và sự an toàn gồm xây
dựng chiến lược quản lý, tuân thủ pháp luật và các quy trình, đào tạo nhân viên
đảm bảo an tồn, thực thi các chương trình ngăn ngừa ô nhiễm, cung cấp điều kiện
làm việc đảm bảo sức khỏe và sự an toàn chi các thành viên trong doanh nghiệp,
đào tạo nhân viên về cách làm việc an toàn
Thứ năm, Quản trị sự thay đổi và chuyển tiếp đo lường năng lực của tổ chứ,
doanh nghiệp, nghiên cứu cạnh tranh, nghiên cứu xu thế phát triển và xu hướng cải
cách, đánh giá chất lượng, so sánh với các tổ chức khác và cải tiến các quá trình và
hệ thống
1.4.
Phương thức quản trị kinh doanh BCTT
- Các phương pháp hành chính
Các phương pháp hành chính dựa vào các mối quan hệ tổ chức của hệ thống
quản lý và kỷ luật của cơ quan, tổ chức để tác động đến đội ngũ nhân lực, đảm bảo
quá trình sản xuất thơng suốt. Đó là mối quan hệ điều khiển - phục tùng, bắt buộc
đối tượng chấp hành các quyết định quản lý; tác động trực tiếp đến tập thể người
lao động theo hai hướng: tác động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành vi
của đối tượng quản lý.
Tác động về mặt tổ chức được thực hiện bằng việc ban hành các quy định
của doanh nghiệp bằng cơ cấu tổ chức, điều lệ hoạt động, nội quy… làm cơ sở để
xử lý các mối quan hệ trong nội bộ cơ quan, tổ chức.
4
Tác động điều chỉnh hành vi của đối tượng quản lý được thực hiện bằng
những mệnh lệnh, chỉ thị, thông báo để yêu cầu hoặc hướng dẫn cấp dưới thực hiện
những nhiệm vụ nhất định.
Các quyết định quản lý phải dứt khoát, rõ ràng, dễ hiểu, chỉ định cụ thể
người thực hiện và thời hạn thự thi; không thể hiểu sai hoặc chậm trễ. Chỉ người ra
quyết định mới được thay đổi quyết định, cấp dưới bắt buộc phải chấp hành, không
được lựa chọn.
Khi sử dụng các phương pháp hành chính, người quản lý phải nắm chắc hai
yêu cầu sau:
Một là, quyết định hành chính phải có căn cứ, được luận chứng đầy đủ về
hiệu quả kinh tế và các hệ quả khác, kết hợp hài hoà các loại lợi ích. Muốn vậy,
người ban hành quyết định phải có thơng tin đáng tin cậy, nắm vững tình hình thực
tế, lường trước các khó khăn và các vấn đề có thể phát sinh; tính tốn và cân nhắc
kỹ.
Hai là, gắn trách nhiệm với quyền hạn của người ra quyết định; chịu trách
nhiệm về kết quả thực hiện. Mặt khác, xác định rõ trách nhiệm của người thi hành
quyết định.
Các phương pháp hành chính trong quản lý tạo lập và duy trì được kỷ cương
trong doanh nghiệp và giải quyết kịp thời các vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, nếu lạm
dụng và thiếu cơ sở khoa học sẽ rơi vào kiểu quản lý quan liêu, chủ quan, dễ gây
tổn thất cho doanh nghiệp.
Các phương pháp kinh tế
Các phương pháp kinh tế tác động vào đối tượng quản lý thơng qua các lợi
ích kinh tế, tạo động lực vật chất để kích thích lao động tích cực, sử dụng các địn
bẩy để thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả cao. Động lực đó càng mạnh khi nhận thức
đầy đủ và biết kết hợp đúng đắn các lợi ích trong doanh nghiệp qua các phương án
được lựa chon. Thực chất, đó là sự vận dụng các quy luật kinh tế khách quan trong
kinh doanh, cho phép người lao động tự lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả
để hồn thành nhiệm vụ.
Đặc điểm của các phương pháp kinh tế là tác động lên đối tượng quản lý
không bằng sự cưỡng chế hành chính, mà đưa ra những điều kiện tác động về kinh
tế và những phương tiện vật chất có thể huy động được để thực hiện nhiệm vụ với
lợi ích thiết thực phù hợp với lợi ích chung của doanh nghiệp và xã hội. Do đó, các
phương pháp đó tác động nhạy bén, linh hoạt và phát huy được tính tự nguyện, chủ
động, sáng tạo của nguồn nhân lực; đồng thời nâng cao trách nhiệm, ý thức kỷ luật
tự giác của họ.
Với các phương pháp kinh tế, người quản lý giảm được nhiều việc điều
hành, đôn đốc, kiểm tra chi ly, sự vụ để tập trung vào các việc cơ bản. Người quản
lý sử dụng các phương pháp kinh tế theo hướng sau:
-
Đề ra những chỉ tiêu cụ thể từng thời gian cho từng bộ phận trong cơ
quan, tổ chức, lấy đó làm chuẩn cho việc thưởng phạt về vật chất.
-
Sử dụng các định mức kinh tế - kỹ thuật gắn với các đòn bẩy kinh tế
-
Thực hiện chế độ trách nhiệm kinh tế có thưởng, phạt về vật chất.
Việc mở rộng mức độ và phạm vi áp dụng các phương pháp kinh tế là xu
hướng chung của các nước theo kinh tế thị trường; trong đó chú trọng vào việc
hồn thiện hệ thống địn bẩy kinh tế: giá cả, lợi nhuận, tín dụng, lãi suất, tiền
lương, tiền thưởng…, thực hiện phân cấp quản lý đúng đắn; vừa đảm bảo hiệu lực
quản lý - điều hành thống nhất, vừa nâng cao trình độ chủ động sáng tạo của cấp
dưới, nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ quản lý về nhiều mặt: biết vận dụng
quy luật và các nguyên tắc trong quản lý kinh doanh, biết sử dụng các địn bảy kinh
tế, cơng tâm và nghiêm minh trong xử lý công việc.
Các phương pháp giáo dục
Các phương pháp giáo dục tác động vào nhận thức và tâm lý, tình cảm của
người lao động, nhằm nâng cao tính tự nguyện tự giác và niềm hăng say lao động
của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ. Đối tượng chủ yếu và trực tiếp của quản lý
là con người, một thực thể có ý thức, tổng hồ của nhiều mối quan hệ xã hội đa
dạng và tinh tế; do đó các phương pháp giáo dục có ý nghĩa lớn trong quản lý kinh
6
doanh. Các phương pháp giáo dục dựa trên sự vận dụng các quy luật tâm lý - xã
hội với đặc trưng và tính thuyết phục, làm cho người lao động phân biệt được đúng
- sai, phải - trái, lợi - hại, tốt - xấu; từ đó tự giác làm việc tốt và gắn bó với cơ
quan, tổ chức.
Cần lưu ý rằng, việc sử dụng đơn độc các phương pháp này không đem lại
kết quả tốt, bởi lẽ hoạt động kinh doanh không phải là một phong trào mà là hoạt
động có tổ chức chặt chẽ. Cần sử dụng kết hợp với các phương pháp khác một cách
hợp lý, uyển chuyển và sáng tạo để đem lại hiệu quả cao nhất.
2. MƠ HÌNH KINH DOANH TRANG THƠNG TIN ĐIỆN TỬ CAFEF
2.1. Bối cảnh hình thành và phát triển
Báo điện tử hình thành và phát triển trong môi trường chung với các loại hình
báo chí khác, nghĩa là trong điều kiện đời sống kinh tế ngày càng được nâng lên,
cuộc sống hiện đại khiến cho nhu cầu thông tin ngày càng cao và đa dạng. Mặt
khác mơi trường hoạt động đó có rất nhiều yếu tố thuận lợi cho loại hình báo chí
của thời đại mới này.
Trước hết chính sự phát triển của công nghệ là bối cảnh ra đời và đồng thời
là điều kiện để phát triển của báo điện tử. Internet lan rộng cùng với sự phổ biến
của các sản phẩm công nghệ cao như laptop, smartphone… khiến việc tiếp nhận
thông tin qua báo trực tuyến trở nên vô cùng thuận tiện. Như thế Internet đã thực
sự làm thay đổi thói quen tiếp cận thơng tin của con người. Người ta lên mạng ban
đầu để liên lạc và truyền tải các dữ liệu, theo đó cả hoạt động tiếp nhận thơng tin
cũng dần được trực tuyến hố. Báo điện tử đã chứng tỏ đuợc ưu thế vượt trội khi
vượt qua được các trở ngại về thời gian, không gian, biên giới quốc gia cũng như
lãnh thổ hoạt động.
Ban đầu, báo điện tử chỉ xuất hiện dưới dạng phiên bản trực tuyến của các tờ
báo giấy, nhưng đã nhanh chóng thay đổi hồn tồn cách sản xuất và tiêu dùng
thơng tin. Nhiều cơ quan báo chí duy trì phiên bản báo điện tử như một loại hình
hoạt động song song, đồng thời cũng rất nhiều tờ báo lớn ngừng hẳn việc sản xuất
báo in chuyển sang điều hành duy nhất mô hình báo điện tử.
CafeF là một trang thông tin điện tử tại Việt Nam chuyên về các tin tức kinh
tế, tài chính, chứng khoán với đội ngũ chuyên gia chuyên sâu trong ngành được
thành lập vào năm 2014. Theo đánh giá của Alexa mới đây, CafeF đã lọt vào danh
sách 20 websites lớn nhất tại Việt Nam. Nếu xét trong lĩnh vực thông tin – dữ liệu
tài chính thì CafeF là chun trang số 1 trong các trang thông tin điện tử uy tín của
Việt Nam.
2.2. Mơ hình kinh doanh trang thơng tin điện tử CafeF
o
Cơ sở hạ tầng
Các hoạt động nòng cốt:
Báo điện tử cũng thơng qua đội ngũ phóng viên để thu thập tin tức, viết tin
bài và những tin bài đó cũng phải qua kiểm duyệt của Ban thư ký, Ban biên tập như
các loại hình báo chí khác. Điểm khác biệt là khâu cung cấp thông tin được rút
ngắn đến mức tối giản. Các khâu in ấn phát hành hay phát sóng được cắt bỏ hồn
tồn, thay vào đó là cơng việc đưa sản phẩm báo chí mạng Internet. Đối với các
báo điện tử phụ thuộc, hoạt động biên tập tin tức chỉ đơn giản là sự sắp xếp lại
những nội dung đã được đăng trên các phương tiện thơng ttruyền thống, ví dụ như
các chương trình phát thanh, truyền hình.
Do hoạt động sản xuất thơng tin báo điện tử ngắn gọn như vậy và diễn ra với
tốc độ cao nên đa phần các báo chủ trương đào tạo hoặc sử dụng các phóng viên
truyền thơng đa phương tiện, một cá nhân phóng viên thực hiện đồng thời tất cả
các công việc từ viết bài, biên tập đến cập nhật nội dung.
Phần lớn các trang báo điện tử tại Việt Nam hiện nay đều được truy cập
miễn phí, do vậy mà doanh thu của nó phải phụ thuộc hồn toàn vào các hợp đồng
quảng cáo. Điều này khiến vai trò của bộ phận kinh doanh trong các tờ báo điện tử
trở thành thiết yếu. Hiện nay tại tất cả các báo điện tử đều có phịng kinh doanh
riêng hoạt động hết sức sơi nổi.
Cũng nằm ngồi hoạt động sản xuất nội dung, bộ phận marketing giữ những
vai trò to lớn hơn công việc kinh doanh quảng cáo đơn thuần. Trên lý thuyết, ở mô
8
hình kinh doanh báo điện tử, bộ phận marketing càng cần phát huy chức năng của
mình trong mơi trường cạnh tranh thơng tin khốc liệt. Ngồi việc nghiên cứu thị
trường thơng tin bộ phận này cịn phải sử dụng nhóm nhân viên kỹ thuật công nghệ
cao thực hiện công việc phát triển mạng lưới các đường link liên kết đặt tại các
trang báo, đưa tin tức của báo lên các vị trí top đầu trong mỗi kết quả đưa ra của
các cơng cụ tìm kiếm nhằm mở rộng sự tiếp cận với người đọc tối đa.
Nguồn lực nòng cốt:
Về nguồn nhân lực, các phóng viên, biên tập viên, kĩ thuật viên vẫn là nguồn
lực nòng cốt của tờ báo. Tuy nhiên tính chất của nguồn lực này lại có sự thay đổi
đáng kể. Các phóng viên, biên tập viên hoạt động trong mơi trường cơng nghệ cao
cũng phải có khả năng công nghệ, phải biết kết hợp kỹ năng viết lách của báo in lẫn
kỹ năng xử lý thiết kế âm thanh, hình ảnh của báo hình và báo nói. Ngày này các
nhà điều hành báo điện tử có xu hướng trọng dụng những phóng viên có những kỹ
năng tương tự như phóng viên truyền hình hay các nhà báo truyền thơng đa
phương tiện.
Đối tác then chốt:
Các báo hình, báo nói cũng là loại báo hoạt động dựa trên doanh thu quảng
cáo. Ngay những kênh truyền hình hay phát thanh lớn do đã tạo dựng được uy tín
vững vàng trên thị trường thông tin vẫn phụ thuộc vào các nhà quảng cáo. Ngược
lại các báo điện tử vẫn đang trong giai đoạn phát triển, quy mơ chưa đủ lớn, thì sự
phụ thuộc là vẫn khá rõ ràng.
Các báo điện tử ln có sự liên kết chặt chẽ với cộng đồng mạng và các báo
khác, cả báo điện tử lẫn báo hình, báo nói, vừa là để làm phong phú thêm nội dung
vừa là để phát triển, nhằm mục đích thu hút tối đa lượng đọc giả trực tuyến.
o
Khu vực chào bán
Sản phẩm thông tin của báo điện tử mang bốn tính chất đặc thù:
+ Tính thời sự vượt trội, có thể cập nhật thông tin đến từng giây từng phút.
Quá trình từ thu thập, xử lý cho đến đưa ra công chúng được thu gọn lại đến mức
chúng gần như được đưa ra tức thời.
+ Tính tích hợp các nét đặc trưng của báo nói, báo viết và báo hình (có chữ
viết, âm thanh, ký hiệu, hình ảnh) khiến thơng tin trở nên thực tế, sinh động do đó
được cơng chúng ưa chuộng hơn hẳn.
+ Tính cộng đồng: cùng một lúc có thể tổ chức các cuộc đối thoại trực
tuyến, trao đổi ý kiến giữa nhiều người ở các điểm khác nhau, gửi phản hồi lập tức
từ người đọc đến tồ báo. Tính cộng đồng chính là một lợi thế lớn của báo điện tử
so với các loại hình báo chí khác.
+ Tính thư viện: nhờ dung lượng gần như là vô hạn, báo điện tử hàm chứa
một kho dữ liệu đồ sộ giúp người đọc có thể tra cứu dễ dàng những sự kiện vừa xảy
ra cũng như những sự kiện xảy ra từ nhiều năm trước.
Những đặc tính trên phù hợp đặc biệt với bối cảnh công nghệ hiện đại và là
những đặc tính đem lại giá trị lớn cho độc giả trực tuyến, là lý do để báo điện tử
ngày càng được sử dụng nhiều thay cho các loại hình báo chí khác.
Mặt khác, có thể thấy bốn đặc tính này nâng cao tốc độ và tính hữu dụng của
thơng tin. Nó thu hút bộ phận gồm đơng đảo độc giả tìm đến thơng tin nhằm giải trí
và cập nhật tin tức. Điều này dẫn đến hệ quả là giá trị chất lượng của thông tin báo
điện tử thua kém hơn nhiều so với loại hình báo in truyền thống.
o
Khu vực khách hàng
Khách hàng mục tiêu: Khách hàng mục tiêu của báo điện tử được phân nhóm
như các loại hình báo chí khác. Song do cấu trúc doanh thu dựa vào quảng cáo điển
hình, cộng thêm quan hệ phụ thuộc vào các nhà quảng cáo, khách hàng mục tiêu
hàng đầu của hầu hết các báo điện tử vẫn là số đông.
Kênh phân phối: Việc xoá bỏ mọi kênh trung gian truyền thống giữa toà báo
và người đọc là một thay đổi lớn lao trong mơ hình kinh doanh báo điện tử. Nó
đồng nghĩa với việc chi phí cho khâu này được giảm xuống mức tối thiểu, thậm chí
gần như khơng đáng kể. Với báo điện tử người đọcc có khả năng tiếp nhận sản
phẩm thông tin với số lượng không hạn định, không hạn chế cả về thời gian lẫn
không gian.
10
Mối quan hệ với khách hàng: Sự hỗ trợ của hàng loạt các kênh liên hệ khác
đặc trưng cho một mơ hình thương mại điện tử gồm: hệ thống FAQs (Frequently
Asked Questions - các câu hỏi thường gặp) phản ánh những thắc mắc của độc giả
với bản thân trang báo, các chức năng bình luận (comment), bình chọn (vote) dưới
mỗi bài báo phản ánh phản hồi của độc giả với từng tin bài được đăng, email, diễn
đàn, phòng chat… Hệ thống này nếu hoạt động hiệu quả sẽ kết nối cơng chúng với
tồ soạn ở mức cao nhất. Ngồi hiệu quả phát triển cảm tình và sự tín nhiệm của
cơng chúng với tờ báo, nó cịn nâng cao chất lượng nguồn tin và cả nguồn dữ liệu
về độc giả phục vụ cho việc nghiên cứu thị trường.
o
Khu vực tài chính
Cơ cấu chi phí:
Chi phí vận hành một tờ báo trực tuyến là rất thấp. Giống như báo in, báo
điện tử khơng phải tiêu tốn chi phí cho hệ thống kỹ thuật đắt đỏ như báo hình hay
báo nói. Mặt khác nó cắt giảm được tồn bộ các chi phí phát hành như chi phí in ấn
hay phát sóng và thay vào đó là chi phí đăng ký và bảo trì website hầu như không
đáng kể.
Đối với những báo chủ trương thu hút nhiều độc giả để thu tiền quảng cáo thì
chi phí cho nguồn lao động lại càng giảm đáng kể do không cần thiết phải đầu tư
sâu vào chất lượng của hoạt động sáng tạo nữa.
Doanh thu:
Doanh thu của hầu hết các trang báo điện tử bắt nguồn toàn bộ từ quảng cáo.
Doanh nghiệp muốn quảng bá trên CafeF này cũng rất hợp lý để gia tăng độ nhận
diện thương hiệu, cùng với đó là những gói quảng cáo hợp lý và cơng nghệ quảng
cáo hiện đại giúp ích rất lớn cho các Marketer.
Những tờ báo lớn tầm cỡ quốc tế như The Wall Street Journal vốn có một
lượng lớn độc giả riêng mới có thể tính phí th bao thành công, và phần nhiều
những độc giả này lại được tài trợ phí thuê bao từ chính doanh nghiệp của họ.
Những tờ báo còn lại, ngay cả những tờ danh tiếng, cũng buộc phải đưa thơng tin
miễn phí đến cho người đọc.
Tại Mỹ, nơi ngành cơng nghiệp báo chí phát triển cao nhất thế giới, các báo
điện tử hoạt động với nhiều mơ hình doanh thu khác nhau là những tổ hợp của các
yếu tố: phí nội dung, doanh thu quảng cáo và đăng ký sử dụng.
Mơ hình phổ biến nhất là mơ hình miễn phí nội dung, miễn đăng ký sử dụng
và dựa vào doanh thu quảng cáo đang được áp dụng bởi hầu hết các trang báo điện
tử. Rất nhiều nhà sản xuất báo trực tuyến đã thử áp dụng các mơ hình khác nhưng
sau đó họ vẫn phải quay trở lại mơ hình này. Sự thuận lợi trong việc tiếp cận nội
dung thu hút lượng người đọc đông vượt bậc. Đặc điểm đó hấp dẫn các nhà quảng
cáo và đem đến nguồn doanh thu lớn cho các tờ báo. Nhược điểm của mơ hình này
là nó giảm hiệu suất quảng cáo, bởi việc quảng cáo đại chúng như vậy khiến tỷ lệ
nhắm được đúng khách hàng mục tiêu là rất thấp.
Giao diện trang WashingtonPost.com
Mơ hình thứ hai của tờ WashingtonPost.com đưa ra nội dung miễn phí và
dựa vào doanh thu quảng cáo và đồng thời yêu cầu đăng ký người sử dụng khắc
phục nhược điểm trên. Với mô hình này các quảng cáo có thể nắm rõ hồ sơ độc giả
để quảng cáo nhắm được đúng đối tượng, hay đúng hơn các tờ báo tìm đến được
đúng các nhà quảng cáo mục tiêu và do đó đặt ra được mức phí quảng cáo cao hơn.
Nhưng mơ hình này vẫn kém phổ biến hơn hẳn mơ hình thứ nhất do yêu cầu đăng
ký đã đánh mất một lượng rất lớn độc giả.
12
Một mơ hình đang được các nhà nghiên cứu tập trung là mơ hình thu phí một
số nội dung trong khi vẫn đưa ra phần lớn nội dung miễn phí và vẫn dựa vào doanh
thu quảng cáo như trang TheStreet.com, CNN.com. Những tờ báo này độc quyền
sở hữu một phần nội dung chất lượng cao được người sử dụng sẵn sàng trả phí. Tạo
được những nội dung như vậy là rất khó nhưng một khi có được chúng hình ảnh
trong mắt độc giả cũng trở nên có giá trị hơn.
Ở cấp độ cao hơn, tờ WSJ.com và một số tờ báo khác thu phí thuê bao, hạn
chế nội dung miễn phí và vẫn chấp nhận quảng cáo. Những tờ báo này thực sự tự
tin vào giá trị nội dung của mình. Họ biết rằng độc giả mục tiêu sẵn sàng trả tiền và
cũng sẽ khơng có đối thủ cạnh tranh đưa ra miễn phí những nội dung tương tự.
Lượng độc giả của những trang báo này thường ổn định ở mức dưới một triệu
người.
Cấp độ cao nhất của mơ hình thu phí là mơ hình thu phí nội dung và không
quảng cáo như trang ConsumerReports.org. Hầu như không trang nào có thể tồn tại
với mơ hình này nhưng ConsumerReports thì có do nó sở hữu những bản báo cáo
thực sự giá trị được một cộng đồng gồm 800 ngàn thuê bao sẵn sàng trả tiền để tiếp
nhận thông tin. Hơn nữa thương hiệu của ConsumerReport quá lớn, đủ để mô hình
này có thể tồn tại.
Giao diện trang ConsumerReports.org
So sánh giữa hai nhóm mơ hình dựa vào doanh thu – một dựa vào nội dung
và một dựa vào quảng cáo, có thể thấy rằng mặc dù hình ảnh của tờ báo có nội
dung có giá trị cao hơn rất nhiều trong mắt người tiêu dùng nhưng lượng độc giả
của tờ báo miễn phí lại lớn hơn hàng chục lần. Điều đó đồng nghĩa với việc các
nhà quản trị kinh doanh báo điện tử phải cân nhắc giữa nguồn lợi nhỏ ổn định giá
cao và nguồn lợi luôn dao động giá rẻ nhưng tổng số lại rất lớn từ quảng cáo. Và
phần lớn buộc phải chọn giải pháp thứ hai.
Sự lựa chọn này còn bắt nguồn từ nhiều lý do khác. Trong bối cảnh thông tin
phát triển ồ ạt và sự cạnh tranh diễn ra gay gắt như ngày nay, để sở hữu được một
nội dung có giá thì chi phí cho nội dung đó cũng rất lớn, chưa chắc phí truy cập đã
bù đắp đủ. Thậm chí trong nhiều trường hợp cả hai nguồn thu (nguồn thu nội dung
và nguồn thu quảng cáo) đều đồng thời suy giảm. Ngay cả những tờ báo thành
cơng với mơ hình thu phí nội dung thì điều đó cũng có nghĩa sức ảnh hưởng của
họ với công chúng là rất lớn, chi phí cơ hội cho việc bỏ qua nguồn lợi quảng cáo
vì thế cũng rất cao – đó là điều mà các nhà quản trị không thể không cân nhắc.
14
– Mơ hình kinh doanh báo điện tử
+ Các cơ quan
báo chí
+ Cộng đồng
mạng
+ Doanh
nghiệp
+ Các nhà
quảng cáo
+ Ban Biên tập, Ban
thư ký và các phòng
ban khác (thực hiện
sản xuất marketing,
tin tức, kinh doanh
quảng cáo)
Sản phẩm báo chí –
truyền thơng
Cơng chúng
Nguồn nhân lực và
kỹ thuật
(Phóng viên, CTV,
máy móc thiết bị)
+ Chi phí sáng tạo, chi phí kỹ thuật
Doanh thu từ quảng cáo, lượng truy cập và doanh thu
khác
Nhiều ý kiến cho rằng mơ hình doanh thu chỉ dựa vào quảng cáo là
khơng bền và có tác động tiêu cực tới chất lượng thơng tin. Nhưng nhìn vào
các mơ hình thương mại điện tử thành cơng như Amazon.com, người ta cũng
thấy rằng hãng này thu lợi không phải từ bản thân hàng hóa mà từ dịch vụ
phân phối mà nó cung ứng. Theo đó các ý kiến đối lập cho rằng báo chí cũng
nên coi thơng tin của mình như một thứ hàng hóa đặc biệt và thu lợi từ chính
việc cung ứng hàng hóa.
2.3. Mơi trường của hoạt động kinh doanh báo điện tử CafeF
Với mơ hình kinh doanh chứa nhiều vấn đề gây tranh cãi như vậy, các
tờ báo điện tử lại phải vật lộn phát triển trong mơi trường khắc nghiệt hơn các
loại hình báo chí truyền thống lẫn nhiều mơ hình thương mại điện tử khác.
Thị trường độc giả của báo điện tử cùng với sự phát triển của công
nghệ và đời sống đã mở rộng ra gấp nhiều lần, nhưng đồng thời cũng lại là
một thị trường cực kỳ khó nắm bắt. Đặc điểm lớn nhất của thị trường này là nó
được hình thành bởi một thế hệ lớn lên cùng thói quen hưởng các dịch vụ
miễn phí trên mạng Internet. Họ ln muốn có được những dịch vụ chất
lượng cao trong khi khơng hề muốn chi trả cho những dịch vụ đó, thậm chí
khơng muốn phải gặp bất cứ một sự phiền hà nhỏ nào (như việc phải đăng ký
truy cập) một khi họ biết vẫn cịn có thể tìm thấy những giá trị tương đương
miễn phí từ các nhà cung cấp khác.
Ở cộng đồng trực tuyến tồn tại sự gắn kết chặt chẽ giữa các thành viên.
Một sáng tạo nhỏ xuất phát từ một vài cá nhân cũng có khả năng làm dấy lên
phong trào cho cả cộng đồng; và ngược lại một hành vi tưởng như đơn giản
nhất cũng có lẽ phải chịu sức ép của cả một làn sóng dư luận lớn. Những cá
nhân trong cộng đồng ấy, vừa đi theo số đông, lại vừa luôn muốn được thể
hiện chính mình ở một khía cạnh nào đó trước mọi người. Tính cộng đồng
cao, dễ hình thành các trào lưu tồn tại song song với xu hướng ngày càng
hướng tới giá trị cá nhân là hai mặt dễ thấy của thị trường khách hàng này.
Báo điện tử CafeF luôn phải cạnh tranh gay gắt với các thành phần
16
khác trong giới truyền thông để thỏa mãn cộng đồng khách hàng trực tuyến.
Thông tin là vô vàn nhưng tiền bạc và thời gian chỉ có hạn. Mỗi một trang
báo, vừa phải cạnh tranh với hàng loạt các báo điện tử khác, các trang tin điện
tử lẫn các phương tiện thơng tin khác gồm các đài phát thanh, đài truyền
hình, vừa phải cố gắng giành sự quan tâm của các khách hàng với các mạng
xã hội ảo, các blog cá nhân đang rất thịnh hành trong cộng đồng trực tuyến
ngày nay.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, có thể thấy mơ hình kinh doanh báo điện tử Việt Nam
chưa hoàn thiện. Các hoạt động nghiệp vụ báo chí bao gồm cung cấp tin tức
và nâng cao tính diễn đàn liên tục được đẩy mạnh, nhưng những yếu tố đặc
thù của một hoạt động kinh doanh mà điển hình là hoạt động marketing lại
chưa hình thành rõ nét. Tất cả thể hiện tính sơ khai của giai đoạn đầu một thời
kỳ mà ở đó, xu hướng thương mại là khó tránh khỏi.
Điều đáng nói nhất là ngay trong giai đoạn quan trọng này, ở mô hình
kinh doanh báo điện tửđã tồn tại những vấn đề bất cập có tác động lớn đến sự
phát triển trong tương lai.
Thứ nhất là vấn đề ở khâu sản xuất sản phẩm thơng tin: q trình tạo
nội dung dựa trên sao chép và cắt ghép quá nhiều – vấn đề này bóp méo mơ
hình kinh doanh báo điện tử khi mà doanh thu (quảng cáo) khơng cịn phản
ánh được đúng giá trị lao động nữa.
Thứ hai là vấn đề giá trị của sản phẩm thông tin: các báo ngày càng
chạy theo xu hướng đưa tin nhanh, tin phù phiếm và tin giật gân miễn sao
thu hút được thật nhiều sự chú ý – điều đó chỉ khiến sản phẩm thơng tin trở
thành loại sản phẩm cấp thấp, lợi ích đạt được nhanh nhưng không bền, vừa
đủ nhưng không cao và thậm chí gây tổn hại tới uy tín về lâu về dài của các
trang báo.
Cuối cùng là vấn đề về tốc độ tiến triển chậm chạp không tương xứng
với tiềm năng của ngành báo điện tử Việt Nam – nếu tốc độ ấy khơng được
cải thiện thì báo điện tửViệt Nam sẽ dần tụt hậu trong một thị trường thông
tin trực tuyến bùng nổ với vô vàn các thành phần tham gia của cả trong nước
và thế giới (các trang thông tin, các mạng xã hội…) đang vận động liên tục để
thu hút cộng đồng trực tuyến cũng đang tăng trưởng rất mạnh như hiện nay.
Để ngành báo điện tử phát triển đúng hướng, những vấn đề tồn tại ấy
phải được giải quyết ngay từ đầu. Các nhà quản lý cần thực hiện các biện
18
pháp chấn chỉnh chấm dứt tình trạng sao chép tin bài tràn lan trên thị trường
thông tin trực tuyến. Đồng thời các trang tin thuộc khối doanh nghiệp cũng
phải được tạo điều kiện hoạt động để tính cạnh tranh trên thị trường thơng tin
trực tuyến được nâng cao chỉ có môi trường cạnh tranh mới thúc đẩy sự phát
triển diễn ra nhanh chóng.