lOMoARcPSD|15963670
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP NHĨM
Mơn: TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN
----------*----------
Đề 01:
Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù
“cái riêng và cái chung”, hãy vận dụng để nhận thức và giải
quyết một vấn đề của thực tiễn
Lớp niên chế: ………………..
Lớp tín chỉ: ………………….
Nhóm: ……………………….
Hà Nội - 2023
lOMoARcPSD|15963670
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QỦA THAM GIA LÀM
BÀI TẬP NHĨM
Ngày:
Địa điểm:
Nhóm:
Lớp:
Khóa:
Khoa:
Tổng số sinh viên của nhóm:
+ Có mặt:
+ Vắng mặt:
Nội dung: xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia làm bài tập nhóm
Tên bài tập:
Mơn học:
Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực hiện bài tập
nhóm số … Kết quả như sau:
STT
Mã SV
Họ và tên
Đánh giá của
SV
A
B
SV
ký
tên
C
Đánh giá của GV
Điểm
(số)
Điểm
(chữ)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
- Kết quả điểm bài viết:.......................
+ Giáo viên chấm thứ nhất:..................
+ Giáo viên chấm thứ hai:....................
- Kết quả điếm thuyết trình..................
- Giáo viên cho thuyết trình:................
- Điểm kết luận cuối cùng:...................
- Giáo viên đánh giá cuối cùng:..............
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2023
TRƯỞNG NHÓM
GV ký
tên
lOMoARcPSD|15963670
LỜI MỞ ĐẦU
Phép biện chứng duy vật là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới
giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Nội dung
cơ bản của phép biện chứng duy vật là về hai nguyên lý có ý nghĩa khái quát
nhất: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Các mối
liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy vật khái
quát thành các phạm trù cơ bản như cái riêng và cái chung; tất nhiên và ngẫu
nhiên; bản chất và hiện tượng; nguyên nhân và kết quả; khả năng và hiện thực;
nội dung và hình thức1.
Trong quá trình tư duy và nhận thức, khi cần nghiên cứu về một vấn đề nào
đó, con người đều bắt đầu nghiên cứu từ một vài sự vật hiện tượng đơn lẻ, chỉ ra
các đặc điểm, đặc trưng, tính chất của các sự vật hiện tượng đơn lẻ, rồi so sánh
và tổng hợp lại các điểm giống và khác nhau của mỗi hiện tượng, sau đó rút ra
được những điểm khái quát thể hiện đặc tính chung của các sự vật, hiện tượng
đồng dạng, cũng như chỉ ra những điểm nổi bật riêng có ở một vài sự vật hiện
tượng này mà khơng có ở các sự vật hiện tượng tương tự khác cùng loại. Q
trình này chính là đang áp dụng phạm trù triết học “cái riêng và cái chung” trong
việc hệ thống hóa và khái quát hóa các sự vật hiện tượng của tự nhiên, xã hội và
tư duy.
Triết học (ở góc độ chung nhất) là một mơn khoa học khá trừu tượng. Bản
thân khái niệm “triết học” cũng có nhiều cách hiểu khác nhau và cách tiếp cận
khác nhau tùy từng trường phái và từng thời điểm lịch sử loài người. Bằng việc
nghiên cứu khái niệm và đặc điểm “triết học” theo từng trường phái riêng rẽ sau
đó tổng hợp lại những đặc trưng và tính chất xuất hiện chung, nhóm sẽ làm rõ
được khái niệm và các đặc điểm của “triết học” theo nghĩa chung, đồng thời chỉ
ra được các nét đặc biệt riêng của từng trường phái trong quan niệm về “triết
học”. Quá trình này chính là việc áp dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận
của cặp phạm trù “cái riêng và cái chung”.
A.P.Séptulin, Bàn về mối liên hệ lẫn nhau của các phạm trù trong triết học mácxít, NXB Sự
Thật 1999, trang 63.
1
1
lOMoARcPSD|15963670
NỘI DUNG
1. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “cái riêng và
cái chung”
1.1. Định nghĩa và bản chất của phạm trù
1.1.1. Định nghĩa phạm trù
Trong quá trình giao tiếp và tương tác, con người thường phải sử dụng những
khái niệm nhất định để diễn giải suy nghĩ của mình và giúp người đối diện có
thể hiểu được ý nghĩ đó. Những khái niệm nhất định này là hình thức của tư duy
phản ánh những mặt, những thuộc tính cơ bản của một lớp những sự vật hiện
tượng nhất định của hiện thực khách quan; và tùy mức độ bao quát mà ta có các
khái niệm rộng hay hẹp khác nhau. Trong đó, khái niệm rộng nhất được gọi là
phạm trù. Nói cách khác, phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung và cơ bản nhất của các
sự vật hiện tượng trong một lĩnh vực nhất định2.
Mỗi bộ mơn khoa học đều có hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm
vi khoa học đó nghiên cứu (ví dụ, tốn học có các phạm trù về “số”, “hình”,
“điểm”, “giới hạn”, “hàm số”…; kinh tế học có các phạm trù về “hàng hóa”,
“giá trị”, “lợi ích tối ưu”…; khoa học pháp lý có các phạm trù về “quan hệ xã
hội”, “nhà nước”, “pháp luật”…). Tuy nhiên, các phạm trù trên chỉ phản ánh
những mối liên hệ chung trên một lĩnh vực nhất định thuộc phạm vi nghiên cứu
của một môn khoa học chun ngành nào đó; cịn các phạm trù của phép biện
chứng duy vật (như “vật chất”, “ý thức”, vận động”…) lại là những khái niệm
chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và
phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nhất định mà là của toàn bộ thế
giới hiện thực (bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy).
1.1.2. Bản chất của phạm trù
Theo quan điểm của những nhà triết học thuộc phái duy thực, phạm trù là
những thực thể ý niệm, tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người.
Còn những nhà triết học thuộc phái duy danh lại cho rằng ngược lại, phạm trù
chỉ là những từ trống rỗng, do con người tưởng tượng ra, khơng biểu hiện một
cái gì của hiện thực3.
Khác với các quan niệm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, các
phạm trù khơng có sẵn trong nhận thức của bản thân con người một cách bẩm
sinh, tiên nghiệm, cũng khơng tồn tại sẵn ở bên ngồi và độc lập với ý thức của
con người, mà được hình thành trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn
của con người. Mỗi phạm trù xuất hiện đều là kết quả của q trình nhận thức
trước đó, đồng thời lại là bậc thang cho quá trình nhận thức tiếp theo của con
người để tiến gần đến nhận thức đầy đủ hơn bản chất của sự vật.
Ngoài ra, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng chỉ rõ, các phạm trù được hình
thành bằng con đường khái qt hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những
GS. TS. Nguyễn Ngọc Long, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Giáo Dục 2016, trang
95.
3
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến Bộ 1981, tập 29, trang 102.
2
2
lOMoARcPSD|15963670
mối liên hệ vốn có bên trong của bản thân sự vật, vì vậy nội dung của nó mang
tính khách quan, bị thế giới khách quan quy định, mặc dù hình thức thể hiện của
nó là chủ quan.
Cuối cùng, các phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức của con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nhưng thế giới khách quan không
chỉ tồn tại độc lập với ý thức của con người, mà còn ln vận động, phát triển,
chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, hệ thống phạm trù của phép biện chứng duy vật
không phải là một hệ thống đóng kín, bất biến, mà nó thường xuyên được bổ
sung bằng những phạm trù mới cùng với sự phát triển của thực tiễn và của nhận
thức khoa học.
1.2. Nội dung cặp phạm trù “cái riêng và cái chung”
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự phản
ánh những sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới, nhưng trong quá trình so sánh
sự vật này với sự vật khác, phân biệt điểm giống và khác giữa hiện tượng này
với hiện tượng khác, nhận thức đi đến sự phân biệt cái riêng, cái chung.
Theo GS. TS. Phạm Văn Đức, cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật,
hiện tượng nhất định; cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng. Ngồi ra, cịn phải đề cập đến
một phạm trù liên quan khác, đó là cái đơn nhất – là phạm trù dùng để chỉ
những mặt, những đặc điểm có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại
ở các sự vật, hiện tượng khác4.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, không thể có cái chung
nếu khơng có cái riêng và ngược lại. Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều
tồn tại khách quan (vì nó là biểu hiện tính hiện thực tất yếu, độc lập với ý thức
con người) và giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, cụ thể:
Đầu tiên, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Khơng có cái chung thuần túy tồn tại bên ngồi hay
biệt lập, tách rời cái riêng, nó phải tồn tại trong từng cái riêng cụ thể, xác định.
Cái chung là thuộc tính, nên phải gắn với đối tượng xác định.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, tức khơng có
cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, tách rời cái chung, mà tất yếu nó phải tồn
tại trong mối liên hệ với cái chung. Nói cách khác, cái riêng có thể tồn tại độc
lập nhưng khơng hồn tồn cơ lập với các sự vật, hiện tượng xung quanh. Bất cứ
cái riêng nào cũng đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với
các sự vật hiện tượng khác. Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ
rồi “giao thoa” với các mối liên hệ qua lại khác, từ đó tạo nên một mạng lưới các
mối liên hệ mới, và trong số đó sẽ có những mối liên hệ dẫn đến một cái chung
nào đó.
Thứ ba, cái riêng là cái tồn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái
bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Điều này là dễ hiểu bởi cái riêng là tổng
hợp của cái chung và cái đơn nhất. Cái riêng ngoài những đặc điểm riêng chỉ nó
có, cịn có những đặc điểm chung ở nhiều cái riêng lẻ cùng loại, và trong quan
hệ với cái chung, tùy từng mối quan hệ mà thuộc tính riêng lẻ này hay thuộc tính
4
GS. TS. Phạm Văn Đức, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Giáo Dục 2019, trang 85.
3
lOMoARcPSD|15963670
riêng lẻ khác tham gia vào cái chung. Do đó, cái riêng không gia nhập hết vào
cái chung, cái riêng phong phú hơn cái chung. Còn cái chung tuy chỉ là một bộ
phận cấu thành cái riêng, nhưng là cái bản chất của cái riêng vì nó phản ảnh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ tất nhiên, ổn định ở trong nhiều
cái riêng cùng loại, nó quy định sự tồn tại và phát triển của cái riêng, nên cái
chung sâu sắc hơn cái riêng.
Cuối cùng, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong quá
trình vận động và phát triển của sự vật khi có điều kiện xác định nào đó xảy ra.
Trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc mà ban
đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất, cái cá biệt. Dần dần, cái mới trở nên hoàn
thiện và tiến tới thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại, cái
cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến do không phù hợp với điều kiện mới nên
dần mất đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất
thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ; cịn sự
chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái
lỗi thời bị phủ định5.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “cái riêng và cái chung”
Từ việc nghiên cứu, phân tích đặc điểm và mối quan hệ của cái chung, cái
riêng, cái đơn nhất, ta có thể thấy:
Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng, như một
thuộc tính chung của một số cái riêng, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với cái
đơn nhất và mối liên hệ đó đem lại cho cái chung một hình thức riêng biệt, thì
các phương pháp thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật chung nào đó
đều khơng thể như nhau đối với mọi sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với
cái chung đó, vì bản thân cái chung trong mọi sự vật, hiện tượng khơng phải là
một và khơng giống nhau hồn toàn, mà chỉ là biểu hiện của cái chung đã được
cá biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi trường
hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc
điểm của từng trường hợp.
Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái
đơn nhất, thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đó trong điều kiện khác, khơng
nên sử dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối
với trường hợp đó, chỉ rút ra những cái thích hợp với điều kiện nhất định đó.
Thứ ba, trong q trình phát triển của sự vật, tại những điều kiện nhất định
“cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể
biến thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo
điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cái chung”
và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
Kết luận lại, cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng cụ thể,
không nhận thức cái chung thì trong thực tiễn giải quyết mỗi cái riêng sẽ vấp
phải những sai lầm, mất phương hướng. Muốn nắm được cái chung thì cần xuất
phát từ những cái riêng bởi cái chung khơng tồn tại trừu tượng ngồi những cái
Nguyễn Thị Hồng Vân, Tập bài giảng Triết học Mác – Lênin, NXB Giáo Dục 2012, trang
79.
5
4
lOMoARcPSD|15963670
riêng. Mặt khác, cần phải cá biệt hóa cái chung, khắc phục bệnh giáo điều, siêu
hình, máy móc trong vận dụng cái chung để giải quyết trường hợp cụ thể (cái
riêng). Cuối cùng, cũng cần phải biết tận dụng các điều kiện cho sự chuyển hóa
giữa cái đơn nhất và cái chung theo mục tiêu và mong muốn của mình, bởi giữa
cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều kiện
nhất định6.
2. Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “cái
riêng và cái chung” trong làm rõ khái niệm và đặc điểm của “triết học”
Để làm rõ khái niệm và đặc điểm của “triết học” nói chung, ta cần tiếp cận
khái niệm “triết học” theo từng quan điểm, từng trường phái nói riêng. Sau đó
tổng hợp lại những nét chung nhất của từng trường phái riêng rẽ, rút ra cách hiểu
chung cho khái niệm “triết học”. Các quan điểm về “triết học” sẽ được nghiên
cứu sau đây được trải dài theo không gian (từ phương Đông sang phương Tây)
và thời gian (từ cổ đại, trung đại đến hiện đại).
2.1. Triết học phương Đông
Phương Đông cổ đại là một vùng đất rộng lớn từ Ai Cập, Babilon tới Ấn Độ,
Trung Quốc…; là nơi sớm xuất hiện nhiều trung tâm triết học của thế giới, mà
nổi lên và phải kể đến đó là Ấn Độ và Trung Quốc cổ, trung đại.
2.1.1. Triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Nét đặc thù của nền triết học Ấn Độ là chịu ảnh hưởng của những tư tưởng
tơn giáo có tính chất “hướng nội”. Việc lý giải và thực hành những vấn đề nhân
sinh quan dưới góc độ tâm linh tơn giáo nhằm đạt tới sự “giải thoát” là xu hướng
trội của nhiều học thuyết triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại. Tư tưởng triết học
Ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề triết học như bản thể
luận, nhận thức luận. Do chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo, nên
nội dung tư tưởng triết học Ấn Độ cổ, trung đại thể hiện nét đặc thù khi trình
bày các nội dung triết học chung. Triết học Ấn Độ cổ, trung đại có nhiều trường
phái song điểm chung là đều tập trung vào vấn đề bản chất, ý nghĩa của đời
sống, nguồn gốc nỗi khổ của con người và con đường, cách thức giải thoát cho
con người khỏi bể khổ của cuộc đời.
Mục đích, nhiệm vụ của các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại là giải thoát.
Phương tiện, con đường, cách thức của mỗi trường phái có thể khác nhau nhưng
mục đích là một. Giải thốt là phạm trù triết học tơn giáo Ấn Độ dùng để chỉ
trạng thái tinh thần, tâm lý, đạo đức của con người thoát khỏi sự ràng buộc của
thế giới trần tục và nỗi khổ của cuộc đời. Đạt tới sự giải thoát, con người sẽ đạt
tới sự giác ngộ, nhận ra chân bản của mình, thực tướng của vạn vật, xóa bỏ vơ
minh, diệt mọi dục vọng, vượt ra khỏi nghiệp báo, luân hồi, hòa nhập vào bản
thể tuyệt đối Brahman hay Niết bàn (niết bàn không phải là một nơi, một địa
điểm, đó là thuật ngữ ám chỉ một trạng thái). Để đạt tới giải thoát con người phải
dày công tu luyện hành động đạo đức theo giới luật, tu luyện trí tuệ, trực giác
thực nghiệm tâm linh, chiêm nghiệm nội tâm lâu dài. Đạt tới sự giải thốt cũng
chính là lúc con người đạt tới sự siêu thoát, vượt ra khỏi sự ràng buộc của thế
tục, hoàn toàn tự do, tự tại. Tư tưởng giải thốt trong triết học tơn giáo Ấn Độ
6
Bộ GD&ĐT, Giáo trình triết học, NXB Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2014, trang 98.
5
lOMoARcPSD|15963670
cổ, trung đại thể hiện tính chất nhân bản, nhân văn sâu sắc. Đó là kết quả phản
ánh những đặc điểm yêu cầu của đời sống xã hội Ấn Độ đương thời, dù vậy, do
giải thích chưa đúng nguồn gốc của nỗi khổ cho nên tư tưởng giải thoát này mới
dừng lại ở sự giải phóng con người về mặt tinh thần, tâm lý, đạo đức chứ không
phải là biến đổi cách mạng hiện thực7.
2.1.2. Triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Nét đặc thù của triết học Trung Quốc cổ, trung đại là hầu hết các học thuyết
có xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – đạo đức của xã
hội với nội dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý
tưởng và con đường trị nước.
Tư tưởng bản thể luận của triết học Trung Quốc cổ, trung đại không rõ ràng
như các trung tâm triết học khác. Dù vậy các hệ thống triết học cũng có những
quan điểm riêng của mình. Trong học thuyết Nho gia, Khổng Tử thường nói đến
trời, đạo trời và mệnh trời. Tư tưởng của ông về các lĩnh vực này không rõ ràng
là duy vật hay duy tâm. Mục đích của Khổng Tử khi bàn đến các vấn đề trên là
làm chỗ dựa để ơng đi sâu các vấn đề chính trị – đạo đức xã hội. Học thuyết
Đạo gia coi bản nguyên của vũ trụ là “Đạo”. Đạo sáng tạo ra vạn vật, vạn vật
nhờ đó mà sinh ra, sự sinh ra vạn vật theo trình tự đạo sinh một, mộ sinh hai, hai
sinh ba, ba sinh ra vạn vật (Đạo Đức kinh chương 21, 34, 42). Học thuyết Âm
Dương gia coi âm dương là hai khí, hai nguyên lý tác động qua lại lẫn nhau sản
sinh ra mọi sự vật, hiện tượng trong trời đất… Mặt tích cực của triết học duy vật
là đã làm lu mờ vai trò của thần thành, của lực lượng siêu nhiên, những lực
lượng khơng có trong hiện thực khách quan, do chủ nghĩa duy tâm tơn giáo tạo
ra. Nhưng, do cịn mang tính trực quan, ước đốn, chưa có chứng minh nên các
luận điểm trên chưa khuất phục được tư tưởng duy tâm, chưa trở thành cơng cụ,
giải phóng con người khỏi quan điểm duy tâm thần bí.
Khi bàn tới bản tính thế giới, triết học Trung Quốc có quan điểm độc đáo về
vấn đề này thể hiện ở phạm trù biến dịch. Biến dịch theo quan niệm chung của
triết học Trung Hoa cổ là trời đất, vạn vật luôn vận động, biến đổi. Nguyên nhân
của sự vận động, biến đổi này là do trời đất, vạn vật vừa đồng nhất, vừa mâu
thuẫn với nhau: trời và đất, lừa và nước, âm và dương, trời và người, đạo và lý,
thể chất và tinh thần, chân lý và sai lầm… Quan điểm về biến dịch của vũ trụ là
sản phẩm của phương pháp quan sát tự nhiên – một phương pháp chung của
nhận thức ở trình độ thu nhận tri thức kinh nghiệm. Nhờ phương pháp quan sát
tự nhiên ấy mà lý luận về biến dịch của vũ trụ không phải sự bịa đặt chủ quan,
mà là phép biện chứng tự phát về thế giới khách quan. So với biện chứng khách
quan, phép biện chứng này cịn nhiều hạn chế như đơn giản hóa sự phát triển, có
biến hóa nhưng khơng có phát triển, khơng xuất hiện cái mới, biến hóa của vũ
trụ có giới hạn, bị đóng khung trong hai cực.
Khi đặt vấn đề nguồn gốc của con người, Khổng Tử và Mặc Tử đều cho rằng
trời sinh ra con người và mn vật. Cịn Lão Tử cho rằng trước khi có trời đã có
Đạo. Trời, đất, người, vạn vật đều do Đạo sinh ra. Khi xác định vị trí và vai trị
của con người trong mối quan hệ với trời, đất, con người và vạn vật trong vũ trụ,
7
GS. Bùi Thanh Quất, Lịch sử triết học, NXB Giáo Dục Hà Nội 1999, trang 108.
6
lOMoARcPSD|15963670
Lão Tử cho rằng trong vũ trụ có bốn cái lớn: Đạo lớn, Trời lớn, Đất lớn, Người
cũng lớn. Đối với Nho giáo, con người được đặt lên vị trí rất cao. Con người do
trời sinh ra nhưng sau đó con người cùng với trời, đất là ba ngôi tiêu biểu cho tất
cả mọi vật trong thế giới vật chất và tinh thần. Khi bàn tới quan hệ giữa trời với
người, các nhà duy tâm đi sâu phát triển tư tưởng thiên mệnh của Khổng Tử, cho
rằng có mệnh trời và mệnh trời chi phối cuộc sống xã hội của con người, cuộc
đời của mỗi con người.
Khi bàn tới bản tính con người, Khổng Tử cho ràng “tính mỗi con người đều
gần nhau, do tập tành và thói quen mới hóa ra xa nhau”. Từ quan điểm này,
người ta suy luận tranh cãi đưa ra nhiều thuyết khác nhau: Mạnh Tử cho rằng
bản tính con người là thiện; Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác; Cáo Tử
cho rằng bản tính con người khơng tiện khơng ác; Vương Sung quan niệm bản
tính con người có thiện, có ác…
Vấn đề xây dựng con người của các học phái triết học Trung Quốc cổ, trung
đại là coi trọng sự nỗ lực của cá nhân, sự quan tâm của gia đình và xã hội. Đạo
gia cho rằng bản tính của nhân loại có khuynh hướng trở về cuộc sống với tự
nhiên, hướng con người vào cuộc sống thanh cao trong sạch, gần gũi với thiên
nhiên, tránh cuộc sống chạy theo nhu cầu vật chất. Phật giáo khuyên con người
ăn hiển ở lành, không sát sinh, không làm hại người khác. Nho gia hướng con
người vào tu thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất,
luôn được đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Quan điểm về vũ trụ, nhân
sinh, nhận thức luôn thấm đượm ý thức đạo đức, tất cả mọi vấn đề đều lấy đạo
đức làm chuẩn, do đó vấn đề thiện và ác của con người thành tiêu điểm tranh
luận quan trọng nhất của lịch sử triết học Trung Quốc.
Trong tư tưởng về xã hội lý tưởng và con đường trị quốc, theo Khổng Tử, xã
hội lý tưởng là một xã hội đại đồng. Đặc trưng cơ bản của xã hội này là thái
bình ổn định, có trật tự kỷ cương, mọi người được chăm sóc bình đẳng và mọi
cái đều là của chung; đó là xã hội có đời sống vật chất đầy đủ, có quan hệ người
với người tốt đẹp; đó là xã hội có giáo dục, mọi người trong xã hội được giáo
hóa8.
Như vậy, có thể thấy, sự ra đời và phát triển của các học phái tư tưởng triết
học Trung Hoa thường xuyên chịu sự chi phối trực tiếp của những vấn đề chính
trị. Những kiến giải về vũ trụ quan của triết học Trung Hoa mang tính biện
chứng sâu sắc, nhưng vẫn có sự đan xen giữa các quan điểm duy vật và duy tâm,
biện chứng và siêu hình.
2.2. Triết học phương Tây
Theo nghĩa rộng, triết học phương Tây là hệ thống quan điểm, quan niệm của
người phương Tây thể hiện qua các trào lưu, tư tưởng triết học kể từ khi xuất
hiện triết học Hy Lạp cổ đại cho đến các trào lưu, tư tưởng triết học phương Tây
ngày nay. Theo nghĩa hẹp, triết học phương Tây được xem như các trào lưu,
quan điểm triết học đương đại và thường được hiểu là triết học ngồi mácxít9.
8
9
GS. Bùi Thanh Quất, Lịch sử triết học, NXB Giáo Dục Hà Nội 1999, trang 110.
Bùi Đăng Duy, Triết học phương Tây hiện đại, NXB Khoa Học Xã Hội 1996, trang 13.
7
lOMoARcPSD|15963670
Lịch sử triết học phương Tây cổ, trung, cận, hiện đại là lịch sử trên hai ngàn
năm phát triển của các hệ thống triết học từ Hy Lạp cổ đại đến một số trào lưu
triết học hiện đại xuất hiện trong thế kỷ XX.
2.2.1. Triết học Hy Lạp cổ đại
Ra đời và tồn tại gần một thiên niên kỷ, triết học Hy Lạp cổ đại là toàn bộ
những học thuyết đã phát triển trong xã hội chiếm hữu nô lệ cổ Hy Lạp từ thế kỷ
VI trước công nguyên (tr.CN) và thời kỳ Hy Lạp hóa từ thế kỷ II tr.CN đến thế
kỷ V sau công nguyên. Do sự khác biệt về phạm vi vùng văn hoá, khuynh hướng
triết học Hy Lạp cổ đại nghiêng về thảo luận khách thể, thể hiện chủ nghĩa lý
tính, hướng về khoa học, khách quan. Triết học Hy Lạp ra đời có mối quan hệ
chặt chẽ với thần thoại và các hình thức sinh hoạt tôn giáo nguyên thủy. Ở
những bước đi ban đầu triết học Hy Lạp một mặt muốn dùng lý trí của con
người để giải thích các vấn đề liên quan đến cuộc sống của con người, mặt khác
muốn làm rõ các vấn đề của thần thoại bằng lý trí. Hầu hết các hệ thống triết học
đều chứa đựng những yếu tố thần thoại. Ra đời trong điều kiện trình độ nhận
thức của loài người chưa phát triển, tri thức mọi mặt chưa cao, triết học đóng vai
trị là dạng nhận thức phổ quát, bao trùm về mặt lý luận của triết học lên tất cả
các lĩnh vực của nhận thức, hy vọng lý giải những vấn đề lý luận của khoa học
cụ thể cịn ở tình trạng tản mạn, sơ khai, trực quan. Triết học được xem như
“khoa học của các khoa học”, còn các triết gia là những nhà khoa học thực sự,
có hiểu biết sâu các lĩnh vực được gọi là “những nhà thơng thái”. Vì vậy, đặc
trưng rõ nét của triết học Hy Lạp cổ đại là mang tính chất tổng hợp, nhằm đưa ra
một bức tranh tổng quát về thế giới. Trong quá trình vận động và phát triển của
nền triết học tự nhiên Hy Lạp cổ đại, xu hướng chung của các trường phái triết
học là đi sâu giải quyết vấn đề bản nguyên và phép biện chứng – là những vấn
đề rất cơ bản của triết học10.
Lịch sử triết học cổ đại Hy Lạp là lịch sử hình thành và phát triển thế giới
quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Nét nổi bật của chủ nghĩa duy vật Hy
Lạp cổ đại là tính chất mộc mạc, thơ sơ, nhưng chính quan niệm duy vật thơ sơ
này đã có tác dụng rất lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, chống
tôn giáo, chống thần học cổ đại.
2.2.2. Triết học Tây Âu thời trung cổ
Xã hội Tây Âu thời trung cổ là thời kỳ lịch sử ngàn năm (tính từ thế kỷ V đến
XV sau cơng ngun), đây là thời kỳ hình thành và phát triển của phương thức
sản xuất phong kiến, là giai đoạn thực hiện bước chuyển từ chế độ chiếm hữu nô
lệ sang xã hội phong kiến.
Xét về triết học và khoa học thời kỳ này là một bước lùi so với thời Cổ đại.
Triết học Tây Âu trung cổ bị chi phối mạnh bởi tư tưởng thần học và tôn giáo
của thiên chúa giáo. Triết học thời kỳ này mang đậm tính tơn giáo, hầu hết các
nhà triết học là thần học, và một trong những đặc điểm nổi bật là chứng minh sự
tồn tại của thượng đế, và chứng minh cho những tín điều tơn giáo của nhà thờ.
Triết học thời kỳ này với đặc trưng bao trùm là triết học kinh viện, được nghiên
cứu sáng tạo chủ yếu bởi các nhà triết học thần học trong các cơ sở giáo dục của
10
GS. Bùi Thanh Quất, Lịch sử triết học, NXB Giáo Dục Hà Nội 1999, trang 113.
8
lOMoARcPSD|15963670
cơ đốc giáo (tu viện, trường dịng), do đó nó xa rời thực tiễn của xã hội và con
người. Triết học tập trung giải quyết một vấn đề xuyên suốt và cũng là vấn đề
trung tâm: mối quan hệ giữa niềm tin tơn giáo và trí tuệ lý trí của con người; và
họ coi niềm tin tôn giáo giữ vị trí vai trị hàng đầu trong quan hệ với lý trí.
Các nhà triết học đều giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng (giữa
khái niệm và các sự vật riêng lẻ), trên cơ sở đó nảy sinh hai khuynh hướng triết
học phổ biến là chủ nghĩa Duy thực và chủ nghĩa Duy danh. Cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa Duy thực và chủ nghĩa Duy danh là biểu hiện của cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa Duy tâm của thời Trung cổ11.
2.2.3. Triết học Tây Âu thời Phục hưng và Cận đại
Thời kỳ hình thành phương thức sản xuất tư bản ở Tây Âu chia làm hai giai
đoạn Phục hưng và Cận đại. Giai đoạn Phục hưng (tính từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XVI ) là giai đoạn bắt đầu hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Triết học thời kỳ này chưa thoát hết yếu tố duy tâm, các yếu tố duy tâm và duy
vật vẫn đan xen nhau. Giai đoạn Cận đại (tính từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII)
là giai đoạn hình thành các dân tộc, các quốc gia tư sản. Đây là thời kỳ thắng lợi
của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm, của những tư tưởng vô thần
đối với hữu thần luận.
Ở giai đoạn Phục hưng chủ nghĩa nhân đạo phát triển, những di sản văn hóa
Hy Lạp cổ đại được khơi phục, những yếu tố tích cực của triết học Kinh viện
được thừa kế, những thành tựu của khoa học tự nhiên được vận dụng, đã khiến
cho triết học thời kỳ Phục hưng khơng cịn đóng vai trị tơi tớ của thần học. Tuy
các quan niệm triết học về tự nhiên thời kỳ này chưa triệt để, nhưng phương
hướng phát triển của nó là đã góp phần khẳng định sự chiến thắng của thế giới
quan duy vật với thế giới quan duy tâm, khoa học với thần học.
Ở giai đoạn Cận đại, sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
sự lớn mạnh của giai cấp tư sản, sự phát triển của khoa học tự nhiên thực
nghiệm là cơ sở cho chủ nghĩa duy vật có bước phát triển mới về chất trong việc
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, nhận thức luận, vấn đề con người và xã
hội12.
Triết học duy vật thời Phục hưng và Cận đại gắn bó mật thiết với sự phát triển
của khoa học, biểu hiện rõ quy luật đặc thù về sự phát triển của triết học duy vật;
gắn liền với vấn đề con người và giải phóng con người. Thời trung cổ, do ảnh
hưởng của thế giới quan tôn giáo, bản nguyên thế giới là một thực thể tinh thần,
con người là sản phẩm của Chúa, chỉ biết thờ phụng Chúa, cầu mong rửa tội.
Vào thời Phục hưng và Cận đại, sự phát triển của sản xuất, của khoa học đã phủ
định thế giới quan tôn giáo thời Trung cổ và làm rõ vấn đề con người, vị thế con
người và sức mạnh thể lực và tinh thần của con người. Vì vậy, vấn đề trung tâm
của triết học thời kỳ này không phải là vấn đề quan hệ giữa Chúa với thế giới
mà là quan hệ giữa con người với thế giới. Khuynh hướng đề cao con người thể
hiện ở sự phát triển chủ nghĩa nhân đạo đòi huỷ bỏ những trói buộc kinh tế và
11
12
Bộ GD&ĐT, Giáo trình triết học, NXB Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2014, trang 198.
Bùi Đăng Duy, Triết học phương Tây hiện đại, NXB Khoa Học Xã Hội 1996, trang 16.
9
lOMoARcPSD|15963670
văn hóa phong kiến, thừa nhận giá trị con người và cuộc sống trần gian, phủ
định quan điểm con người phụ thuộc vào định mệnh, thần linh, tôn giáo.
2.2.4. Triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư
tưởng triết học phương Tây và thế giới từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ
XIX, có ảnh hưởng lớn đối với triết học hiện đại.
Do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hết sức đặc biệt của nước Đức nên triết
học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức thì rất
“rối rắm” và có tính chất bảo thủ. Triết học cổ điển Đức đề cao vai trị tích cực
của hoạt động con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng
và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Tuy nhiên, các nhà triết học cổ điển
Đức đã thần thánh hố trí tuệ và sức mạnh của con người tới mức coi con người
là chúa tể của tự nhiên. Ngoài ra, triết học cổ điển Đức tiếp thu tư tưởng biện
chứng trong triết học thời cổ đại, từ đó, xây dựng phép biện chứng trở thành
phương pháp triết học đối lập với phương pháp tư duy siêu hình trong việc
nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng đã tạo ra
những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Với việc từng bước khắc phục
những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế kỷ XVII – XVIII, thành quả
lớn nhất của triết học cổ điển Đức là những tư tưởng biện chứng đạt tới trình độ
hệ thống lý luận – điều mà phép biện chứng thời cổ đại Hy Lạp chưa thể đạt
được và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII Tây Âu cũng khơng có khả
năng tạo ra. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là tính chất
duy tâm, những hạn chế này và cả thành quả của triết học cổ điển Đức đã được
triết học Mác khắc phục, kế thừa và nâng lên ở trình độ mới của chủ nghĩa duy
vật hiện đại13.
2.2.5. Triết học phương Tây hiện đại
Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, triết học phương Tây hiện đại dần xa
rời truyền thống duy vật và biện chứng thời cận đại, chuyển sang chủ nghĩa duy
tâm và phép siêu hình, phân hóa thành nhiều trường phái trong đó nổi bật thời
kỳ này là trào lưu triết học duy khoa học, trào lưu triết học nhân bản phi lý tính,
và trào lưu triết học tơn giáo.
Triết học phương Tây hiện đại có ý đồ vượt lên trên sự đối lập giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trào lưu duy khoa học duy tâm nhấn mạnh chống
"siêu hình", trào lưu nhân bản phi lý tính nhấn mạnh việc "chống nhất nguyên
luận", đều nhằm phủ nhận vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề cơ bản
của triết học. Trong khi đó, triết học phương Tây hiện đại coi vấn đề trung tâm
của triết học là logic khoa học, phương pháp luận khoa học, quan hệ giữa ngơn
ngữ và tư duy, tình cảm, ý chí của con người..., tuyên bố chống cả chủ nghĩa duy
vật và duy tâm, coi triết học của họ là tồn diện, cơng bằng nhất. Thực tế, bằng
cách này hay cách khác, triết học phương Tây hiện đại khơng tránh khỏi duy tâm
13
Bộ GD&ĐT, Giáo trình triết học, NXB Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2014, trang 201.
10
lOMoARcPSD|15963670
khi giải đáp vấn đề cơ bản của triết học, giải thích sai lệch hoặc chống phép biện
chứng14.
2.3. Triết học Mác – Lê nin
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
phát triển triết học của nhân loại. Mác và Ăngghen đã kế thừa một cách có phê
phán những thành tựu của tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triệt
để, khơng điều hồ với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Sau đó Lênin đã
vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải quyết những vấn đề của cách
mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Ơng đã có đóng góp to lớn vào sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác
nói chung, triết học Mác nói riêng.
Triết học Mác – Lê nin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên,
xã hội và tư duy – thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới. Triết
học Mác – Lê nin giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường
duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động phát triển chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin thì trong mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức thì vật chất là cái có trước, độc lập với ý thức và quyết định ý
thức. Ngoài ra, thế giới được tạo thành từ các sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau, các sự vật hiện tượng này có mối liên hệ qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau chứ
không tồn tại sự vật hiện tượng cô lập, tách rời với các sự vật hiện tượng khác15.
Như vậy, Triết học Ấn Độ đề cập tới nhiều vấn đề lớn của triết học như vũ trụ
quan, nhân sinh quan và phép biện chứng (mà tiêu biểu là những quan điểm về
bản thể luận, về tính vơ cùng vô tận của thế giới, về biện chứng của quá trình
biến đổi vũ trụ và nhân sinh, và đặc biệt là con người với đời sống tâm linh và
con đường giải thoát). Triết học Trung Hoa cũng đề cập tới vấn đề về vũ trụ, tự
nhiên, xã hội, con người, tư duy…, và mối quan hệ giữa các vấn đề này với nhau
(trong đó triết học về tự nhiên có phần mờ nhạt hơn so với triết học về nhân văn,
tinh thần). Triết học Hy Lạp cổ đại đi sâu giải quyết các vấn đề về bản thể luận
và nhận thức luận triết học – là những vấn đề của mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Ngoài ra, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã nhận thức được và phát hiện
nhiều yếu tố của phép biện chứng như mối quan hệ giữa các sự vật và hiện
tượng, sự vận động vĩnh viễn của vật chất, tính thống nhất của những mặt đối
lập của sự vật,… Triết học Tây Âu thời trung cổ cũng nghiên cứu về thế giới, tự
nhiên, xã hội và tư duy. Nhưng do chịu chi phối mạnh bởi tư tưởng thần học và
tôn giáo của thiên chúa giáo, triết học Tây Âu thời trung cổ mang đậm tính tơn
giáo, thần học, tập trung vào mối quan hệ giữa niềm tin tôn giáo và trí tuệ lý trí
con người, coi niềm tin tơn giáo giữ vị trí vai trị hàng đầu trong quan hệ với lý
trí. Triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại cũng nghiên cứu các vấn đề về
tự nhiên, xã hội và con người (đặc biệt là lĩnh vực khoa học tự nhiên). Tuy nhìn
nhận các sự vật hiện tượng dưới góc độ cơ lập, tách rời, khơng vận động nhưng
14
15
Bùi Đăng Duy, Triết học phương Tây hiện đại, NXB Khoa Học Xã Hội 1996, trang 16.
C.Mác và Ăngghen: Tồn tập, NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội 2004, tập 27, trang 146.
11
lOMoARcPSD|15963670
triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại cũng đã nghiên cứu về mối quan hệ
giữa các sự vật, hiện tượng. Triết học cổ điển Đức nghiên cứu về tự nhiên, xã
hội và con người, trong đó tập trung chủ yếu vào vai trị tích cực của hoạt động
con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất
phát của mọi vấn đề triết học, thần thánh hóa trí tuệ và sức mạnh của con người
tới mức coi con người là chúa tể của tự nhiên. Triết học Mác – Lê nin nghiên
cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nghiên cứu các
sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và mối quan hệ giữa chúng. Nghiên cứu
hai phạm trù vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức…
Qua phân tích và nghiên cứu từng quan điểm và trường phái triết học riêng rẽ
trên, ta nhận thấy có một vài điểm chung sau: (i) các trường phái triết học trên
đều nghiên cứu các hệ thống tri thức và lý luận có tính chung nhất, khái qt
nhất; (ii) đối tượng nghiên cứu đều tập trung vào thế giới, vào các sự vật hiện
tượng của tự nhiên và xã hội, và vào con người ; (iii) trường phái triết học nào
cũng cố gắng làm rõ vai trò của con người đối với thế giới và truy tìm ra quy
luật chi phối mối quan hệ giữa con người và thế giới. Như vậy, 3 đặc trưng trên
chính là “cái chung” và từng quan điểm, trường phái triết học đã phân tích chính
là “cái riêng”.
3 đặc điểm trên nếu đặt riêng, biệt lập thì khơng có ý nghĩa gì cả, nhưng khi
gắn liền với mỗi tư tưởng triết học, nó trở thành những mặt, những tính chất của
tư tưởng triết học đó. Điều này thể hiện tính chất: cái chung chỉ tồn tại trong cái
riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
Ngồi ra, mỗi trường phái triết học trên đều chắc chắn có 3 đặc điểm chung
đã nêu nhưng hơn thế nữa, mỗi trường phái triết học cịn có một số đặc điểm
riêng nổi bật khác, ví dụ triết học Ấn Độ gắn liền với tôn giáo, triết học Trung
Hoa gắn liền với chính trị – xã hội, cịn triết học Hy Lạp cổ đại lại gắn liền với
khoa học tự nhiên… Bên cạnh đó, bất cứ trường phái triết học nào cũng phải có
đối tượng nghiên cứu là về thế giới, về tự nhiên, xã hội, tư duy và con người,
cũng như mối quan hệ giữa các yếu tố này và quy luật chi phối mối quan hệ
đó… Thiếu những đặc điểm này sẽ không được coi là triết học. Tất cả điều này
thể hiện tính chất: cái riêng phong phú hơn so với cái chung, còn cái chung sâu
sắc hơn cái riêng.
Để phát hiện được “cái chung” ta phải xuất phát từ “cái riêng”. Trước đó để
làm rõ được khái niệm và đặc điểm của triết học nói chung, ta phải bắt đầu từ
việc nghiên cứu từng quan điểm và trường phái triết học riêng rẽ, có như vậy
mới nằm bắt đúng, chính xác và đầy đủ các đặc tính chung của triết học.
Qua nhận ra từng “cái chung” – từng đặc điểm chung vốn có của triết học,
vận dụng vào nghiên cứu mỗi quan điểm triết học riêng rẽ – “cái riêng”, ta thấy
cần cá biệt hóa “cái chung” đó cho phù hợp với từng “cái riêng”. Cùng đặc điểm
nghiên cứu về thế giới, con người và mối quan hệ giữa thế giới với con người,
triết học Ấn Độ mang tính chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa hữu thần sâu sắc,
định hình hành vi con người theo hướng hành thiện; triết học Trung Hoa thì lấy
con người và xã hội làm trung tâm nghiên cứu (cịn khoa học tự nhiên thì rất mờ
nhạt), do đó mang tính nhân văn và có sự hài hịa sâu sắc, định hướng con người
12
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
phải được giáo hóa và có đạo đức, đối nhân xử thế phải theo đúng đạo lý và
lương tri; triết học Hy Lạp cổ đại hay triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại
thì chịu ảnh hưởng của khoa học tự nhiên, chủ yếu dùng khoa học tự nhiên để
mơ tả và giải thích thế giới… Do nhằm dùng các tư tưởng này để phục vụ những
mục đích khác nhau nên cùng nghiên cứu về thế giới, con người, mối quan hệ
giữa thế giới với con người mà các trường phái triết học khác nhau có quan
niệm và tư tưởng không giống nhau. Tức khi cần cá biệt hóa cái chung khi muốn
vận dụng để phân tích hoặc nghiên cứu cái riêng, tránh giáo điều, siêu hình và
máy móc.
Có thể thấy, triết học nói chung là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong
thế giới đó. Đây là đặc điểm có chung ở tất cả các trường phái triết học. Mỗi
trường phái triết học ngoài các đặc điểm trung này cịn có thêm một vài đặc
điểm riêng có đặc trung cho trường phái triết học đó. Thơng qua việc nghiên cứu
từng cái riêng (trường phái triết học riêng rẽ) giúp ta hệ thống hóa và đưa ra
được những cái chung (những đặc trưng chung) của vấn đề triết học. Từ đó làm
rõ hơn khái niệm và đặc điểm của triết học nói chung, cũng như làm sáng tỏ
nhiều nét nổi bật riêng biệt của từng trường phái triết học nói riêng.
13
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy vật là khoa học nghiên cứu các mối liên hệ và các quy
luật chung nhất về sự vận động, phát triển của tồn tại và tư duy. Thơng qua khái
qt và phân tích hiện thực khách quan, phép biện chứng duy vật đã đưa ra các
nguyên lý, các phạm trù, các quy luật phản ánh sự vận động, phát triển chung
nhất của thế giới.
Trong phép biện chứng duy vật, mỗi cặp phạm trù có vai trò phương pháp
luận khác nhau. Các cặp cái riêng và cái chung; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản
chất và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận của các phương pháp phân tích và
tổng hợp; diễn dịch và quy nạp; khái qt hóa, trừu tượng hóa để nhận thức
được tồn bộ các mối liên hệ theo hệ thống. Các cặp nguyên nhân và kết quả;
khả năng và hiện thực là cơ sở phương pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự
phát triển của các sự vật, hiện tượng như những quá trình tự nhiên. Cặp nội dung
và hình thức là cơ sở phương pháp luận nắm bắt các hình thức tồn tại hoặc biểu
hiện của đối tượng trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của
các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Triết học là bộ môn khoa học quan trọng cung cấp cho học sinh sinh viên
nhiều phương pháp nghiên cứu và học tập rất hiệu quả. Tuy nhiên do đặc thù có
nhiều khái niệm khá trừu tượng và yêu cầu phải đầu tư nhiều thời gian cho đọc
và nghiên cứu, nên rất nhiều người coi đây là mơn học khó hiểu, khó tiếp thu –
đặc biệt là việc hiểu rõ khái niệm và đặc điểm của triết học. Nhận thấy tầm quan
trọng của việc cần làm rõ khái niệm “triết học” để có thể ứng dụng tốt vào thực
tiễn cuộc sống, nhóm đã tiến hành phân tích khái niệm và đặc điểm của triết học
theo từng quan điểm riêng rẽ (từ không gian – phương Đông sang phương Tây,
đến thời gian – từ thời cổ đại, trung đại tới hiện đại), sau đó tổng hợp lại để đưa
ra được các đặc điểm chung nhất của khái niệm “triết học”, qua đó giúp có cái
nhìn hệ thống và khái qt nhất về khái niệm “triết học” nói chung, cũng như
chỉ ra những điểm nổi bật riêng có của từng trường phái trong định nghĩa về
khái niệm “triết học” nói riêng. Quá trình này chính là đang áp dụng nội dung và
ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “cái riêng và cái chung” trong phép
biện chứng duy vật.
14
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Giáo trình:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học, NXB Đại Học Sư Phạm Hà
Nội 2014.
2. GS. TS. Nguyễn Ngọc Long, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB
Giáo Dục 2016.
3. GS. TS. Phạm Văn Đức, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Giáo
Dục 2019.
* Sách:
1. A.P.Séptulin, Bàn về mối liên hệ lẫn nhau của các phạm trù trong triết học
mácxít, NXB Sự Thật 1999.
2. Bùi Đăng Duy, Triết học phương Tây hiện đại, NXB Khoa Học Xã Hội
1996.
3. C.Mác và Ăngghen: Tồn tập, NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội 2004.
4. GS. Bùi Thanh Quất, Lịch sử triết học, NXB Giáo Dục Hà Nội 1999.
5. Nguyễn Thị Hồng Vân, Tập bài giảng Triết học Mác – Lênin, NXB Giáo
Dục 2012.
6. V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến Bộ 1981.
Downloaded by ng?c trâm ()