Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Luận văn thạc sĩ luật hoc, thẩm quyền toà án nhân dân giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong blttds

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.91 KB, 102 trang )

MỞ ĐẦU.
1. Tính cấp thiết (cơ sở khoa học và thực tiễn) của đề tài.
Vụ việc phát sinh từ các quan hệ dân sự, kinh tế - thương mại, lao
động, hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi, hay còn gọi là vụ việc dân
sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngồi và việc giải quyết các vụ việc đó là
một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn rất được quan tâm trong khoa học
pháp lý ở Việt Nam hiện nay; bởi những lý do sau đây:
- Thứ nhất, cơ chế pháp lý giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngồi
nói chung và thẩm quyền giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngồi nói riêng là
lĩnh vực có nhiều tính chất phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Bởi vì cơ chế
pháp lý này khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà luôn liên quan đến
quan hệ với nước ngồi và có tính chất quốc tế.
- Thứ hai, các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài và
vụ việc phát sinh từ những quan hệ này ngày càng gia tăng trong điều kiện
Việt Nam đang đẩy mạnh cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là yếu tố khách quan địi hỏi sự điều chình
kịp thời về mặt pháp lý và sự nghiên cứu thoả đáng về mặt khoa học.
- Thứ ba, mặc dù đã có những bước tiến đáng kể trong hoạt động xây
dựng và thực thi, song nhìn chung pháp luật Việt Nam về giải quyết các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài và chế định thẩm quyền giải quyết các vụ
việc phát sinh từ các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi cịn tồn tại nhiều
hạn chế, bất cập. Điều này đã và đang thể hiện rất rõ nét trong quá trình ký
kết, tham gia các điều ước quốc tế cũng như xây dựng và thực thi hệ thống
pháp luật trong nước; nhìn chung chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn.
- Thứ tư, trong tiến trình thực hiện chính sách chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng và Nhà nước, một trong những yêu cầu quan trọng và có ý
1


nghĩa quyết định là “tạo lập nền tảng pháp lý làm “bệ đỡ” cho quá trình hội


nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam”. Cùng
với việc xây dựng và hoàn thiện các pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế xã hội khác, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngồi, trong đó có chế định thẩm quyền giải quyết vụ
việc là địi hỏi cấp thiết và có ý nghĩa lớn.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, đã có nhiều cơng trình và bài viết
nghiên cứu về vấn đề “ Thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngồi” theo những khía cạnh và cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên đều chủ
yếu tập trung vào phương thức và thủ tục giải quyết một hoặc một số vụ việc
nhất định(1).Có thể thấy rằng sự quan tâm thực sự và sâu rộng đến vấn đề
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự còn nhiều hạn chế.
Cho đến nay, có rất ít cơng trình nghiên cứu một cách tồn diện và có
hệ thống về thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi trong
pháp luật Việt Nam trong BLTTDS năm 2004. Nhằm làm rõ thực trạng và
yêu cầu hoàn thiện chế định này trong tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.Trong quá trình tạo lập nền tảng pháp
lý về chế định thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi,
Việt Nam không thể không chú trọng các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực xây dựng pháp luật để có một hệ thống cơ sở pháp lý chung với các nước
trên thế giới cho các vấn đề phát sinh và khơng ngừng nghiên cứu, tham khảo
có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp ... về thẩm quyền giải quyết các vụ việc trên cơ sở bảo đảm độc lập chủ
quyền, an ninh quốc gia.
Những nội dung trình bày trên đây là cơ sở khoa học và thực tiễn để tác
giả chọn nghiên cứu đề tài : “Thẩm quyền toà án nhân dân giải quyết các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong BLTTDS”

2


2. Mục đích của đề tài.

Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn pháp
luật Việt Nam về thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngồi, trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện chế định
này trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành.
Với mục đích nêu trên, luận văn này tự đặt ra những yêu cầu cụ thể sau đây:
- Trình bày một cách có hệ thống những vấn đề về lý luận về thẩm quyền
giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi.
- Phân tích nội dung các quy tắc xác định thẩm quyền giải các vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngồi theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Chỉ ra những bất cập, vướng mắc và hạn chế trong những quy định
pháp luật Việt Nam hiện hành về thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngồi và u cầu khách quan cần hồn thiện đặt ra trong tiến
trình cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời nêu một số luận
cứ khoa học trong các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là hiện tượng phổ biến trong đời
sống các quốc gia và cả ở phạm vi quốc tế, do pháp sinh từ các quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngồi ngày càng đa dạng và phức tạp. Do đó, giải quyết vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngồi là vấn đề vô cùng rộng lớn, phức tạp và có
thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau.
Với những mục đích, nhiệm vụ chính được nêu trên đây, trong điều
kiện về thời gian nghiên cứu, tài liệu tham khảo và trong khuôn khổ của một
luận văn cao học, tác giả tự định ra cho mình phạm vi nghiên cứu phù hợp với
một góc độ tiếp cận như sau:
- Thứ nhất, luận văn chủ yếu nghiên cứu chế định thẩm quyền giải quyết
vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngồi dưới góc độ tư pháp
Việt Nam, đặt trọng tâm vào khía cạnh xung đột thẩm quyền của toà án nhân

3



dân về giải quyết các vụ việc dân sự. Do điều kiện không cho phép nên chỉ
tập trung vào vụ việc dân sự và hơn nhân gia đình, khơng đề cập tới thương
mại và lao động.
- Thứ hai, về mặt lý luận, nội hàm của khái niệm “thẩm quyền” ở phạm
vi rộng nhất bao gồm các nội dung: i) phân định thẩm quyền xét xử, ii) thẩm
quyền trong việc áp dụng luật để giải quyết các vụ việc, và iii) thẩm quyền
trong việc công nhận, thi hành phán quyết của toà án nước ngoài. Luận văn chủ
yếu nghiên cứu các quy tắc xác định thẩm quyền ở loại thứ nhất : thẩm quyền
xét xử; hay nói cách khác là các quy tắc giải quyết xung đột thẩm quyền.
- Thứ ba, do việc tiếp cận vấn đề dưới góc độ nghiên cứu quy tắc xác
định thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi trong hệ
thống pháp luật Việt Nam và đặc biệt là trong BLTTDS nên luận văn trình
bày tất cả những nội dung về lý luận và thực trạng pháp luật về thẩm quyên,
khai thác những quy định chung nổi bật nhất trong một số văn bản pháp luật
quan trọng để khắc hoạ mơ hình và nội dung các quy tắc thẩm quyền cơ bản
trong pháp luật Việt Nam và đặc biệt là trong BLTTDS.
- Thứ tư, những đề xuất kiến nghị về vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt
Nam nêu trong luận văn này cũng chủ yếu trên cơ sở và xuất phát từ những
nhận xét đánh giá rút ra trong quá trình nghiên cứu so sánh với pháp luật của các
nước trên thế giới. Tác giả xác định đây là kết quả nghiên cứu bước đầu và cần
được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hơn nữa trong quá trình nghiên cứu sau này.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác- Lênin và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta về phát triển kinh tế- xã hội, về xây dựng và hồn thiện pháp luật
trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế.

4



Để làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu
khoa học pháp lý nói riêng như phương pháp duy vật biện chứng, phương
pháp luận duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp logic....
5. Điểm mới và ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Như trên đã trình bày, cho đến nay có rất ít cơng trình, bài viết nghiên
cứu tồn diện, đầy đủ và có hệ thống về thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài của toà án nhân dân trong BLTTDS hiện hành. Vì vậy
có thể coi đây là cơng trình đầu tiên tập trung nghiên cứu chế định này.
Luận văn có một số điểm mới như sau:
- Hệ thống hoá cách có chọn lọc một số vấn đề lý luận cơ bản về thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi.
- Trình bày và phân tích nội dung các quy tắc xác định thẩm quyền giải
quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi quy định trong pháp luật Việt Nam
tại BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định thẩm quyền giải quyết
vụ việc sự có yếu tố nước ngồi quy định trong pháp luật Việt Nam hiện hành.
Tác giả cho rằng, đề tài nghiên cứu này có một số ý nghĩa như sau:
- Một là, góp phần làm phong phú hơn hệ thống lý luận về thẩm quyền
giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài trong khoa học pháp lý Việt Nam.
- Hai là, góp phần hồn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền giải
quyết các vụ việc có yếu tố nước ngồi trước u cầu của tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Ba là, luận văn có thể là tài liệu tham khảo phục vụ hoạt động nghiên
cứu lý luận và hoạt động thực tiễn của các cơ quan xây dựng và bảo vệ pháp
luật, của các chuyên gia nghiên cứu và những ai quan tâm tới vấn đề này.
5



6. Bố cục của luận văn.
Nội dung và kết quả nghiên cứu được thể hiện trong Luận văn theo kết
cấu chung gồm: Phần mở đầu, 03 chương, Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo.
Chương 1: Khái niệm chung về vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi.
Chương 2: Các vụ án dân sự, hơn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngồi thuộc thẩm quyền của tịa án.
Chương 3: Thẩm quyền của toà án nhân dân trong các việc dân sự
và hơn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.

6


Chương 1: KHÁI NIỆM CHUNG VỀ
VỤ VIỆC DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI.
1. Khái niệm chung về vụ việc dân sự trong tố tụng dân sự
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta có nhu cầu và yêu cầu cơ quan bảo
vệ pháp luật thụ lý giải quyết một số vấn đề pháp lý nào đó nảy sinh những
vấn đề dân sự, liên quan đến tranh chấp, hoặc không tranh chấp làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự. Việc đánh giá dấu hiệu pháp lý các sự kiện này, để
dẫn chiếu vào luật dân sự, xem nó thuộc vụ án dân sự, phải khởi kiện và cung
cấp chứng cứ để toà án giải quyết bằng một vụ án, hay chỉ có u cầu để tồ
án cơng nhận và xử lý cịn là điều khó khăn đối với một số người.
Chính từ chỗ xác định chưa đúng tư cách tham gia tố tụng dân sự của
mình, nên một số trường hợp đương sự do nhầm lẫn và khởi kiện sai, yêu cầu
xử lý sai gây khó khăn cho cơ quan cơng quyền và cá nhân mình. Các sự kiện
pháp lý trong đời sống dân sự được nhà làm luật phân định hai dạng là vụ án
dân sự và việc dân sự.
Mỗi dạng có tiêu chí, dấu hiệu pháp lý, với đặc trưng riêng, đủ để phân

biệt cái này với cái kia, hơn nữa, để giải quyết các dạng vụ việc này, tồ án
tiến hành các trình tự, thủ tục với thẩm quyền khác nhau theo quy định của
luật tố tụng dân sự.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ việc dân sự được hiểu là
các vụ án tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại,
lao động và các việc về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, lao động.
1.1. Vụ việc dân sự.
Thuật ngữ “tranh chấp”, trong tiếng Anh là “dispute”, thường được
dùng để chỉ “tình trạng tồn tại giữa hai (hay nhiều) cá nhân, được tạo thành
bởi một số dấu hiệu của sự phản đối, đối lập... Theo từ điển Tiếng Việt, tranh

7


chấp được giải thích là đấu tranh, giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là
trong vấn đề quyền lợi giữa các bên.
Ở khía cạnh pháp lý, “tranh chấp” là sự bất đồng liên quan đến quyền,
lợi ích hoặc nghĩa vụ giữa các bên khi họ tham gia các quan hệ pháp luật. Tuy
nhiên cho đến nay, chưa có văn bản pháp lý nào đưa ra khái niệm cụ thể về
“tranh chấp”. Theo một định nghĩa của Toà án quốc tế (Permament Court of
International Justice) trong phán quyết năm 1942 về vụ tranh chấp
Mavrommatis, “tranh chấp (dispute) là sự bất đồng về mặt pháp lý hoặc mâu
thuẫn, lợi ích giữa hai người trở lên” .
Tranh chấp dân sự được hiểu là những tranh chấp phát sinh từ các quan
hệ dân sự. Vậy thế nào là quan hệ dân sự? Ở Việt Nam, quan hệ dân sự có thể
được hiểu và giải thích khác nhau theo hai nghĩa rộng, hẹp của khái niệm này.
Theo nghĩa hẹp, quan hệ dân sự được hiểu là bao gồm các quan hệ tài sản và nhân
thân phi tài sản phát sinh trong giao dịch dân sự (điều 121 BLDS năm 2005)
Theo nghĩa rộng – quan điểm của đông đảo các luật gia, nhà nghiên
cứu Việt Nam, khái niệm quan hệ dân sự được hiểu tương đối thống nhất là

“các quan hệ giữa con người với nhau trong cuộc sống hàng ngày, các quan
hệ về đời sống , sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh trên cơ sở bình
đẳng, tự nguyện và tự so ý chí”. Như vậy, quan hệ dân sự khơng chỉ bao gồm
các quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của luật dân sự thuần tuý, mà cả các quan hệ
có tính chất dân sự như kinh tế - thương mại, lao động, hơn nhân và gia đình...
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực tố tụng dân sự, khái niệm “tranh chấp”
(dispute) có sự phân biệt với “vấn đề”(matter) hay “vụ việc”(case) như
thường được sử dụng trong pháp luật các nước trên thế giới. Vụ việc là khái
niệm rộng hơn, bao hàm tranh chấp và các u cầu khơng có tính chất tranh
chấp . Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về đối tượng và phạm vi điều chỉnh của
pháp luật Việt Nam, khái niệm vụ việc dân sự được hiểu theo nghĩa rộng, bao

8


gồm các vụ án trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế - thương mại, lao động, hôn
nhân và gia đình; và các việc dân sự trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình.
1.1.1: Khái niệm chung về vụ án dân sự trong tố tụng dân sự hiện hành
và trong các văn bản pháp luật trước đó.
Vụ án dân sự là các tranh chấp xẩy ra giữa các đương sự mà cá nhân,
cơ quan, tổ chức tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp để khởi
kiện vụ án tại tồ án có thẩm quyền, để u cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Theo quy định của “ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày
29 tháng 11 năm 1989 ” thì vụ án dân sự được hiểu là ( Điều 10 PL ) :
- Những việc tranh chấp về quyền sở hữu, về hợp đồng, về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc những tranh chấp khác về quyền, nghĩa vụ theo
quy định của pháp luật dân sự giữa công dân với nhau, giữa công dân với
pháp nhân, giữa pháp nhân với nhau, trừ những việc thuộc thẩm quyền của cơ
quan, tổ chức khác.

Theo quy định của “ Bộ luật Tố tụng dân sự ” được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày
15 tháng 6 năm 2004, vụ án dân sự thường gặp mà chúng ta yêu cầu toà án
giải quyết có thể là :
Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án:
- Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
- Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
- Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật dân sự.
- Tranh chấp thừa kế tài sản.

9


- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy
định của pháp luật về đất đai.
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định
của pháp luật.
- Các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
Những tranh chấp về hơn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tồ án:
- Ly hơn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
- Tranh chấp về cấp dưỡng.
- Các tranh chấp khác về hơn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
1.1.2: Khái niệm chung về việc dân sự trong tố tụng dân sự hiện hành và

trong các văn bản pháp luật trước đó.
Trong cuộc sống thường ngày, khi có tranh chấp cái gì đó, chúng ta
thường nghĩ ngay đến việc hồ giải, rồi sau đó là khởi kiện dân sự, còn khi
cần giải quyết một vấn đề dân sự cụ thể, thì chúng ta lại khơng biết làm cái gì,
làm từ đâu và cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết. Chính vì vậy, các việc
như dân sự được toà án thụ lý giải quyết cịn q ít, vì người có u cầu chưa
hiểu biết cần thiết về vấn đề này.
Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan tổ chức khơng có tranh chấp,
nhưng có u cầu tồ án cơng nhận hoặc khơng cơng nhận một sự kiện pháp
lý, là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác; yêu cầu toà án cơng nhận cho mình quyền về dân sự, hơn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại và lao động.
10


Như vậy, dấu hiệu pháp lý cơ bản nhất để nhận biết việc dân sự là
khơng có tranh chấp giữa các bên, chỉ có u cầu tồ án cơng nhận hoặc
khơng cơng nhận một sự kiện pháp lý nào đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
dân sự.
Theo quy định của “ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày
29 tháng 11 năm 1989 ” thì việc dân sự được hiểu là ( Điều 10 PL ) :
- Những việc về quan hệ hôn nhân và gia đình;
- Những việc xác định cơng dân mất tích hoặc đã chết, trừ những trường
hợp quân nhân, cán bộ mất tích hoặc chết trong chiến tranh thuộc trách nhiệm
giải quyết của các cơ quan hữu quan.
- Những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc từ chối đăng ký hoặc
không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch.
- Những việc khiếu nại về danh sách cử tri.
- Những việc khiếu nại cơ quan báo chí về việc khơng cải chính thơng tin

có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác.
- Những việc khác do pháp luật quy định.
Theo quy định của “ Bộ luật Tố tụng dân sự ” được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố XI, kỳ họp thứ 5 thơng qua ngày
15 tháng 6 năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2005), việc dân sự
thường gặp mà chúng ta u cầu tồ án giải quyết có thể là:
Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án:
- Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, huỷ bỏ quyết định tuyên bố  hạn chế năng lực
hành vi dân sự.
- Yêu cầu thơng báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý
tài sản của người đó.
- Yêu cầu tuyên bố một người mất tích, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một
người mất tích.

11


- Yêu cầu  tuyên bố một người là đã chết, huỷ bỏ quyết định tuyên bố
một người là đã chết.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về
dân sự, hành chính của Tồ án nước ngồi hoặc khơng cơng nhận bản án, quyết
định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính
củaTồ án nước ngồi mà khơng có u cầu thi hành án tại Việt Nam.
- Các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
Những u cầu về hơn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tồ án:
- Yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Yêu cầu cơng nhận thuận tình ly hơn, ni con, chia tài sản khi ly hôn.
- Yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con

sau khi ly hôn.
- Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc
quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về
hôn nhân và gia đình của Tồ án nước ngồi hoặc khơng công nhận bản án,
quyết định về hôn nhân và gia đình của Tồ án nước ngồi mà khơng có u
cầu thi hành tại Việt Nam.
- Các yêu cầu khác về hơn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
1.1.3: So sánh khái niệm “vụ việc dân sự” trong văn bản pháp luật hiện
hành và trước đây.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, thủ tục giải quyết các tranh
chấp, yêu cầu của các chủ thể tại Toà án được chia thành hai thủ tục: Thủ tục
giải quyết án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự. Ở Việt Nam, trước khi
ban hành BLTTDS không có khái niệm vụ việc dân sự mà chỉ có khái niệm
vụ án dân sự. Khái niệm vụ án dân sự dùng để chỉ những tranh chấp, yêu cầu
12


phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự những tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ
quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình. Cho nên, bên cạnh khái niệm vụ án
dân sự cịn có các khái niệm vụ án kinh tế, vụ án lao động. BLTTDS ra đời đã
thống nhất ba loại thủ tục TTDS, kinh tế, lao động thành thủ tục TTDS và các
loại việc được giải quyết tại Toà án theo thủ tục TTDS là vụ việc dân sự. Tuy
không đưa ra khái niệm vụ việc dân sự nhưng theo Điều 1 của BLTTDS thì
vụ việc dân sự bao gồm: vụ án dân sự và việc dân sự, trong đó việc dân sự là
những yêu cầu về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và
lao động được Toà án thụ lý, giải quyết. Còn vụ án dân sự là những tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ quan hệ pháp luật dân
sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động được Toà án

thụ lý, giải quyết.
Phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng dân sự rất rộng, gồm các vụ án
dân sự, kinh tế, hơn nhân gia đình, lao động và hàng loạt loại việc dân sự
khác. Những mảng quan hệ này, trước đây được giải quyết theo thủ tục riêng,
quy định trong ba pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hơn nhân
và gia đình; thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; và thủ tục giải quyết các vụ
án lao động. "Bộ luật không đơn thuần là việc cộng dồn 3 pháp lệnh” mà cịn
có nhiều điểm mới về phạm vi điều chỉnh và thủ tục tố tụng dân sự. Nếu chỉ
xét trên phương diện quan điểm về “vụ việc dân sự” thì Bộ luật tố tụng dân sự
bao hàm gần như đầy đủ mọi vấn đề về dân sự, còn trong ba pháp lệnh trên
phạm vi hẹp hơn nhiều và hiện nay khơng cịn phù hợp với thực tế.
Trong việc dân sự, thì chỉ có người u cầu tồ án cơng nhận hoặc
khơng cơng nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp
lý của mình, cịn vụ án dân sự thì có các đối tượng là ngun đơn dân sự và bị
đơn dân sự, hay nói cách khác, là có chủ thể đứng ra kiện và chủ thể khác bị
kiện. Quan điểm này là không thay đổi trong “Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự, hôn nhân và gia đình” và trong “Bộ luật tố tụng dân sự” của nước ta.
13


1.2. Khái niệm chung về vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
1.2.1. Yếu tố nước ngoài trong các vụ việc dân sự
Chúng ta biết rằng, thuật ngữ “yếu tố nước ngoài” (foreign elements)
được ghép với thuật ngữ “quan hệ dân sự” (civil relations) thành khái niệm
“quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi” (the civil relation containing foreign
elements). Và tương tự như vậy, thuật ngữ “yếu tố nước ngoài” (foreign
elements) được ghép với thuật ngữ “tranh chấp dân sự” (civil disputes) thành
khái niệm “tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi” (the civil disputes
containing foreign elements). thiếu về việc dân sự có yếu tố nước ngồi.Vấn
đề quan trọng trong lý luận và thực tiễn tư pháp quốc tế là xác định yếu tố

nước ngoài trong các vụ việc dân sự, bởi yếu tố nước ngồi chính là điều làm
nên đặc trưng của vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi so với vụ việc dân sự
khơng có yếu tố nước ngồi, từ đó dẫn đến sự phân biệt những vụ việc thuộc
phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế với những vụ việc không thuộc không
thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế.
Ở các nước, quan điểm về yếu tố nước ngoài rất khác nhau. Trong pháp
luật và khoa học TPQT các nước châu Âu, khái niệm “yếu tố nước ngoài”
trong vụ việc có thể là những sự kiện có thể xảy ra tại nước ngồi, hoặc cũng
có thể nơi cư trú nước ngoài, nơi thường trú hoặc nơi đặt trụ sở kinh doanh
của các bên ở nước ngoài. Xuất phát từ yếu tố “nước ngồi” (foreign), người
ta cũng có thể liên hệ đến yếu tố “quốc tế” (international) vì thực tế của vụ
việc hoặc các bên có liên hệ với một hoặc nhiều nước khác với nước có tồ
án. Nói cách khác, vụ việc có các yếu tố quốc tế là vụ việc mà trong đó các
bên hoặc các vấn đề liên quan có liên hệ với hơn một nước. Yếu tố “quốc tế”
có thể tạo nên một cơ chế mà trong đó các tồ án của quốc gia có thẩm quyền
giải quyết vụ việc, luật quốc gia được áp dụng để giải quyết vụ việc và cuối
cùng là bất kỳ bản án nước ngoài sẽ được thi hành ở nước khác. Yếu tố nước

14


ngồi có thể được phát sinh trong ba lĩnh vực chính của TPQT là chọn tồ án
có thẩm quyền xét xử, chọn luật áp dụng và công nhận, thi hành phán quyết
của toà án nước ngoài.
Ở Việt Nam, trong khoa học pháp lý nói chung và TPQT nói riêng, việc
xác định “yếu tố nước ngoài” là vấn đề quan trọng và ở chừng mực nhất định
đã được quy định cụ thể rong các văn bản pháp luật. Mặc dù trong thực tiễn
pháp lý Việt Nam, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, đặc biệt là trong
lĩnh vực hơn nhân và gia đình, đã thực sự phát sinh từ rất lâu và được pháp
luật điều chỉnh nhưng khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi thì mới

được chính thức quy định tại một điều luật trong Bộ luật Dân sự năm 1995
như sau: “Trong Bộ luật này, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi được hiểu
là các quan hệ dân sự có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia
hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài
hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi”. Kế thừa quan điểm trên
thì Bộ luật dân sự năm 2005 khơng thay đổi, được quy định trong Điều 758.
Theo quy định này, có ba dấu hiệu xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ
dân sự là: i) chủ thể, ii) sự kiện pháp lý phát sinh ở nước ngoài và iii) tài sản
liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi. Quan hệ dân sự có một hoặc hai hoặc
cả ba yếu tố này thì được gọi là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi. Theo lý
luận về xung đột pháp luật (tư pháp quốc tế) và xuất phát từ tư duy coi Bộ
luật dân sự là bộ luật gốc của các lĩnh vực dân sự, kinh doanh – thương mại,
lao động, hơn nhân gia đình, quy định trên đây phải là “khuôn mẫu” chung để
xác định yếu tố nước ngoài trong các quan hệ dân sự thuộc phạm vi điều
chỉnh của tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, do không có quy định rõ ràng và do
phạm vi điều chỉnh còn hạn hẹp của Bộ luật dân sự nên trong thực tế lại có
những quy định riêng biệt trong các văn bản pháp luật khác về xác định yếu tố
nước ngoài trong các lĩnh vực dân sụ, kinh doanh – thương mại, lao động, hôn

15


nhân gia đình, mặc dù những quy định này đều dựa trên cơ sở Điều 758 Bộ
luật Dân sự năm 2005.
Trong pháp luật Việt Nam, cũng như pháp luật các nước trên thế giới,
chưa có khái niệm thống nhất về “tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi”.
Từ những phân tích trên đây, có thể khái qt như sau: “Tranh chấp dân sự có
yếu tố nước ngồi là những mâu thuẫn, xung đột về quyền, lợi ích hoặc nghĩa
vụ giữa các chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi”.
1.2.2. Phân loại tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi:

Pháp luật đối với người nước ngoài ở các nước được áp dụng trong lĩnh
vực luật gia đình, hợp đồng và tài sản. Theo cách phân chia của một số
chuyên gia pháp lý, có một số nhóm đối tượng chính trong quy tắc thẩm
quyền là i) hợp đồng, bồi thường thiệt hại và các vụ việc liên quan đến tài sản
và ii) các vụ việc liên quan đến luật gia đình và thừa kế. Cịn ở Việt Nam,
theo truyền thống, tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài được phân chia cụ
thể thành tranh chấp dân sự (theo nghĩa hẹp), tranh chấp kinh tế - thương mại,
tranh chấp lao động và tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004, có tới 40 loại tranh chấp cụ thể trong
các quan hệ dân sự, kinh tế - thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình.
Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 do Chính phủ ban
hành quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về việc áp
dụng pháp luật Việt Nam, pháp luật nước ngoài, điều ước quốc tế và tập quán
quốc tế đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi.
Điều 3. Giải thích từ ngữ :
- "Người nước ngồi" là người khơng có quốc tịch Việt Nam, bao gồm
người có quốc tịch nước ngồi và người không quốc tịch.
- "Người Việt Nam định cư ở nước ngồi" là người có quốc tịch Việt Nam
và người gốc Việt Nam đang cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.

16


- "Cơ quan, tổ chức nước ngoài" là các cơ quan, tổ chức không phải là cơ
quan, tổ chức Việt Nam được thành lập theo pháp luật nước ngoài, bao gồm
cả cơ quan, tổ chức quốc tế được thành lập theo pháp luật quốc tế.
- "Pháp nhân nước ngoài" là pháp nhân được thành lập theo pháp luật
nước ngoài.
Thực tiễn giải quyết án dân sự có yếu tố nước ngồi cho thấy, việc xác
định thế nào là "người Việt Nam định cư ở nước ngồi" rất khó. Theo quy

định của Luật Quốc tịch thì "'Người Việt Nam định cư ở nước ngồi là cơng
dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở nước
ngồi". Vậy thời hạn bao lâu thì được xác định là lâu dài? Trường hợp người
Việt Nam đi công tác, học tập hoặc du lịch nhưng họ không về nước khi hết
thời hạn có được coi là người Việt Nam định cư ở nước ngồi hay khơng?
Thực tế, có nhiều vụ án TAND cấp tỉnh đã thụ lý giải quyết và ra quyết định
tạm đình chỉ khi xác định có người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bị
TANDTC hủy để xác định đương sự có "định cư" ở nước ngồi hay khơng.
Việc xác định vấn đề này hết sức khó khăn, đến nay chưa có văn bản hướng
dẫn cơ quan nào có thẩm quyền xác định và cung cấp cho Tòa án.
Vấn đề này đã được ngành Tòa án đưa ra thảo luận lấy ý kiến, hiện có
nhiều quan điểm khác nhau và vẫn chưa thống nhất đường lối giải quyết nên
cách hiểu và áp dụng ở các tòa chưa thống nhất. Điều này cũng ảnh hưởng
đến việc xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh hay cấp huyện.
Sự phát triển đa dạng và phong phú của các quan hệ dân sự, hơn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, cùng với quá trình hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng dẫn đến các tranh chấp, u cầu có yếu tố nước ngồi
mà tồ án phải thụ lý giải quyết ngày một nhiều như tranh chấp, u cầu có
đương sự là người nước ngồi hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngồi, có
tài sản ở nước ngoài, căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự

17


có tranh chấp xảy ra ở nước ngồi v.v... Các tranh chấp, yêu cầu này được gọi
là vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi.
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2004, “ Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi là vụ việc dân sự có ít nhất
một trong các đương sự là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài hoặc các quan hệ dân sự là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng

căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngồi,
phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi” .
Theo Bộ luật này, cũng có ba yếu tố để xác định yếu tố nước ngoài trong các
vụ việc dân sự là: chủ thể, sự kiện pháp lý và tài sản liên quan như quy định
tại Bộ luật Dân sự năm 2005; tuy nhiên về nội dung thì phạm vi các vụ việc
được coi là yếu tố nước ngồi có những nét khác biệt nhất định.
Cịn có quan điểm khác cho rằng nên xét xem Tồ án Việt Nam có
thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi nào, từ đấy ta
có thể nhìn nhận rõ ràng hơn về quan điểm “ Vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngồi” vì nếu chỉ bằng một khái niệm chung thì khơng thể bao hàm được tất
cả các trường hợp trong thực tế.
Điều 410. Quy định chung về thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải
quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
1. Thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài được xác định theo quy định tại Chương III của Bộ luật
này, trừ trường hợp Chương này có quy định khác.
2.Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi
trong các trường hợp sau đây:
a) Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngồi có trụ sở chính tại Việt Nam
hoặc bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phịng đại diện tại Việt Nam;
b) Bị đơn là công dân nước ngồi, người khơng quốc tịch cư trú, làm ăn,
sinh sống lâu dài tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam;
18


c) Ngun đơn là cơng dân nước ngồi, người khơng quốc tịch cư trú,
làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam đối với vụ việc dân sự về yêu cầu đòi
tiền cấp dưỡng, xác định cha mẹ;
d) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam,

nhưng có ít nhất một trong các đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài;
đ) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngồi,
nhưng các đương sự đều là cơng dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên
đơn hoặc bị đơn cư trú tại Việt Nam;
e) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một
phần hợp đồng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam;
g) Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam.
1.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi.
Thuật ngữ “thẩm quyền”, trong tiếng Anh là “jurisdiction” hoặc
“competence”, được dùng để chỉ quyền phán quyết về một vụ việc nào đó
trong phạm vi pháp luật cho phép. Theo quan điểm của David D. Giegel trong
cuốn sách “Khái quát chung về luật xung đột” (Conflicts in a nutshell) ( nhà
xuất bản West Publising Co năm 1997), Thẩm quyền là quyền lực giải quyết
tranh chấp của nhà nước được thực hiện thông qua hệ thống tịa án hoặc một
số cơ quan có tính chất xét xử (quasi-judicial body) như hội đồng trọng tài
hoặc hội đồng tài phán hành chính.
Trong lĩnh vực luật quốc tế, theo Michael Akehurst, có ba bộ phận
trong thẩm quyền của một nhà nước: Quyền của nhà nước thực hiện các hoạt
động trong lãnh thổ của một nhà nước khác (executive jurisdiction), quyền
của nhà nước áp dụng pháp luật nước mình trong khi giải quyết các vụ án có yếu

19


tố nước ngoài (legislative jurisdiction), và vấn đề khi nào thì các nhà nước theo
nghĩa vụ pháp lý phải cơng nhận sự thực thi thẩm quyền của các nhà nước khác.
Ở Việt Nam, dưới góc độ chung, Từ điển tiếng Việt định nghĩa thẩm
quyền của tòa án là “quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo
pháp luật” , cịn theo Từ điển Luật học thì “thẩm quyền” được hiểu là “tổng

hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức
thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước do pháp luật quy định”. Một số tác giả định
nghĩa: Thẩm quyền của tòa án là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định
cho tòa án được xét xử những vụ án cụ thể và quyết định đối với các vấn đề
về nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho việc xét xử trong giới hạn hoặc phạm vi
nhất định. Trong lĩnh vực TPQT, thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế là thẩm
quyền của tòa án tư pháp một nước nhất định đối với các vụ án dân sự có yếu
tố nước ngoài.
Trong lĩnh vực TPQT, các thủ tục giải quyết tranh chấp bao gồm:
thương lượng, trung gian hòa giải, trọng tài và tòa án. Thương lượng và hòa
giải được biết đến như là những phương thức tự giải quyết (self-resolution),
còn có trọng tài và tịa án được coi là phương thức tài phán (justice) trong đó
tịa án hay trọng tài là chủ thể giải quyết được trao những thẩm quyền thơng
quy quyết định của trọng tài hay tịa án. Vì vậy, trong lĩnh vực luật về thẩm
quyền nhất định, hay nói cách khác, đây là phương thức giải quyết mang tính
thẩm quyền thơng qua quyết định của trọng tài hay tịa án. Vì vậy, trong lĩnh
vực luật về thẩm quyền, chỉ có trọng tài và tịa án là những chủ thể của thẩm
quyền giải quyết tranh chấp.
Trong điều kiện chưa có khái niệm thống nhất trong khoa học pháp lý
hiện nay, từ những phân tích trên đây, có thể khái quát như sau: “Thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngồi là tổng hợp các quyền
năng của tòa án hoặc trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự,
kinh tế-thương mại, lao động, hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi”.

20



×