PHẦN MỞ ĐẦU
Cái khác căn bản nhất giữa người và động vật là ý thức. Ý thức xã
hội có nhiều hình thái, trong đó tri thức là một hình thái đặc biệt đó là kết
quả của hoạt động sáng tạo. Vì vậy mọi hoạt động nào của con người ln
đi đôi với tri thức.
Kinh tế tri thức phản ánh xu thế của thời đại kinh tế mới là kinh tế
được dẫn dắt bởi tri thức. Việt sản sinh và khai thác tri thức có vai trị nổi
trội trong q trình tạo ra của cải.
Có thể nói rằng việc chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền
Kinh tế tri thức trên thế giới hiện nay là một chuyển biến vô cùng to lớn,
nó vừa đặt ra những thách thức, nhưng đồng thời cũng mang lại khơng ít
cơ hội cho tất cả các nước. Trước tình hình đó mỗi quốc gia, mỗi nền kinh
tế đều có những phản ứng chính sách hết sức khác nhau. Nhìn chung, họ
đều đưa ra những chiến lược và chính sách hay bước đi khác nhau hoặc là
để thích ứng, hoặc là để tiến thẳng vào nền Kinh tế tri thức hoặc là chuẩn
bị những điều kiện cần thiết tối thiểu cho sự ra đời của nền Kinh tế tri
thức. Tuỳ theo hồn cảnh của mình, các nước đều tìm cách tận dụng cơ
hội và cố gắng đối phó với những thách thức này nhằm hoặc chiếm lĩnh vị
trí dẫn đầu hoặc để khỏi bị tụt hậu quá xa so với thời cuộc.
Có thể nói đây là một chuyên đề hay và rất thú vị đang được bàn
luận sơi nổi nhưng nó lại là một vấn đề mới, khó và đang biến động chúng
ta sẽ lần lượt tìm hiểu về "Kinh tế tri thức và vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam hiện nay".
1
PHẦN NỘI DUNG
I. KINH TẾ TRI THỨC – QUAN NIỆM, ĐẶC TRƯNG VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN
HÌNH THÀNH.
Do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc
biệt là công nghệ thông tin (IT), công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công
nghệ năng lượng… từ cuối những năm 1980 đến nay, nền kinh tế thế giới
đang biến đổi rất sâu sắc, mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt
động. Đây thực sự là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại: nền kinh tế
chuyển từ kinh tế công nghiệp sang Kinh tế tri thức, nền văn minh loài người
chuyển từ văn minh cơng nghiệp sang văn minh trí tuệ. Xung quanh vấn đề
này đã có nhiều hội thảo được tổ chức, nhiều cơng trình nghiên cứu được tiến
hành, nhiều sách báo và tạp chí được viết ra với những quan điểm và ý kiến lý
giải hết sức đa dạng và khác nhau.
1. Các cách hiểu khác nhau về “Kinh tế tri thức”.
Theo đánh giá chung của các học giả hàng đầu ở phương Tây thì ngày
nay Kinh tế tri thức chỉ mới đang định hình ở một vài nước cơng nghiệp phát
triển nhất như Mỹ, Đức và Nhật Bản. Vì vậy, chưa thể đưa ra được một định
nghĩ hay một công thức xác định cụ thể thế nào là một nền Kinh tế tri thức.
Tại Việt Nam, thuật ngữ “Kinh tế tri thức” tuy mới xuất hiện nhưng đã
mau chóng thu hút được rất nhiều sự quan tâm của công chúng, giới nghiên
cứu và các nhà hoạch định chính sách. Sau nhiều nghiên cứu và bàn luận
nghiêm túc, đã có một sự đồng thuận về yêu cầu từng bước xây dựng “Kinh
tế tri thức” tại Việt Nam. Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IX đã
nêu rõ: “Phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ cơng nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ
biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát
triển Kinh tế tri thức”.
2
Hiểu rộng nhất, “Kinh tế tri thức” miêu tả hai điều mới có tính nhảy
vọt: một điều mới về khoa học tương ứng với sự phát triển của một tiểu môn
kinh tế độc đáo, mà đối tượng nghiên cứu là tri thức, đặt ra những câu hỏi mới
cả về phương diện lý thuyết lẫn thực nghiệm, và một điều mới có tính lịch sử,
gợi cho người ta nghĩ đến sự ra đời của một thời kỳ lịch sử mới của nền kinh
tế hiện đại. Một số học giả nổi tiếng, chẳng hạn như Howitt (1996) đã không
thừa nhận điều mới về lịch sử vì cho rằng cái mới duy nhất đáng kể là về mặt
lý thuyết. Đối với tác giả này, thời kỳ lịch sử mà chúng ta đang sống là sự nối
tiếp khơng hề có chút dấu vết nhảy vọt nào so với các thời kỳ lịch sử trước
đây. Tuy nhiên, rất nhiều học giả khác tin vào tính hai mặt của Kinh tế tri
thức – vừa là một bộ môn khoa học mới vừa là một thời kỳ lịch sử mới.
Khái niệm Kinh tế tri thức trên thực tế lại được hiểu rất khác nhau. Có
thể phân loại rất tương đối những cách hiểu khác nhau đó vào ba cách tiếp
cận dưới đây:
1.1. Cách tiếp cận hẹp.
Có hai cách hiểu chính về Kinh tế tri thức thuộc cách tiếp cận hẹp.
- Cách hiểu về Kinh tế tri thức với một quan niệm hẹp về tri thức:
Những người theo cách tiếp cận này hiểu “tri thức” với nghĩa hẹp, tức là
đồng nghĩa với khoa học và công nghệ hoặc hẹp hơn nữa là đồng nghĩa với
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, bao gồm 4 công nghệ trụ cột là
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ không gian vũ trụ, và
công nghệ vật liệu mới. Cách hiểu này có thể được đại diện bởi thuật ngữ
“Nền Kinh tế công nghệ cao”. Hoặc hẹp hơn nữa, nhấn mạnh vào vai trò to
lớn và độc nhất của cơng nghệ thơng tin, người ta có thể sử dụng các thuật
ngữ “kinh tế thông tin”, “kinh tế mạng”, “kinh tế số hố” và “kinh tế khơng
gian điều khiển học”,…
1.2. Cách tiếp cận rộng.
Cách tiếp cận này dựa trên cách hiểu rộng về Kinh tế tri thức, tức là
mọi hiểu biết của con người đối với bản thân và thế giới. OECD đã phân ra
bốn loại tri thức quan trọng: đó là biết cái gì, biết tại sao, biết như thế nào và
3
biết ai. Kinh tế tri thức khơng chỉ có ngun nhân từ sự tiến bộ vượt bậc của
các công nghệ mà là kết quả của một tập hợp ba nhóm nguyên nhân trực tiếp
tác động tương tác và tự tăng cường lẫn nhau, bao gồm tiến bộ khoa học, kỹ
thuật; nền kinh tế tồn cầu hố cạnh tranh quyết liệt; và các biến đổi về văn
hố, chính trị, tư tưởng của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Cách tiếp cận rộng này
cũng có hai nhánh tiếp cận gần tương tự nhau:
- Từ khía cạnh lực lượng sản xuất: Kinh tế tri thức là trình độ phát triển
cao của lực lượng sản xuất. Trong đó lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận
chính là các cơng cụ sản xuất và con người. Cách hiểu này nhấn mạnh rằng
Kinh tế tri thức chỉ là một nấc thang phát triển của lực lượng sản xuất, tuyệt
nhiên khơng liên quan tới một hình thái kinh tế – xã hội.
- Từ khía cạnh sự đóng góp của tri thức vào phát triển kinh tế: Cách
quan niệm này diễn giải định nghĩa của OECD đã nêu ở trên theo đúng nghĩa
đen của nó, tức là tri thức, hay cụ thể hơn là những hoạt động sản xuất, truyền
bá và sử dụng tri thức, đã vượt qua vốn và lao động để trở thành nguồn lực
chi phối mọi hoạt động tạo ra của cải trong nền Kinh tế tri thức. Trong đó, tri
thức là một khái niệm rộng, bao trùm mọi hiểu biết của con người.
1.3. Cách tiếp cận bao trùm.
Theo cách tiếp cận này, Kinh tế tri thức thực chất là một loại môi
trường kinh tế – văn hố - xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận
lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức
tất yếu sẽ trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất đóng góp vào sự phát
triển kinh tế. Do vậy, cốt lõi của việc phát triển một nền Kinh tế tri thức
không phải đơn thuần là phát triển khoa học công nghệ, mà là phát triển một
nền văn hoá đổi mới, sáng tạo để thuận lợi nhất cho việc sản xuất, khai thác
và sử dụng mọi loại tri thức, mọi loại hiểu biết của nhân loại. Xét theo nghĩa
này, Kinh tế tri thức có thể được hiểu như một giai đoạn phát triển mới của
toàn bộ nền kinh tế hoặc nói rộng hơn, điều này sẽ dẫn tới một giai đoạn phát
triển mới của xã hội nói chung. Ngày càng có nhiều người ủng hộ cách tiếp
cận này.
4
Như vậy, tuỳ theo quan điểm và mục đích nghiên cứu riêng, có thể lựa
chọn một trong ba cách hiểu như trên về khái niệm Kinh tế tri thức. Khó có
thể nói cách hiểu nào đúng, cách hiểu nào sai, bởi vì hiện nay chưa có những
mốc chuẩn trên thực tế cho khái niệm Kinh tế tri thức.
Tóm lại, thuật ngữ Kinh tế tri thức là một thuật ngữ có thể được diễn
giải với độ tuỳ biến cao. Tuỳ thuộc vào dự định ban đầu, người ta có diễn giải
định nghĩ gốc của thuật ngữ này (OECD, 1996) theo những cách hoàn toàn
khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay đang nổi lên xu hướng chấp nhận cách hiểu
bao trùm đối với thuật ngữ “Kinh tế tri thức”, tức là nhấn mạnh đến việc tạo
dựng một môi trường kinh tế – xã hội tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự sản
sinh, phổ biến và sử dụng tri thức. Trong môi trường đó, việc chuyển biến tri
thức thành sức mạnh sản xuất đạt tới trình độ cao và tri thức trở thành yếu tố
sản xuất quan trọng nhất.
2. Những đặc trưng chủ yếu của nền Kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác nhau so với các nền
(hình thái) kinh tế trước nó. Những đặc điểm này cịn đang định hình và tiếp
tục được phát hiện chứ chưa phải đã bộc lộ đầy đủ. Tuy nhiên, có thể nêu bốn
đặc trưng cơ bản có tính xun suốt.
Thứ nhất, tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ năng
cao là lực lượng sản xuất thứ nhất, là lợi thế phát triển quyết định.
Đặc điểm lớn nhất làm Kinh tế tri thức khác biệt với Kinh tế công
nghiệp và Kinh tế nông nghiệp là tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất của
sản xuất, hơn cả cơ bắp và tài nguyên thiên nhiên.
Trong nền kinh tế, yếu tố sản xuất quý nhất, động lực quan trọng nhất
cho sự phát triển kinh tế là tri thức và lao động có trình độ và kỹ năng cao. Tri
thức trở thành nội dung chủ yếu của sản xuất, phân phối và tiêu thụ. Đúng
như ông Peter, một giám đốc cơng ty Mỹ, nói rằng, “Chức năng của nền sản
xuất hiện đại là sản xuất và phân phối tri thức, thông tin, chứ không phải là
sản xuất và phân phối vật chất”. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo nên sự
tăng trưởng kinh tế. Sự cống hiến của tri thức và kỹ thuật đối với tăng trưởng
5
kinh tế ngày càng lớn. Rất nhiều ngành nghề trong nông nghiệp và công
nghiệp đang trở thành những ngành nghề trí tuệ.
Trong nền Kinh tế tri thức, tri thức khơng có những vai trị sáng tạo,
truyền bá mà cịn có vai trị truyền thơng, sử dụng, trở thành nguồn lực của
sản xuất, vì vậy lấy ngành sản xuất dựa trên tri thức làm ngành sản xuất thứ tư
có thể sẽ là một điều xác đáng. Do vậy đầu tư phát triển tri thức là đầu tư chủ
yếu nhất. Điều này khơng có nghĩa là nền kinh tế khơng cần vốn, nguồn tài
nguyên thiên nhiên và nhân lực nữa, trái lại, các yếu tố này về mặt giá trị còn
được đầu tư với số lượng đáng kể hơn, thậm chí đối với trang thiết bị, máy
móc cơng nghệ cao cịn cần đầu tư với một lượng vốn rất lớn, song vốn vơ
hình (như thơng tin, tri thức, kỹ năng lao động, cơng nghệ) cịn có giá trị cao
hơn gấp bội, trở thành yếu tố quan trọng nhất, phần vốn cơ bản nhất.
Trong tương lai gần, khả năng khai thác tri thức trở thành chủ yếu thay
cho khai thác tài nguyên thiên nhiên đã bị cạn kiệt. Các công nghệ cao cho
phép khai thác tài nguyên ở mức độ thấp nhưng tạo ra sản phẩm giá trị hết sức
cao. Ví dụ, năng lượng lấy từ hydrô nặng trong nước cho phép khai thác năng
lượng từ 1 lít nước bằng 300 lít xăng hoặc từ vài gram đá silic (SiO 2) trước
đây bị coi là vơ giá trị có thể tạo thành mạch tổng hợp IC (chíp) trong máy vi
tính có giá trị bằng cả tấn thép. Tất cả điều này đạt được là nhờ vào các vật
liệu thông minh và vốn kiến thức, trí tuệ để sáng chế ra chúng.
Thứ hai, Kinh tế tri thức là nền kinh tế có cấu trúc mạng toàn cầu.
Nền Kinh tế thế giới hiện đang được cấu trúc thành một mạng lưới toàn
cầu. “Mạng” là thuộc tính phân biệt chủ yếu hệ thống này với các hệ thống
trước. Về bản chất, hệ thống mạng được cấu trúc “ngang”, khác căn bản với
các nền kinh tế trước đây vận động trong cấu trúc chủ đạo là hình tháp (cấu
trúc “dọc”). Đây là cơ sở để nói đến tính cách mạng hay bước ngoặt lịch sử
của q trình chuyển sang Kinh tế tri thức đang diễn ra. Mạng lưới toàn cầu
của nền Kinh tế tri thức được kiến tạo bởi:
- Các “chất liệu” phát triển cơ bản khác trước (những cơng cụ mới như
máy tính, mạng viễn thơng, mạng Internet, các loại vật liệu mới, công nghệ
6
“gen”, thương mại điện tử,…), những nhân vật mới (tầng lớp các nhà kỹ trị
đóng vai trị quyết định, người lao động tri thức, các “siêu” công ty xuyên
quốc gia…) nên cũng vận động theo nguyên lý mới.
- Hệ thống phân cơng lao động quốc tế – tồn cầu thay cho hệ thống
phân công lao động quốc tế – quốc gia. Đây là một cấu trúc mới về nguyên
tắc. Nó vận động theo những quy tắc sản xuất thương mại và tài chính mới
(các thể chế và “luật chơi” tồn cầu mới (WTO thay GATT, WB và IMF
hoạt động với các chức năng và sứ mệnh đang được đòi hỏi phải thay đổi, tự
do hố thơng tin và tri thức,…) trong khơng gian tồn cầu hố. Đặc trưng của
khơng gian tồn cầu hố là thời gian ngắn lại, khơng gian thu hẹp và các
đường biên giới mất dần.
- Quá trình phi tập trung háo cấu trúc kinh tế – xã hội. Cấu trúc mạng
gắn với quá trình phi tập trung hố cấu trúc. Q trình đơ thị hố diễn ra theo
những xu hướng và quy tắc mới. Các đô thị khổng lồ khơng cịn là sự lựa
chọn duy nhất và dường như ngày càng không phải là sự lựa chọn chủ yếu.
Khái niệm văn phòng, chỗ làm việc tập trung hàng chục, hàng trăm, thậm chí
hàng nghìn người kiểu cơng xưởng đã thay đổi mạnh mẽ khi công việc chủ
yếu của xã hội là sản xuất tri thức, được tiến hành trong mơi trường tự động
hố cao trên cơ sở mạng thơng tin, với các cơng cụ chính là máy vi tính nối
mạng.
Bên cạnh đó, nền Kinh tế tri thức cũng tự nó nảy sinh những cơ chế
ngăn chặn vơ hình. Khơng có những chìa khố cần thiết thì khơng thể bước
vào xã hội này. Tri thức, hiểu biết chính là những chìa khố đó. Một ví dụ
đơn giản nhất là, xã hội thơng tin, khơng có ngoại ngữ (cụ thể là tiếng Anh)
và kiến thức cần thiết về tin học thì khơng thể hội nhập vào xã hội thơng tin
được. Xã hội Kinh tế tri thức không chỉ đơn thuần dừng lại ở đó, vì vậy,
những u cầu tối thiểu để hội nhập cũng sẽ không chỉ dừng lại ở đó. Việc
trang bị những kiến thức tồn diện và những hiểu biết chun sâu nhất định
có vai trị sống còn đối với mỗi cá nhân trong xã hội.
Thứ ba, tốc độ biến đổi cực kỳ cao.
7
Đặc điểm quan trọng bậc nhất của Kinh tế tri thức là tốc độ biến đổi
cực kỳ cao. Nó thể hiện ở tốc độ sản sinh tri thức, ở tốc độ thay đổi về giá cả,
ở tốc độ ứng dụng các phát minh khoa học vào thực tiễn, và hệ quả đi liền là
tốc độ biến đổi của đời sống trên mọi phương diện – kinh tế, văn hố, chính
trị, xã hội – ngày càng cao.
Theo một số tính tốn, hiện nay, sau mỗi 15 năm, lượng tri thức của
loài người được nhân đôi và với cấp độ chất lượng khác hẳn. Nhưng cũng có
ý kiến khác cho rằng, quãng thời gian đó hiện nay ngắn hơn nhiều. Một nhà
khoa học đã nhận định: Tri thức của loài người ở thế kỷ 19 cứ 50 năm thì
tăng gấp đơi; sang đầu thế kỷ 20, cứ 30 năm tăng gấp đôi; vào giữa thế kỷ 20,
cứ 10 năm tăng gấp đôi; đến những năm 1970, cứ 5 năm tăng gấp đôi; tới
những năm 1980, cứ 3 năm tăng gấp đơi. Có thể nói, càng lùi vào q khứ, thì
qng thời gian nhân đôi tri thức càng lớn, đo bằng thế kỷ và thiên niên kỷ.
Thứ tư, nền Kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy toàn cầu làm thị trường.
Tri thức và thơng tin lưu động khơng có biên giới, làm cho nền Kinh tế
tri thức và thông tin hoạt động mang tính tồn cầu. Các nhân tố cơ bản của
sản xuất kinh doanh như sản xuất, quản lý sản phẩm, sức lao động, thông tin,
công nghệ, nhất là vốn lưu động xuyên quốc gia. Các mối quan hệ và hợp tác
kinh tế, cơng nghệ giữa các xí nghiệp ngày càng được tăng cường, đồng thời
cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt trên cả bình diện trong nước lẫn quốc tế.
Bốn đặc trưng trên là những thuộc tính chủ yếu của Kinh tế tri thức.
Chúng cũng là nguồn gốc của mọi cơ may và rủi ro phát triển, nhất là đối với
các nền kinh tế lạc hậu. Mối quan hệ này biểu hiện ra thành hai loại thách
thức. Thứ nhất là thách thức gia nhập và sinh tồn trong mạng (hay hội nhập và
cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu). Thứ hai là thách thức đua tranh tốc độ
để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu trong sự phát triển. Vấn đề thời cơ phát triển
được hiểu là yếu tố tổ hợp của hai thách thức đó.
3. Những điều kiện cơ bản hình thành nền Kinh tế tri thức.
Trước hết, phải khẳng định ngay rằng, Kinh tế tri thức không phải là
một bước nhảy đột biến, hay một sáng tạo của một lý thuyết nào đó, mà là
8
hình thái phát triển cao hơn – có tính tiến hoá - của nền kinh tế thị trường phát
triển cao. Chính sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hố đến mức
cao độ ở các nước cơng nghiệp phát triển nhất đã tạo tiền đề cho sự ra đời của
nền Kinh tế tri thức ở các nước đó và các nước đang phát triển muốn tiến đến
nền Kinh tế tri thức thì cũng khơng có cách nào khác là phải chuẩn bị và cố
gắng tạo cho mình có được những tiền đề đó.
Kinh nghiệm thực tế từ các nước phát triển và đang phát triển, đã được
hầu hết các chuyên gia, trong đó có Ngân hàng Thế giới, tổng kết, cho thấy có
những tiền đề cơ bản mà bất cứ một quốc gia nào, dù nước đó đã và đang tiến
thẳng vào nền Kinh tế tri thức hay đang tìm cách tiếp cận với nền Kinh tế tri
thức, cũng cần phải tạo ra là:
- Một nền kinh tế thị trường phát triển cao với các thị trường tài chính
hoạt động hữu hiệu cả trên bình diện quốc tế lẫn trong nước.
- Một hệ thống giáo dục và đào tạo tốt tạo ra nguồn nhân lực có chất
lượng và một hệ thống đổi mới quốc gia năng động trong đó doanh nghiệp,
viện nghiên cứu, trường đại học và các tác nhân liên quan khác sẽ tương tác
một cách hiệu quả để tạo ra, phổ biến và sử dụng tri thức, đổi mới cơng nghệ
và sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện vị trí quốc
gia. có thể nói, tri thức, nhất là những tri thức “nguồn”, không thể ra đời, tồn
tại, phát triển và phổ cập nhanh được ở những nước có trình độ dân trí thấp và
một hệ thống nghiên cứu khoa học thiếu tính hợp tác và đổi mới.
- Cơ sở hạ tầng thơng tin, trong đó có cơng nghệ tin học và thông tin,
phát triển cao độ. Đây là một trong những điều kiện căn bản nhất đảm bảo sự
phát triển của Kinh tế tri thức. Nó khơng những là một ngành kinh tế then
chốt sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tri thức, mà còn là điều kiện đảm bảo hiệu
quả của việc tiếp cận, trao đổi, xử lý thông tin, sáng tạo tri thức của các ngành
kinh tế – xã hội khác. Ngồi ra, cơng nghệ tin học và thơng tin phát triển cao
độ có những đóng góp tích cực vào việc nâng cao tri thức cho người tiêu thụ
bình thường, giúp họ nâng cao khả năng sử dụng tri thức.
9
- Sau cùng nhưng quan trọng hơn cả, đó là Kinh tế tri thức chỉ có thể
hình thành và phát triển được ở những Nhà nước pháp quyền dân chủ, nơi mà
doanh nghiệp có thể lường trước được mọi rủi ro trong kinh doanh trên cơ sở
một môi trường hiệu quả, an tồn và ổn định cho việc hình thành, sản xuất và
tiêu thụ tri thức. Đó trước hết phải là một mơi trường thể chế và kích thích
kinh tế hướng đầu tư vào tri thức và khai thác một cách có hiệu quả tri thức
cho phát triển kinh tế (tức là những điều kiện quản lý xã hội), một môi trường
pháp lý rõ ràng, ổn định không bị thay đổi một cách tuỳ tiện, bảo đảm tự do
hoàn toàn cho việc tiếp cận, trao đổi và xử lý thông tin, trong đó giá trị Tri
thức được bảo vệ bằng Luật sở hữu trí tuệ; sở hữu tư nhân phải được tôn
trọng và bảo vệ.
II. ĐỔI MỚI TƯ DUY.
Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, Kinh tế tri thức ln địi hỏi một
năng lực đổi mới tư duy, nên để có thể tạo dựng và phát triển được nền Kinh
tế tri thức, mỗi nước, cả các chính khách, các nhà quản lý hành chính kinh tế
lẫn xã hội, các nhà doanh nghiệp và nhân dân nói chung, phải có nhận thức
mới về nền kinh tế mới hiện nay, thấy rõ được tính kế thừa và khác biệt của
nó, nắm được các điều kiện phát triển và vận hành của nó, nắm được các điều
kiện phát triển và vận hành của nó những tác động mới do nó đẻ ra, những lợi
thế cũng như thách thức mà nó đặt ra,… Có như vậy, họ mới có thể có được
quyết tâm và những chính sách và biện pháp đúng để xây dựng và ủng hộ nền
kinh tế mới này.
Bằng chứng đến nay cho thấy, việc Mỹ và phần lớn các nước EU đã
vượt trội so với các nước Châu Á, trong đó có cả Nhật Bản, và các nước thuộc
châu lục khác trong việc xây dựng nền Kinh tế tri thức không chỉ là do họ có
những điều kiện xuất phát về kinh tế và kỹ thuật cao hơn, mà trước hết là do
các nước này đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của nền Kinh tế tri
thức, tính tất yếu của nó, những điều kiện cần thiết cho sự ra đời và phát triển
của nền kinh tế này. Họ đã hiểu rõ rằng công nghệ IT và rộng hơn là nền Kinh
tế tri thức khơng những địi hỏi những điều kiện ra đời và phát triển khác hẳn
và một khi nó xuất hiện (dù manh 10nha) nó cũng khiến cho các điều kiện
cũ trở nên lỗi thời một cách nhanh chóng, do đó họ đã sớm có những giải
pháp đúng đắn để phát triển hoặc tạo điều kiện cho sự ra đời của nền Kinh tế
tri thức. Trong khi đó, ở khơng ít nước Châu Á, Châu Phi, Mỹ Latinh, người
ta vẫn còn hết sức mơ hồ về nền Kinh tế tri thức cùng những khái niệm, các
yếu tố cấu thành và vấn đề của nó. Đúng là do khó khăn nhiều mặt, nhiều
nước vẫn còn phải vật lộn với “cơm áo hàng ngày”, chưa thể toàn tâm toàn
sức và chưa thể có đủ điều kiện cho việc xây dựng nền Kinh tế tri thức, thậm
chí nhiều người cịn nghĩ rằng tuồng như đó chỉ là vấn đề của các nước Âu
Mỹ xa xôi. Cho nên, ở một số nước này, sự đầu tư cho việc phát triển khoa
học công nghệ, trước hết là công nghệ IT, và cho việc xây dựng nền Kinh tế
tri thức chưa dành được sự nhất trí, ủng hộ và do đó chưa trở thành mục tiêu
chung của toàn xã hội. Ở nhiều nước, người ta vẫn bám lấy và coi trọng
những tư duy và những thể chế cũ, một thời được coi là nguyên nhân tạo ra sự
thành công kinh tế của họ, và hậu quả là những nước này đã bị lạc hậu tương
đối so với các nước Âu Mỹ trong việc phát triển khoa học công nghệ và trong
việc tiến đến nền Kinh tế tri thức. Điển hình cho những nước này phải kể đến
Nhật Bản. Thực tế nhiều năm qua đã khiến các chuyên gia đi đến kết luận
rằng, để không tiếp tục bị tụt hậu xa so với phương Tây về khoa học và cơng
nghệ và trong q trình tiến đến nền Kinh tế tri thức, các nước Châu Á trước
hết phải đổi mới tư duy cho phù hợp với thời đại mới, phải cố gắng đầu tư vào
công nghệ, đồng thời, phải tạo điều kiện cho người dân ở các nước này có
điều kiện và biết cách áp dụng cơng nghệ cao vào những vấn đề của cuộc
sống hàng ngày. Tuy vậy, những cuộc điều tra gần đây cho thấy, trong khi các
nước Âu, Mỹ đang hăng hái lao vào hoạt động kinh doanh điện tử, thì các
cơng ty Châu Á, thậm chí cả Nhật Bản, dường như khơng muốn tham gia vào
hoạt động này lắm. Một cuộc điều tra vào đầu năm 2000 của công ty
International Card cho thấy, hầu hết các giám đốc điều hành của các công ty
hàng đầu Châu Á đều không cho rằng, thương mại điện tử là có lợi cho họ.
Tại Singapore, một cuộc điều tra của Chính phủ cho thấy, 63% các cơng ty ở
đó khơng thích kinh doanh trên mạng điện tử. Các chuyên gia này còn cho
11
rằng, các nước Châu Á không những phải tăng cường đầu tư cho việc phát
triển cơng nghệ cao vì một nền Kinh tế tri thức mà còn phải thay đổi thái độ
đối với những thể chế kinh tế hiện nay và đối với công nghệ mới. Trong thực
tế, sự thay đổi này đang diễn ra, song không đơn giản và dễ dàng, nhất là đối
với một khu vực có rất nhiều thể chế và tập quán truyền thống (hoặc xưa cũ)
kìm giữ tính độc lập cá nhân và lối suy nghĩ sáng tạo của con người. Bởi vậy,
theo các chuyên gia, nếu xu hướng này tiếp tục, Châu Á sẽ cần phải mất nhiều
thời gian hơn để đuổi kịp phương Tây về khả năng khoa học cho một “Nền
kinh tế mới”.
Đó là trên bình diện quốc gia, cịn trên bình diện quốc tế, bình diện tồn
cầu, do những điều kiện, lợi ích và chủ yếu là nhận thức khác nhau, nên các
nước, ngay cả các nhóm nước lớn, cũng tồn tại những chính sách rất khác
nhau về cung cách xây dựng các yếu tố của nền Kinh tế tri thức. Chẳng hạn,
hiện nay, trong khi Mỹ tỏ ra rất hào hứng trong việc ủng hộ buôn bán tự do
trên mạng bằng cách kêu gọi bãi bỏ nhanh chóng những trở ngại đối với
thương mại và tài chính điện tử, thì các nước EU và Nhật Bản lại kịch liệt
phản đối. Điều đó chắc chắn sẽ tác động làm chậm lại q trình ra đời của nền
Kinh tế tri thức tồn cầu, cũng như ở từng nước và kéo dài sự chênh lệch về
trình độ phát triển của các nền kinh tế số trên thế giới.
Đúng như Peter Drucker, một học giả nổi tiếng về kinh tế và quản lý
hiện đại, đã từng viết (1998): “Cuộc cách mạng thông tin đang trên đường
tiến tới. Đó khơng đơn thuần chỉ là cuộc cách mạng về cơng nghệ, về máy
móc, về kỹ thuật, về phần mềm hay về tốc độ, mà trước hết đó phải là cuộc
cách mạng về các quan niệm, về đổi mới tư duy,…”.
* Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Động lực của nền Kinh tế tri thức thể hiện ngay chính trong khái niệm
của nó, đó là tri thức. Khác với các mơ hình kinh tế truyền thống dựa chủ yếu
vào sức lao động và tài nguyên, trong nền Kinh tế tri thức, khả năng sáng tạo
tri thức, trình độ tiếp cận và vận dụng tri thức hiện đại trong sản xuất các giá
trị vật chất và tinh thần trở thành mang ý nghĩa quyết định thúc đẩy nền kinh
12
tế. Tất cả những thứ đó đều gắn chặt với con người và do con người sản sinh
ra. Cho nên để tiến tới nền Kinh tế tri thức, trước hết và chủ yếu cần chú trọng
phát triển một cách toàn diện nguồn nhân lực, khuyến khích và bồi dưỡng
nhân tài. Nói một cách ngắn gọn, lĩnh vực đầu tư quan trọng nhất để thúc đẩy
nền Kinh tế tri thức phát triển chính là đầu tư vào vốn con người, làm thế nào
để có thể đào tạo, thu hút và sử dụng tốt nhân tài. Đào tạo nguồn nhân lực
trong kỷ nguyên của nền Kinh tế tri thức phải hướng tới mục tiêu biến tri thức
thành kỹ năng, tri thức phải thành trí lực và suy rộng ra – như đánh giá của
nhiều học giả - dân trí phải trở thành nhân lực. Đây cũng chính là hướng tổng
quát nhất của sự nghiệp đào tạo nói chung nhằm phục vụ nền Kinh tế tri thức
của tất cả các nước.
Với sự hình thành nền Kinh tế tri thức, nhân loại đang quá độ sang một
thời đại văn minh mới mà ở đó quyền lực tri thức được khẳng định rõ rệt.
Việc đào tạo nguồn nhân lực đặt ra vấn đề vừa phải cung cấp tri thức, vừa
phải trang bị công nghệ (cách làm) giúp cho con người hoạt động sáng tạo và
phát triển trình độ chun mơn, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ lao động, tức là tay
nghề và lương tâm nghề nghiệp.
Một trong những đặc trưng chủ yếu của nền Kinh tế tri thức là tốc độ
thay đổi công nghệ và sự đổi mới của kiến thức diễn ra nhanh chóng. Cho
nên, cán bộ – viên chức và người lao động buộc phải liên tục học tập, phải
được đào tạo trong suốt cuộc đời lao động, cơng tác của mình. Đào tạo ở
trường lớp, trong công việc và tự đào tạo. Nhờ vậy, mọi người thường xuyên
được bổ túc, cập nhật kiến thức, chủ động theo kịp sự đổi mới và có khả năng
thúc đẩy sự đổi mới.
Để thích nghi với xu thế hình thành nền Kinh tế tri thức, cho đến nay
nhiều nước trên thế giới, trong đó có cả các nước phát triển hàng đầu như Mỹ,
Nhật, Liên minh châu Âu,… lẫn các nước đang phát triển như Trung Quốc,
Malaysia,… đều rất chú trọng đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Việt Nam
cũng khơng nằm ngồi lệ, cũng quan tâm đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
13
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Giáo dục là quốc sách hàng đầu
của nước này.
III. KINH TẾ TRI THỨC VÀ CƠ HỘI CHO VIỆT NAM.
Loài người đang chứng kiến sự ra đời của một xu hướng phát triển mới
– phát triển Kinh tế tri thức. Trên thực tế, Kinh tế tri thức đang tự khẳng định
mình ở những khía cạnh rất cơ bản và đã trở thành tiêu điểm chú ý không chỉ
của các học giả mà còn của nhiều nhà hoạch định chiến lược phát triển của
các quốc gia. Việt Nam là nước kém phát triển nhưng cũng không thể bỏ qua
xu thế này, không thể không đáp ứng một cách chủ động, hoặc là để hướng
tới việc “từng bước xây dựng nền Kinh tế tri thức” hoặc là để thích nghi với
nền Kinh tế tri thức ở các nước khác nhau, bởi chúng ta chủ trương mở cửa,
hội nhập quốc tế, và trong mọi văn bản chiến lược, bối cảnh quốc tế luôn
được coi là một cơ sở quan trọng xác định quan điểm, mục tiêu, giải pháp
phát triển.
Tóm lại, tăng cường sử dụng tri thức một cách có hiệu quả là con
đường phát triển nhanh và bền vững, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước theo hướng tiến tới nền Kinh tế tri thức.
Việc rút ngắn khoảng cách tri thức của Việt Nam so với các nước phát triển
hơn trong khu vực và thế giới, một mặt đòi hỏi Việt Nam phải chủ động hội
nhập một cách có hiệu quả để khai thác những cơ hội mà tồn cầu hố và
cuộc cách mạng Khoa học – Cơng nghệ thế giới mang lại, mặt khác phải
nhanh chóng tạo lập những điều kiện, tiền đề cần thiết như đã trình bày ở trên,
như xây dựng Nhà nước pháp quyền dân chủ, đổi mới quản lý xã hội, xây
dựng cơ sở hạ tầng thông tin viễn – thông, phát triển giáo dục và ngun nhân
lực, tăng cường hệ thống đổi mới quốc gia, nhằm xây dựng năng lực tri thức
trong nước để có đủ khả năng đón bắt những cơ hội và vượt qua được những
thách thức đặt ra. Tạo điều kiện để mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức, cộng đồng
và cá nhân được dễ dàng và bình đẳng tiếp cận tri thức, tiếp cận thông tin là
một điều kiện để đảm bảo lấp dần khoảng cách về tri thức trong xã hội, góp
phần làm cho xã hội phát triển công bằng, dân chủ và tiến bộ.
1. Về nhận thức.
14
Cơng việc nhận thức có vai trị rất quan trọng. Những nhận thức khác
nhau về Kinh tế tri thức tất yếu sẽ dẫn tới những giải pháp khác nhau để xây
dựng cái mẫu hình đó. Tuy nhiên, để có được một nhận thức đúng đắn, chúng
ta cần có một phân tích cơng phu và tồn diện về các nền móng Kinh tế tri
thức ở Việt Nam, những điểm mạnh và điểm yếu của Việt Nam trong cuộc
cạnh tranh toàn cầu nếu như tri thức trở thành yếu tố cạnh tranh. Chúng ta có
thể sử dụng hệ thống chỉ tiêu Ma trận đánh giá tri thức (KAM – Knowledge
Assessment Matrix) do WB xây dựng để đánh giá về trình độ phát triển Kinh
tế tri thức ở Việt Nam. Hệ thống này bao gồm 61 chỉ tiêu đánh giá cơ cấu và
tính chất kinh tế – xã hội của một quốc gia về trình độ Kinh tế tri thức. Cụ thể
là 7 chỉ tiêu đo lường thành tựu kinh tế, 8 chỉ tiêu đo lường chế độ kinh tế, 7
chỉ tiêu đo lường thể chế, 14 chỉ tiêu đo lường nguồn lực con người, 12 chỉ
tiêu đo lường hệ thống đổi mới và 13 chỉ tiêu đo lường kết cấu hạ tầng thông
tin. Tất cả các chỉ tiêu này đều được quy về thang điểm 10. Mục tiêu của
KAM là xác định các vấn đề và cơ hội mà một nước phải đối mặt trong bối
cảnh xây dựng nền Kinh tế tri thức, cũng như những trọng tâm chính sách và
đầu tư trong tương lai.
Theo WB, bộ 61 chỉ tiêu này nhằm đo lường bốn mảng tiền đề hay điều
kiện thiết yếu nhằm phát triển một nền Kinh tế tri thức được WB tổng kết từ
thực tế xây dựng nền Kinh tế tri thức ở các nước phát triển.
* Một hệ thống giáo dục và đào tạo cho ra đời một lực lượng lao động
lành nghề, có kỹ năng và năng động để sản xuất, chia sẻ và sử dụng tốt tri
thức.
* Một kết cấu hạ tầng thông tin năng động để tạo điều kiện thuận lợi
cho việc liên lạc, truyền bá và xử lý hữu hiệu thông tin.
* Một hệ thống đổi mới có hiệu quả gồm các hãng, các trung tâm
nghiên cứu, các trường đại học, các nhà tư vấn và các tổ chức khác để khai
thác khối tri thức tồn cầu, cập nhật và đồng hố chúng nhằm phục vụ cho
những nhu cầu địa phương.
15
Tất nhiên, Việt Nam khơng thể có vị trí cao trong các nhóm chỉ tiêu
này, nhưng chúng cho thấy Việt Nam có những cơ may nhất định để phát
triển Kinh tế tri thức.
Đối với Việt Nam, quá trình hướng tới nền Kinh tế tri thức có thể được
hiểu đơn giản là một q trình thay đổi mơi trường kinh tế, văn hố, xã hội để
tăng cường và khuyến khích khả năng hấp thu và sử dụng các luồng tri thức
toàn cầu cũng như xây dựng, phổ biến các năng lực tri thức nội sinh vì sự phát
triển.
2. Về hành động thực tiễn.
Mỗi nước cần có một kế hoạch, một chiến lược tổng thể về phát triển
kinh tế dựa trên tri thức. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Nhà nước luôn có
một vai trị tối quan trọng để khởi xướng và thúc đẩy những mầm mống của
Kinh tế tri thức. Câu hỏi là vào lúc nào thì Việt Nam cần có một chiến lược
quốc gia như vậy? Nếu xét theo thời gian dự tính thực hiện chiến lược hướng
tới nền Kinh tế tri thức của Hàn Quốc là 20 năm, của Anh là 10 năm,
Singapore là 10 năm, cũng như bối cảnh ra đời của các chiến lược này (đều
dưới các sức ép rất lớn và những suy nghĩ cho rằng mẫu hình phát triển hiện
hành của đất nước đã lỗi thời), Việt Nam không cần nghĩ đến một chiến lược
như vậy trong tương lai có thể dự báo được, tức là trong vòng 20 năm tới. Tuy
nhiên, Việt Nam vẫn cần nhanh chóng phải có một chiến lược hoặc một tầm
nhìn tổng quan cho q trình biến mơi trường kinh tế – xã hội của đất nước
trở nên thân thiện hơn với sự đổi mới, sáng tạo và hấp thu tri thức trong nước
và ngoài nước.
Hầu hết các chiến lược hướng về Kinh tế tri thức của các nước đều cho
thấy sự nhấn mạnh vào “tinh thần kinh doanh”. Tuy nhiên, biện pháp chính
sách thiết yếu để xây dựng kinh tế tri thức này hiện chưa được quan tâm đủ
mức ở Việt Nam. Để từng bước xây dựng kinh tế tri thức, khơng thể khơng
xây dựng một văn hố “tinh thần kinh doanh” bừng nở rộng khắp.
Về dài hạn, cần phải phát triển các kết cấu hạ tầng tối cần thiết về công
nghệ thông tin và nguồn nhân lực của Kinh tế tri thức. Nhà nước cần can
16
thiệp cải cách mạnh mẽ hai lĩnh vực then chốt của Kinh tế tri thức, đó là giáo
dục và nghiên cứu khoa học. Thất bại trong những lĩnh vực này sẽ dẫn đến sự
phát triển chậm trong tất cả các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, mọi sự can thiệp
của Nhà nước vào các lĩnh vực này đều phải dựa trên định hướng thị trường
và có sự tham gia chặt chẽ của nhân dân, tức là bao gồm cả khu vực tư nhân.
Chiến lược phát triển Kinh tế tri thức không phải là chiến lược về công nghệ
cao hay một chiến lược về công nghệ thông tin và liên lạc viễn thông. Mục
tiêu phát triển hướng tới Kinh tế tri thức là tăng cường việc sử dụng hữu hiệu
mọi tri thứ trong nền kinh tế và xã hội. Điều này đòi hỏi có sự tương tác tốt
hơn giữa các chính sách, thể chế, cơng nghệ, người dân và Chínhphủ, chiến
lược này sẽ mang tri thức tới mọi người dân, từ những người nông dân cho
tỡin nhà khoa học, từ doanh nghiệp cho tới Chính phủ để đạt được chất lượng
cuộc sống cao hơn. Chúng ta sẽ phân tích sâu về vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
IV. PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHẰM XÂY DỰNG MỘT XÃ
HỘI CÓ NĂNG LỰC HẤP THỤ VÀ TẠO RA TRI THỨC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ – XÃ HỘI.
1. Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo gắn với nhu cầu về tri
thức.
Giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển
nguồn nhân lực để đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố và phát
triển xã hội nói chung.
Giáo dục và đào tạo vừa phải đáp ứng yêu cầu trước mắt của nền kinh
tế dựa trên tài nguyên là chủ yếu vừa phải chuẩn bị và hướng tới nền Kinh tế
tri thức. Điều đó có nghĩa là Việt Nam phải phổ cập giáo dục cơ bản, tăng
cường dạy nghề, đồng thời phải chuẩn bị ngay những điều kiện cho việc hình
thành một nền giáo dục suốt đời, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân được tiếp tục
học tập trong suốt cuộc đời làm việc của họ để bắt kịp những thay đổi nhanh
chóng trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập.
Để đáp ứng được nhiệm vụ nêu trên, phải tiến hành đổi mới giáo dục và
đào tạo với trọng tâm là nâng cao
17
chất lượng của người học để đáp ứng
những yêu cầu phát triển mới, bao gồm trang bị những tri thức mới, hiện đại,
khả năng vận dụng những tri thức đó vào thực tiễn, khả năng sang tạo trong
công việc, năng động, dám đương đầu với những rủi ro, có thể chất, tâm hồn
lành mạnh, có lịng u tổ quốc, yêu dân tộc; giáo dục và đào tạo phải hướng
tới đạt những chuẩn mực quốc tế, đồng thời phát huy truyền thống và bản sắc
dân tộc.
2. Những chính sách và biện pháp phát triển giáo dục và đào tạo.
2.1. Những chính sách chung.
Đẩy mạnh huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục đào tạo.
- Thực hiện đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển: Nhà
nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ ngân
sách Nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự
nghiệp giáo dục. Trong giai đoạn trung hạn, cần ưu tiên đầu tư cho giáo dục
cơ sở và dạy nghề.
- Xây dựng và thực thi các chính sách khuyến khích nhằm huy động
các nguồn tài chính ngồi ngân sách Nhà nước phục vụ cho phát triển giáo
dục, đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề.
Tạo điều kiện bình đẳng tiếp cận giáo dục đào tạo đối với các vùng khó
khăn, dân tộc ít người, người nghèo, bình đẳng về giới trong giáo dục và đào
tạo.
Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo;
nâng cao chuẩn mực về chất lượng giáo dục đào tạo của Việt Nam so với khu
vực và quốc tế.
Tiến hành cải tiến cơng tác quản lý giáo dục đào tạo.
- Hồn thiện và phát triển hệ thống pháp luật về giáo dục - đào tạo;
- Xác định rõ chức năng nhiệm vụ và thực hiện phân công, phân cấp
quản lý giáo dục theo hướng tăng cường vai trò và trách nhiệm của chính
quyền các cấp trong việc thực hiện các chức năng quản lý giáo dục - đào tạo
tại địa phương trên nguyên tắc gắn giáo dục - đào tạo với đặc thù và nhu cầu
18
phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và nhằm huy động các nguồn lực
của địa phương cho giáo dục - đào tạo;
- Đào tạo lại, nâng cao chất lượng cán bộ quản lý ở các cấp. Phát triển
hệ thống thơng tin quản lý giáo dục để có được những số liệu thống kê đầy đủ
từ các cấp và địa phương phục vụ quản lý. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong hệ thống quản lý giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng
của công tác quản lý.
2.2. Tăng cường giáo dục trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Mở rộng mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đặc
biệt là các trường gắn với địa bàn dân cư, đào tạo theo các ngành nghề thích
hợp với lao động ở địa phương. Đa dạng hố loại hình trường đào tạo nghề,
gồm cả dài hạn và phát triển mạnh đào tạo nghề ngắn hạn, đặc biệt ở nơng
thơn (các hình thức khuyến nơng) để thực hiện đưa tiến bộ khoa học – công
nghệ vào sản xuất và chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các
ngành nghề khác. Xây dựng một số trường trung học chuyên nghiệp trọng
điểm trong một số ngành và ở một số địa phương.
Gắn kết quá trình đào tạo ở nhà trường với đào tạo tại các doanh
nghiệp.
Cải tiến chương trình giảng dạy, thực hiện đào tạo học vấn và kỹ năng
cơ bản tại trường và tạo kỹ năng chuyên nghiệp tại cơ sở sản xuất kinh doanh.
Tăng cường các môn học cần thiết trong nền kinh tế mới (tin học, ngoại ngữ,
…).
Đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy, tăng cường số lượng và chất lượng
của đội ngũ giáo viên trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Tạo nguồn học sinh cho đào tạo nghề thông qua thực hiện phân luồng
mạnh học sinh ở cấp trung học cơ sở.
Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng. Tiến
hành đánh giá phân loại các trường đại học, xây dựng một số trường đại học
trọng điểm chất lượng cao, có uy tín trong khu vực; Nâng cấp và từng bước
19
tiêu chuẩn hoá đội ngũ giảng viên trong các trường đại học; Cải cách mạnh
mẽ việc tuyển sinh đại học và cao đẳng kết hợp với các chính sách phân luồng
học sinh từ phổ thông để giảm áp lực học sinh thi vào đại học và tăng chất
lượng tuyển sinh đại học; Tăng cường các điều kiện học tập trong các trường
đại học và cao đẳng. Trước hết ở các trường trọng điểm về cung cấp đầy đủ
tài liệu, thiết bị, nâng cấp thư viện, phịng thí nghiệm, cơ sở thực hành; Nhanh
chóng áp dụng cơng nghệ thơng tin để cải tiến cách dạy, cách học, xây dựng
cơ sở hạ tầng thông tin trong trường học để mở rộng trao đổi thông tin.
Kết hợp 2 chức năng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Tăng cường cơ
sở vật chất thiết bị nghiên cứu khoa học, thông tin khoa học và công nghệ cho
các trường đại học, cao đẳng; tăng đầu tư kinh phí nghiên cứu khoa học cho
các trường đại học; ban hành quy chế thúc đẩy hoạt động nghiên cứu như; cân
đối giữa thời gian nghiên cứu và giảng dạy nâng cao tiêu chuẩn nghiên cứu
khoa học trong việc xét bổ nhiệm các chức danh nhà giáo.
Gắn kết đào tạo, nghiên cứu với sản xuất kinh doanh. Khuyến khích
liên kết giữa trường và doanh nghiệp trong hỗ trợ đào tạo và ứng dụng kết quả
nghiên cứu; cho phép thành lập doanh nghiệp trong trường và mở trường
trong doanh nghiệp lớn nhằm thúc đẩy việc đào tạo và áp dụng kết quả nghiên
cứu vào sản xuất.
2.3. Cải cách giáo dục phổ thông.
Cải tiến đồng bộ nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng toàn
diện, hiện đại, tăng cường năng lực sáng tạo, tự chủ, thích nghi với thực tế
của học sinh, đẩy mạnh hướng nghiệp và phân luồng.
20