CA DAO BÌNH ÐỊNH
Bình Ð
ịnh nổi tiếng không những có anh hùng Quang Trung Ðại đế Nguyễn Huệ bách chiến bách thắ
ng phá
tan quân Thanh
ở phía Bắc, đánh bại quân Xiêm ở phía Nam, Bình Ðịnh còn là một địa danh nổi tiếng khắ
p
n
ước Việt nam về võ thuật mà ngay cả đàn bà, con gái vẫn biết côn, quyền qua câu ca dao:
“Ai về Bình định mà coi
Con gái Bình Ðịnh cầm roi đi quyền”
Nhiều sản phẩm nổi tiếng ở Bình Ðịnh: khi thăm viếng, người ta thường mua làm quà đ
ể tặng cho nhau
nh
ững đặc sản đẹp, cổ truyền biểu tượng tấm lòng chung thủy của người con gái:
“Nón ngựa Gò Găng
Bún Song thần An Thái
Lụa Ðậu tủ Nhơn Ngãi
Xoài tượng chín Hưng Long
Mặc ai mơ táo ước hồng
Lòng quê em giữ một lòng trước sau”
Ðôi trai gái quen nhau, lâu ngày chàng từ giã nàng về thăm quê nhà, nhưng quá kỳ hẹn mà không th
ấy
tr
ở lại, nàng vừa hái dâu vừa đếm từng lá dâu, tính từng ngày xa cách:
“Anh về Bình Ðịnh chi lâu
Bỏ em ở lại hái dâu một mình”
ho
ặc là:
“Anh về Bồ Ðịch, Giếng Vuông,
No cơm ấm chiếu luông tuồng bỏ em”
Ngày xưa ở Việt Nam, đàn bà con gái giỏi nội trợ, biết làm bếp và nấu cơm. Có một số các cô con nh
à
giàu đư
ợc cưng chìu, một số cô khác vì tuổi còn nhỏ chưa có kinh nghiệm trong việc nấu nướng, thổi c
ơm
không chín:
“Tiếng đồn con gái Phú Trung
Nấu cơm không chín mở vung xem hoài
Tiếng đồn con gái Phú Tài
Nấu cơm không chín đốt hoài cơm khê”
Có những câu đối đáp giữa trai gái dưới ánh trăng thanh trong ngày mùa, hoặc trong đêm trăng giã g
ạo,
ho
ặc các cô vừa cấy lúa vừa hát hò và đật câu hỏi đến người con trai:
“Tiếng đồn anh hay chữ
Tài ngang Cử, Tú
Lại đây em hỏi một đôi câu
Ngọt ngay nước chảy dưới cầu
Gọi cầu Nước Mặn cớ bởi đâu hỡi chàng”
ho
ặc là:
“Tiếng đồn anh hay chữ
Thường đọc sách Kinh Thi
Hỏi anh ông Văn Vương đi cưới bà Hậu Phi năm nào?”
Chúng ta nghe tâm sự của người dân thương mến chú Lía, người đã làm việc ngh
ĩa, chia sớt phần tiền
th
ặng dư của người giàu đến những người nghèo khó và đã bị quân triều đình bao vây:
“Chiều chiều én liệng truông Mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành”.
Bình Ðịnh có những hòn tháp đẹp như Tháp Ðôi, tháp Cánh Tiên, có Cầu Ðôi nước chảy hai d
òng, có
đèo An Khê m
ịt mù mây phủ:
“Cầu Ðôi đứng cạnh Tháp Ðôi
Ðôi ta đẹp lứa đẹp đôi trên đời”
ho
ặc:
“Nước trên nguồn chảy tuôn ra biển
Cảm thương người một kiểng hai quê
Cầu Ðôi liền lối đi về
Mịt mùng mây phủ An Khê, Phú Tài”.
ho
ặc:
“Ngó lên hòn tháp Cánh Tiên
Cảm thương ông hậu thủ thiền ba năm”.
Câu ca dao dư
ới đây nhiều người đã nghe và thuộc lòng từ khi còn nhỏ, mãi đ
ến lúc tuổi về chiều vẫn nhớ
rành
rành, qua sự đối đáp của người mẹ và người con:
“Mẹ ơi đừng đánh con đau
Ðể con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
Bắt ốc, ốc lủi vô bờ
Hái rau, rau héo mẹ nhờ gì đâu?”
Ð
ập Ðá là thị trấn thường được nhắc tới trong ca dao Bình Ðịnh:
“Anh về Ðập Ðá đưa đò
Trước đưa quan khách sau dò ý em”
ho
ặc:
“Anh về Ðập Ðá quê cha
Gò Găng quê mẹ, Phú Ða quê nàng”.
Ngư
ời con trai đi đường tán tỉnh người con gái và buông thả nhiều lời hứa hẹn, ngư
ời con gái muốn buộc
ch
ặt những lời hứa nầy với người quen thấy mặt và Thần Ðình chứng giám:
“Giữa đường không tiện nói năng
Xửng mưa cùng xuống Gò Găng tỏ tình
Gò Găng có chợ có đình
Người quen thấy mặt Thần Linh chứng lời”
Gò B
ồi, Cách Thử, Vũng Nồm là những nơi cung cấp nhiều cá, tôm ngon, ai đi qua cũng nhớ đến mùi nư
ớc
m
ắm:
“Gò Bồi có nước mắm cơm
Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò Bồi”
Măng le trên ngu
ồn, cá chuồn dưới vũng là những sản phẩm trao đổi giữa miền cao rừng núi và miền biển:
“Ai về nhắn với nậu nguồn
Măng le gởi xuống cá chuồn gởi lên”
ho
ặc:
“Em về dưới chợ Kỳ Sơn
Mua tôm mua cá đền ơn mẹ già”
Sông Côn, L
ại giang là đề tài của nhiều sử tích, nhiều câu chuyện tình phổ cập trong dân gian, d
òng sông
cung c
ấp nước cho cánh đồng Bình Ðịnh, tô thêm duyên sắc, sự chịu đựng đợi chờ của người con gái:
“Nước Lại giang mênh mang mùa nắng
Giòng sông Côn lai láng mùa mưa
Ðã cam tháng đợi năm chờ
Duyên em đục chịu trong nhờ quản bao”
B
ồng Sơn, Tam Quan là xứ dừa Bình Ðịnh, dừa nhiều đến nỗi không thể nào tưới nổi:
“Công đâu công uổng công thừa
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan”
Ð
ồng Phó, Hà Nhung là nơi nổi tiếng về khoai lang, đậu phộng:
“Củ lang Ðồng Phó
Ðậu phộng Hà Nhung
Chồng bòn, vợ mót bỏ chung một gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đạp cái gùi văng đi ”
Nư
ớc uống càng đi lên nguồn là nước càng trong, món ăn càng xuống gần biển càng nhiều tôm nhiều cá:
“Muốn ăn đi xuống, muốn uống đi lên
Quán Ngỗng Gò Chim Cầu Chàm Ðập Ðá
Vũng Nồm nhiều cá, Vũng Bấc nhiều tôm
Chợ chiều bán cơm, chơ mai bán gạo”
Ngư
ời con gái bán nước trà xanh tại chợ Quán Mới thôn Lộc Thuận, Nhơn Hạnh, nổi tiếng là gái đ
ẹp với mái
tóc huy
ền và nụ cười duyên với má lúm đồng tiền, hàm răng hạt lựu đều đặn làm dừng bư
ớc giang hồ, chạnh
lòng ng
ười lữ thứ:
“Ði đâu vội vã anh ơi
Ghé chợ Quán Mới anh xơi chén trà
Hỏi em cha mẹ có nhà
Trước là thăm Bác sau là thăm em”
Ngày xưa, trai B
ình Ðịnh ra Huế thi, khi về mời gọi gái Huế theo chàng đến nơi có biển Ðông sóng v
ồ, Tháp
chàm ghi s
ử tích anh hùng hào kiệt:
“Mảng vui Hương thủy, Ngự Bình
Ai vô Bình Ðịnh với mình thì vô
Chẳng sang chẳng lịch bằng đất kinh đô
Nhưng Bình Ðịnh không đồng khô cỏ cháy
Ba dòng sông chảy, bảy dãy non cao
Biển Ðông sóng vỗ dạt dào
Tháp xưa làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh”
Có nh
ững câu trong dân gian trách cứ nhau:
“Giếng sâu thăm thẳm
Con chim trên cây cao nó đổ tăm tăm
Nghĩa nhơn anh tích để ngàn năm
Lẽ gì sớm viếng tối thăm duyên chàng
Nào ai ngờ bụng em ở dở dang
Sao mê xứ khác không phụ phàng đến ta đâu
Hồi nào anh nói em trao
Anh chờ em đợi tòng cao bá tàn
Thôi thôi em ở dậy dương gian
Chồng em em giữ chứ nghĩa chàng em đừng quên”
Có nhi
ều chàng trai tham lam tán gái nhiều cô, bắt cá hai tay, cá không bắt được, chim bay mất về rừng:
“Chợ chiều nhiều khế ế chanh
Nhiều con gái quá cho nên anh chàng ràng
Chàng ràng bắt cá hai tay
Cá kia sẩy mất, chim bay về rừng”
Ch
ợ Dinh được nhắc qua câu ca dao sau:
“Chợ Dinh bán nón quan hai
Bộ tua quan mốt, bộ quai năm tiền”
Dù r
ằng túng thiếu, giấy rách phải giữ lề, ăn mặc chỉnh tề:
“Ở đất ta nam thanh nữ tú
Sang đất nàng vượn hú chim kêu
Dù rằng anh hết gạo treo niêu
Cũng thắt dây lưng đỏ, bịt khăn điều thảnh thơi ”
Ðôi khi ng
ười con gái phải xử trí khéo léo để tiện lợi đôi đàng:
“Giếng sâu nhiều mạch giếng trong
Em đây không phải con dòng họ Phan
Cũng vì chút nghĩa duyên chàng
Cho nên em phải lập đàng xuống lên”
Ngư
ời con gái trách trò Ba, người học trò có lòng dạ đen tối như lông đen con quạ, cánh đen con quạ:
“Con quạ đen lông đen cánh
Ðỗ nhánh can cường
Trò Ba qủy quyệt quyết lường duyên em”
Trai gái có nh
ững lúc hẹn hò đối đáp nhau:
“Tới đây không hát thì hò
Không phải con cò ngóng cổ mà nghe”
ho
ặc:
“Tưởng rằng đó địch cùng đây
Hay đâu đó giắt ông thầy sau lưng”
Tính n
ết đứng đắn của người con gái làm người con trai nể trọng:
“Ngó lên cây mít ít trái nhiều xơ
Con gái lẳng lơ trai kia bậy bạ
Con gái đàng hoàng trai nọ dám đâu ”
Chúng ta đ
ã nghe một số câu đố phái nữ hỏi phái nam, và bây giờ chúng ta nghe nam hỏi nữ:
“Tiếng đồn chị hay chữ
Gái Bình Ðịnh có tài
Nếu ông anh rể chị bên trong bị con ong nó cắn mà xỉu thì làm thế nào chị cởi cái quần dài anh rể chị ra?”
Ca dao Bình Ðịnh gồm nhiều thể loại khác nhau đư
ợc truyền tụng trong dân gian qua nhiều thế hệ. Tôi
sưu t
ập một số câu ca dao trên đây do sự truyền khẩu của một số bạn bè và người quen quê quán Bình Ð
ịnh,
xin c
ống hiến quí vị để nhớ lại quê hương xứ sở nằm phía bên kia bờ Ðại dương, nửa vòng quay trái đất:
“Ca dao Bình Ðịnh thật hay
Câu thơ như giọt rượu cay ấm lòng
Quê hương trái đất nửa vòng
Ngày thương đêm nhớ như mong mẹ về”
ÐÀO Ð
ỨC BÍCH
Giai Ph
ẩm TÂY SƠN Xuân Canh Thìn 2000
CA DAO BÌNH ÐỊNH
VÕ NGỌC UYỂN
“Ai về Ðập Ðá quê cha
Gò Găng quê mẹ, Phú Ða quê nàng ”
Quê tôi miền Phú Ða giàu thịnh, ngày xưa có trai thanh gái lịch, có sông nước hiền hòa. Chợ Phú
Ða
đ
ã một thời nổi tiếng vui vẻ nhộn nhịp với những ngày hội lễ Tết tưng bừng: xổ số Cổ Nhơn, hát b
ội, đánh cờ
ngư
ời và những ngày mùa cấy, gặt lúa, giã gạo, hát hò khó phai mờ trong tâm trí tôi, thuở còn niên thiếu.
Những câu hát giao tình, những câu hò châm chọc nhau giữa những đôi trai gái thôn quê trong nh
ững
đêm trăng v
ằng vặc trước sân nhà như vừa mới đâu đây, không xa lắm trong trí tưởng tôi, mà giờ đây đã h
ơn
hai mươi năm dài xa cách và ch
ắc không bao giờ còn nữa ở quê tôi, một nơi mà ngư
ời dân hiện đang sống
trong đói nghèo kh
ổ cực.
Những người dân quê mộc mạc, tuy ít học hoặc kể cả không biết một chữ nào mà cũng có thể ứng kh
ẩu
hát hò v
ới những lời lẽ bóng bẩy, có vần điệu nhịp nhàng theo giọng hò êm ái của thể thơ l
ục bát, điều đó
ch
ứng tỏ mỗi một người dân quê là một thi sĩ hay ít ra cũng là những người có tâm hồn nghệ thuật, y
êu
chu
ộng những cái hay cái đẹp của tình cảm con người.
Ca dao là những câu thơ thường ở thể lục bát, vần điệu êm đềm nhẹ nhàng dễ đi sâu vào lòng ngư
ời
nên d
ễ nhớ dễ thuộc, nó thường bắt đầu bằng những chữ: "Một mai, chiều chiều, gió đưa, nực cư
ời v.v " thật
d
ễ thương và bình dị như ý tưởng và tâm tình của người dân miền thôn dã.
Ca dao là một kho tàng rộng lớn của dân gian, nó phong phú cả về số lượng và chất lư
ợng. Trong phạm
vi bài này, ngư
ời viết chỉ nói về tình yêu của người dân quê Bình Định trong tình cảm lứa đôi, tình c
ảm đối
v
ới xóm giềng làng mạc. Ðọc lại những câu ca dao mà tôi còn nhớ được trong tuổi ấu thơ, trong lúc m
ẹ tôi,
ch
ị em bà con trong làng hát ru em hoặc hát hò giã gạo mỗi đêm trăng, vì v
ậy nó có rất nhiều thiếu sót, mong
ngư
ời đọc niệm tình bỏ lỗi cho.
“Ai về Bình định thăm bà
Ghé vô em gởi lạng trà Ô long
Trà Ô long nước trong vị ngọt
Tình đôi mình như đọt mía lau”
Tình cảm của người con gái quê hương tôi đẹp đẽ dịu dàng, ngọt ngào và sâu đậm như thế đó, th
ương
anh đ
ã đành mà em còn có tình nghĩa với bà con cô bác của anh, cũng như đoạn ca dao dưới đây:
“Anh đi bờ lở một mình
Phất phơ chéo áo giống hình trò Ba
Trò Ba đi học trường xa
Cơm canh ai nấu mẹ già ai coi”
Ngưòi con gái thôn quê dịu dàng và kín đáo, tôi thương anh, tôi sẽ lo cơm nước và chăm sóc mẹ gi
à
cho anh qua hình
ảnh một cậu học trò tên Ba nào đó, để anh được rảnh rang học hành thi c
ử, theo quan niệm
th
ời xưa ấy:
“Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ”
Trai gái miền quê tôi tình cảm đậm đà tha thiết, nó cũng giống như cây tre khóm chuối bờ ao, nh
ư
nh
ững thổ sản mà đồng bào tôi cần cù làm ăn chất phác bằng mồ hôi nước mắt gặt hái được:
“Củ lang Ðồng phó
Ðậu phộng Hà nhung
Chồng bòn thiếp mót bỏ chung một gùi
Chẳng may duyên nợ sụt sùi
Thôi thôi cũng mặc, anh đá gùi anh đi”
Ho
ặc là:
“Một mai dĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ em”
Hay là:
“Một mai ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm sắt mài nên kim”
Ho
ặc là:
“Thương anh mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Hay
là:
“Chiều chiều ra đứng bờ ao
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ”
Người con gái đối với người con trai gắn bó keo sơn là vậy, mà người nam đối với ngư
ời nữ cũng đậm
đà không kém:
“Anh về dỡ gỗ đa đa
Cất nhà lẫm thượng tháng ba em về
Em về coi trước coi sau
Coi nhà mấy cột coi cau mấy buồng”
Hay là:
“Thò tay hái trộm trái xoài
Làng xóm bắt được đánh hai chục đòn
Ðắng cay như trái bồ hòn
Bầm gan tím ruột dạ còn thương em”
Tình cảm lứa đôi của người dân thôn quê thắm thiết đậm đà, nhưng giản dị và mộc mạc như nh
ững
hình
ảnh bình thường mà họ bắt gặp hằng ngày, dù trong lúc gấn nhau hay trong những khi xa cách:
“Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Cá kia quen chậu, vợ chồng quen hơi”
Hay là:
“Anh đi bỏ quạt lan châu
Bỏ thương bỏ nhớ bỏ sầu cho em”
Ho
ặc là:
“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người đãy gấm khăn điều vắt vai”
Không phải lúc nào tình cảm giữa hai người nam nữ trong thôn xóm cũng luôn hòa thuận nhau, mà h
ọ
còn l
ọc lừa kén chọn. Có hơn một lần chàng gặp nàng tỏ ý ngỏ lời như sau:
“Ngó lên trên trời có đám mây xanh
Chính giữa mây trắng, chung quanh mây vàng
Anh chào nàng rồi lại hỏi nàng
Phụ mẫu nhà đã định đức đông sàng hay chưa?
Hay là đón gió chờ mưa?
Có sao nói thiệt sớm trưa anh đợi chờ!”
Chàng sợ nói thẳng vào vấn đề làm động vỡ mối tình của chàng đã ấp ủ bấy lâu n
ên nói lòng vòng
nh
ững là "mây trắng, trời xanh", rồi sau đó mới dám nói rõ ý định. Nhưng nàng có lẽ vì không đ
ể ý đến
chàng, ho
ặc vì một lý do nào đó nên nàng đã trả lời một cách lạnh lùng:
“Ðợi chờ, chờ đợi làm chi?
Trai nam nhân anh có vợ, gái nữ nhi em có chồng!”
Và chàng không b
ỏ cuộc, vẫn tiếp tục bày tỏ:
“Gió đưa gió đẩy duyên đưa
Gặp đâu hay đó, em kén lừa làm chi?”
Có l
ẽ nàng sợ gia đình chàng khó khăn nên nàng đã trả lời:
“Chim chuyền nó lựa nhánh mà chuyền
Làm dâu (em đây) lựa chỗ cha mẹ hiền gửi thân”
Anh
chàng tức quá không thể nói thêm được nữa, nên đâm ra hờn giận trách nàng:
“Chim quyên nó dại lắm không khôn
Núi chóp vung kia không đậu, đậu chòm cỏ may”
Th
ật ra chuyện tình yêu giữa nam nữ nơi thôn dã không phải chỉ có riêng cho những người ở lứa tuổi
đôi
mươi, mà c
òn ở những độ tuổi lỡ thì, goá bụa:
“Chiều chiều vịt lội bàu sen
Ðể anh lên xuống làm quen với nàng”
Nàng đ
ã trả lời từ chối một cách khôn khéo:
“Ðèn hết dầu đèn tắt
Nhang hết vị hết thơm
Anh đừng lên xuống đêm hôm
Thế gian đàm tiếu nam nồm khổ em!”
Ch
ữ "nam nồm" ở đây thật là kỳ diệu, tuyệt vời, nó diễn tả rất đầy đủ, chính xác hoàn cảnh của ngư
ời trong
cu
ộc, tiếng thị phi của bà con chòm xóm láng giềng còn khắc nghiệt hơn c
ảnh gió nam gió nồm thổi lộn nhau
vào mùa tháng hai tháng ba
ở quê tôi. Ðoạn ca dao trên đây mang đầy chất thơ với thể tỷ đối chính xác v
à thi
v
ị.
Khi người con gái cảm thấy nuối tiếc vì mình đã chọn lầm người chồng không xứng ý thì thốt n
ên
nh
ững lời trách móc đầy nỗi thương đau:
“Ngọn dềnh dềnh tía
Ngọn tía tô cũng tía
Ngọn rau lang dâm
Ngọn mía cũng dâm
Mai dong tốt nói em lầm
Bây giờ nghĩ lại giận bầm lá gan”
Dẫu sao thì tình yêu giữa đôi nam nữ nơi thôn quê vẫn luôn đậm đà tha thiết và bình dị, đơn giản v
à
m
ộc mạc như những hiện thực của nó:
“Chiều chiều mây phủ về kinh
Ếch kêu giếng lạn cảm tình đôi ta
Ðôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu”
Tình yêu chỉ đẹp đẽ và tha thiết khi vừa mới chớm nở trong lòng của lứa đôi khi đang tuổi xuân th
ì
"như trăng m
ới mọc, như đèn mới khêu", những hình ảnh thật đẹp và thật thơ mộng, không thua gì nh
ững câu
thơ c
ủa Xuân Diệu và của Hồ Dzếnh.
Nói đến ca dao thì không bao giờ kể hết, nó là một kho văn học của dân gian. Ca dao Bình định còn r
ất
nhi
ều, nhưng người viết thì không nhớ hết, chỉ cố gắng ghi lại những gì còn nhớ được gọi l
à góp vui cùng
cùng bà con cô bác đ
ồng hương, kính mong quí vị niệm tình tha thứ.
VÕ NG
ỌC UYỂN
Giai ph
ẩm Xuân TÂY SƠN Mậu Dần 1998
Mấy nét về ca dao địa danh Bình Định
TRẦN XUÂN TOÀN
1.
Ca dao đ
ịa danh
là những câu ca dao gắn liền với một địa danh (tên đất, t
ên làng, tên núi, tên sông…)
Kho tàng ca dao Bình
Định có nhiều bài ca dao như thế phản ánh đời sống tinh thần và đ
ời sống vật chất của
ngư
ời dân địa phương.
Người Bình Định tự hào về quê hương mình- một quê hương nổi tiếng về danh lam thắng cảnh:
Bình Định có núi Vọng Phu
Có đầm Thị Nại, có Cù lao xanh
Sự kết hợp hài hoà giữa núi-sông-biển đã làm cho bức tranh Bình Định thêm sinh đ
ộng. Rất nhiều
th
ắng cảnh được nhắc đến trong kho tàng ca dao Bình Định. Nói đến phong cảnh Bình Định m
à không nó
đ
ến tháp cổ Chăm-pa quả là một thiếu sót. Bởi đây là những công trình văn hoá độc đáo. Người dân B
ình
Đ
ịnh rất tự hào về những ngọn tháp đó:
Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Gi
Non xanh nước cũng xanh rì
Từ Nam ra Bắc ai cũng đi đường này
Cầu Bà Gi là nơi gặp nhau giữa quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt. Đây là vị trí mà đi t
ừ Nam ra Bắc
ai ai c
ũng đều nhìn thấy ngọn tháp. Trong quần thể các ngọn tháp ở Bình Định, Tháp Đôi cũng là tháp đư
ợc
nhi
ều người biêt đến bởi vì nó nằm ngay trên cửa ngõ ra vào thành phố Quy Nhơn:
Cầu Đôi nằm cạnh Tháp Đôi
Vật vô tri còn đèo bòng duyên lứa
Huống chi ta với mình…
Cách tháp Đôi chừng 1 cây số là hai cầu đường sắt và đường bộ song song nhau nên gọi là c
ầu Đôi,
b
ắc qua sông Hưng Thạnh. Chính sự trùng hợp này mà dân gian có cách so sánh độc đáo giữa cảnh vật và s
ự
g
ắn bó trong tình yêu đôi lứa như vậy.
Phong cảnh Bình Định làm cho bao du khách ngẩn ngơ khi và khi trở về, cái đọng lại trong họ c
òn có
thêm dư v
ị các món ăn:
Ai về Tuy Phước ăn nem
Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm
Ai đã một lần được ăn “nem chợ huyện” thì không sao quên được hương vị đặc sắc của nó. Bên c
ạnh
nh
ững món ăn nổi tiếng, Bình Định còn có nhi
ều món ăn đặc sản độc đáo, trong đó có những món ăn tuy
bình dân nh
ưng rất hấp dẫn cũng được nhiều người biết đến:
Ai về Bình Định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa
Bí đỏ và dừa thì nơi đâu mà chẳng có. Thế nhưng bí đỏ xắt thành từng miếng nhỏ nấu chung với nư
ớc
c
ốt dừa có lẽ ít ở đâu có. Sau khi nấu chín, ta sẽ có một món canh bí đỏ vừa bùi, vừa béo, vừa th
ơm. Ngon
tuy
ệt! Món này thường có ở vùng quê dừa Tam Quan (Hoài Nhơn). Người Bình Đ
ịnh khéo léo trong việc chế
bi
ến những món ăn ngon đồng thời cũng có tài làm ra những sản phẩm mỹ nghệ nổi tiếng:
Gò Găng có nón chung tình
Ở đây có một dạ với mình, mình ơi!
Nếu ai đó đặt chân đến Gò Găng (Nhơn Thành- An Nhơn) thì chắc chắn sẽ ngạc nhiên vì
ở đây hầu
như nhà nào, ngư
ời nào cũng biết chằm nón. Đây là một nghề được lưu truyền từ xưa và cho đến nay vẫn c
òn
là m
ột nghề thủ công chủ yếu của người dân nơi đây. Một sản phẩm thủ công khác cũng nổi tiếng và đư
ợc
nhi
ều người ưa thích, đó là lụa Phú Phong:
Lụa Phú Phong nên duyên nên nợ
Nón Gò Găng khắp chợ mến thương
Tương truyền rằng khi xưa, Nguyễn Ánh bắt được nữ tướng Bùi Thị Xuân, chúng muốn hạ nhục b
à
b
ằng cách bắt ngồi trên xe bêu khắp phố. Nhưng chúng không ngờ rằng đây là một vùng d
ệt lụa nổi tiếng, thế
là dân chúng đem hàng trăm cây l
ụa phủ lên mình bà. Có lẽ chính vì điều này đã góp phần làm cho l
ụa Phú
Phong thêm n
ổi tiếng chăng?
Phong cảnh Bình Định đẹp, sản vật Bình Định độc đáo, còn người Bình Định? Người Bình Đ
ịnh rất
m
ến khách, sống có tình nghĩa, có trước có sau, “có mình có ta”, có tình cảm gắn bó giữa các địa ph
ương
trong t
ỉnh:
Em về Đập Đá quê cha
Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng
Trong tình yêu, con trai, con gái Bình Định rất chân thật. Vì thế lời tỏ tình c
ủa họ cũng rất chân chất
như tâm h
ồn của của họ vậy. Họ không có cách tỏ tình “rào trước đón sau” như “mận” hỏi “đào” mà h
ọ nói
th
ẳng:
Đường lên An Lão cheo leo
Thương em anh mới băng đèo tới đây
Chàng trai kia đã lấy nỗi vất vả, gian truân trên con đường đèo dốc để chứng tỏ tình yêu của m
ình. Và
đ
ể đáp lại tình cảm mặn nồng của chàng trai, cô gái An Lão cũng bộc lộ tình yêu chung thuỷ của mình.
Bao giờ rừng An Lão hết cây
Sông Lại Giang hết nước thì em đây mới hết tình
Xa nhau m
ột ngày, họ mong chờ đến khắc khoải:
Dừa xanh trên bến Tam Quan
Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu
2.
Tên núi, tên sông, tên đồng đã là máu thịt của mọi miền quê hương.
V
ới người Bình Định, núi thể hiện một không gian đặc biệt trong ca dao địa danh Bình Định
. Trong quan
ni
ệm thẩm mỹ phương Đông, người xưa thích sự kiên định, tĩnh, vững chãi của núi (non) hơn là s
ự thay đổi,
đ
ộng, trôi chảy của sông (nước). “Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thuỷ” (Người nhân thích núi, ngư
ời trí
thích nư
ớc). Người xưa trọng nhân hơn trí, chẳng trách họ thích “đăng cao”. Tên núi-
trong ca dao Bình
Đ
ịnh- gắn liền với sự kiên định:
Vọng Phu thuộc dãy núi Bà
Phước Sơn chất ngất gọi là núi Ông
Phải chi đây đó vợ chồng
Gánh tương tư khỏi nặng lòng nước non
Núi bi
ểu tượng cho sự tương xứng, hài hoà trong tình cảm:
Hòn Ông đứng trước hòn Bà
Chồng cao vợ thấp đôi đà xứng đôi
Dáng núi th
ể hiện khí phách con người Bình Định thượng võ:
An Khê nổi tiếng hòn Bình
Ngày xưa Nguyễn Huệ ẩn binh chốn này
3.
Tháp c
ổ nh
ư m
ột đặc tr
ưng c
ủa không gian văn hoá trong ca dao địa danh B
ình
Đ
ịnh
Không ch
ỉ Bình Định mới có tháp Chăm, nhưng tháp Chăm ở Bình Định thật lạ, là “quê mẹ gió nồm thổi
lên
tươi mát. B
ình Định lúa xanh ôm bóng tháp Chàm” (Xuân Diệu- Nhớ quê Nam), là “từ trời xanh- rơi-
vài
gi
ọt tháp Chàm (…) Tôi như đứa trẻ yêu huyền thoại” (Văn Cao- Quy Nhơn). Bởi vì tháp Ch
ăm trong ca dao
Bình
Định đóng vai trò như cái đình trong tâm thức người dân Bắc Bộ. Người dân Bắc Bộ mượn cái đình đ
ể
th
ể hiện tâm tư:
Qua đình ngã nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Thì ng
ười dân Bình Định cũng biết mượn đến tháp:
- Ngó lên hòn tháp Chợ Dinh
Biết ai còn tưởng nghĩa mình hay không?
- Cầu Đôi mà tháp cũng đôi
Dễ chi nhân nghĩa mà rời được nhau
Hơn n
ữa, tháp cổ còn gắn liền với thịnh suy của quê hương:
Vững vàng tháp cổ ai xây
Bên kia Thủ Thiện bên này Dương Long
Nước sông trong dò lòng dâu bể
Tiếng anh hùng tạc để nghìn thu
4. Ca
dao về địa danh, hình ảnh con người Bình Định rất phong phú và là một di sản văn hoá vật chất v
à
tinh th
ần quý báu, gắn liền với cuộc sống lao động xây dựng quê hương của người Bình Đ
ịnh từ quá khứ,
hi
ện tại cho đến tương lai.