Bìa 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA/TRUNG TÂM…………………………..
TÊN ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA
NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở
VIỆT NAM
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Mã phách:………………………………….(Để trống)
Hà Nội – 2021
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Nhà sử học Tourmen đã nói về Bác bằng một câu khái quát như thế này: “Hình ảnh
của chủ tịch Hồ Chí Minh đã hồn chỉnh với sự kết hợp khơn ngoan của Phật, lịng
bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài của Lênin”. Mấy mươi năm đi qua,
ngần ấy thời gian đã làm vật đổi sao dời, song, nó cũng làm cho ta thấy nhận định
của Tourmen là hoàn toàn đúng đắn. Thế giới ca ngợi Hồ Chí Minh khơng những vì
người là biểu tượng mẫu mực về đạo đức mà còn là vì tư tưởng về xây dựng một
nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là sự kế thừa truyền thống văn hóa
và những kinh nghiệm xây dựng, quản lý nhà nước của ông cha ta, là kết quả của sự
trải nghiệm, nghiên cứu, khảo sát nhiều cuộc cách mạng của nhiều nhà nước điển
hình như Mỹ, Pháp, Liên Xô…, đồng thời cũng là sự thấm nhuần và vận dụng sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lenin về nhà nước kiểu mới vào điều kiện nước
ta. Mặc dù Hồ Chí Minh khơng dùng khái nghiệm nhà nước pháp quyền, nhưng tư
tưởng về nhà nước pháp quyền đã được thể hiện không chỉ trong các bài viết, bài
phát biểu của Người về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, mà cịn trong
tồn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của Hồ Chí Minh với tư cách là
người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người trực tiếp chỉ đạo việc
xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt Nam
mới, phấn đấu để Nhà nước ta thực sự trở thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Đi sâu tìm hiểu nhữung nội dung chưa được nghiên cứu của tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước của dân, do dân và vì dân, đồng thời làm rõ thêm các nội dung đã được
nghiên cứu dưới góc độ chính trị. Trên cơ sở đó, khái qt, tổng hợp, hệ thống hóa
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và
vì dân nhằm đưa đến một sự hiểu biết đầy đủ, toàn diện hơn.
Nhiệm vụ:
1
Tìm hiểu những nội dung đã được các tác giả đi trước nghiên cứu, những nội dung
đã được nghiên cứu nhưng chưa hồn thiện hoặc chưa được nghiên cứu.
Tìm hiểu bối cảnh, những tiền đề tư tưởng – cơ sở cho sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Nêu lên một số điểm cần hoàn thiện, một số giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước của dân, do dân và vì dân trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
của dân, do dân và vì dân.
Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị của
Hồ Chí Minh, trong đó trọng tâm là tư tưởng về nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân của Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu
Dùng phương pháp của chủ nghĩa Mac – Lenin, đó là phương pháp duy vật biện
chứng; ngồi ra vẫn cịn những phương pháp khác như phân tích – tổng hợp; so
sánh; quy nạp – diễn dịch; khái quát hóa…cũng được sử dụng nhằm đạt hiểu quả
trong quá trình nghiên cứu.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Góp phần hồn thiện, bổ sung, đưa đến sự hiểu biết đầy đủ hơn về tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thơng qua q trình nghiên cứu, bài luận nêu ra những giá trị, những yếu tố tích
cực trong sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì
dân trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ CHí Minh sinh ngày 19/5/1890, trong một gia đình nhà nho, có nguồn
gốc là nơng dân, ở làng Hồng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An,
nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị, đô hộ của chế độ
thực dân phong kiến. Hồn cảnh gia đình và bối cảnh xã hội tại thời điểm đó đã ảnh
hưởng sâu sắc đến chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ khi người còn rất trẻ.
Với tinh thần yêu nước và thương dân nồng nàn sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị,
Người đã suy nghĩ về những điều khiến cho cách mạng của các phong trào yêu
nước lúc bấy giờ thành bại. Và chính vì lẽ đó, chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết tâm
ra đi tìm con đường giải phóng dân tộc, để cứu dân, cứu nước thốt khỏi thời kì đen
tối chìm trong ách đơ hộ.
Ngày 5/6/1911, người đã lấy tên gọi là Văn Ba, lên chuyến tàu Amiran Latusơ
Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mac xây (Pháp).
Trong suốt 30 năm hoạt động tại, Người đã đi qua nhiều đất nước ở Châu Âu, Châu
Á, Châu Phi, Châu Mỹ. Người hịa mình với những phong trào của công nhân và
nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động
cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, Cách mạng tháng
Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa người đến với chủ nghĩa Mac
– Lenin. Từ đây, Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất, con đường đúng đắn
để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hịa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới. Người
đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và
phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại
của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng ngời cho lớp lớp thế hệ người
Việt Nam học tập và noi theo.
3
CHƯƠNG 2: BỐI CẢNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG VÀ NỘI DUNG TƯ
TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH
2.1: Bối cảnh hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh
2.1.1 Bối cảnh lịch sử Việt Nam
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia phong kiến độc lập
với nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ, kém phát triển.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và gây ra nhiều hậu quả nặng nề cho xã hội.
Triều đình nhà Nguyễn đã từng bước khuất phục đầu hàng Pháp và kí với Pháp hịa
ước Patonot (1884) cơng nhận sự bảo hộ của Pháp trên tồn lãnh thổ Việt Nam.
Cùng lúc đó, các phong trào vũ trang chống thực dân Pháp của nhân dân ta nổ ra
một cách mạnh mẽ, lan rộng trên phạm vi cả nước nhưng tất cả đều lần lượt thất
bại.
Đến đầu thế kỉ XX, công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp từ 1895 đã là cho xã
hội Việt Nam có sự chuyển biến và phân hóa một cách rõ rệt.
-
Xã hội phong kiến chuyển sang xã hội thực dân nửa phong kiến.
-
Xuất hiện nhiều giai cấp tầng lớp xã hội mới: công nhân, tư sản, tiểu tư sản.
-
Công cuộc khai thác thuộc địa là sự bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị và
nơ dịch về văn hóa.
Ảnh hưởng từ các trào lưu cải cách của Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam.
2.2.2 Bối cảnh thời đại
Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và xác lập sự thống trị
của chúng trên thế giới, trở thành kẻ thù chung của nhân dân các dân tộc thuộc địa,
khiến cho các phong trào đấu tranh ngày càng diễn ra một cách mạnh mẽ và rộng
khắp.
Ngồi mâu thuẫn giữa giai cấp cơng nhân và giai cấp tư sản ở các nước tư bản, mâu
thuẫn giữa giai cấp nông dân và đại chủ ở các nước thuộc địa thì cịn có sự mâu
thuẫn mới: mâu thuẫn giữa nhân dân các thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc.
4
Xã hội phân hóa, xuất hiện giai cấp, cho ra đời tầng lớp xã hội mới: công nhân và tư
sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và giành được thắng lợi đã thức tỉnh các dân tộc
châu Á.
Quốc tế cộng sản 3 ra đời (tháng 3/1919) đề cập tới vấn đề thuộc địa, bênh vực các
dân tộc thuộc địa, ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, vạch ra con
đường giải phóng dân tộc.
2.2.3 Những tiền đề tư tưởng – lý luận
2.2.3.1: Giá trị truyền thống Việt Nam
Trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo
dựng một nền văn hóa đặc trưng, riêng biệt, phong phú và bền vững. Trong đó,
những truyền thống tiêu biểu tác động đến Hồ Chí Minh:
-
Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh dựng nước giữ nước
-
Truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, tương thân, tương ái
-
Truyền thống lạc quan, yêu đời
-
Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi và khơng
ngừng tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Đây chính là nguồn tư tưởng, lý luận đầu tiên, là cội nguồn sâu xa, bền chặt nhất
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2.3.2: Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tư tưởng văn hóa phương Đơng
Thứ nhất là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những yếu tố tích cực của Nho giáo,
đó là tinh thần nhân nghĩa, đạo tu thân, ham học hỏi, đức tính khiêm tốn, ơn hịa…
Đồng thời, Người cũng phê phán, loại bỏ những yếu tố tiêu cực của học thuyết này.
Thứ hai là Phật giáo, Người chủ yếu khai thác ở nhà Phật tư tưởng vị tha, từ bi, bác
ái, cứu khổ cứu nạn; tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác; nếp sống giản
5
dị, thanh bạch, làm điều thiện nhưng bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng phê phán tính
chất duy tâm của xã hội Phật giáo.
Ngồi ra, chủ tịch Hồ Chí Minh cịn tiếp thu có chọn lọc cũng như phê phán nhiều
tư tưởng khác: tư tưởng vô vi của Lão Tử, khiêm ái của Mặc Tử, pháp trị của Hàn
Phi Tử, tam dân của Tơn Trung Sơn,…
Tư tưởng văn hóa phương Tây
Nguồn tư tưởng đầu tiên ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh là tư tưởng tự do, bình đẳng,
bác ái của Đại cách mạng Tư sản Pháp. Tư tưởng này đã được Người kế thừa và
phát triển thành tư tưởng đấu tranh địi quyền tự do, bình đẳng cho các dân tộc
thuộc địa.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, qua các trung tâm văn minh châu Âu, Hồ Chí
Minh cịn tiếp thu nhiều tư tưởng văn hóa phương Tây khác cần thiết cho sự nghiệp
cách mạng của mình: tư tưởng dân chủ, phong cách dân chủ, cách làm việc dân chủ
và tinh thần dám nghĩ, dám làm.
Chủ nghĩa Mac – Lenin: Cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mac – Lenin là một bộ phận của văn hóa nhân loại, nhưng là bộ phận
tinh túy nhất, mang tính cách mạng triệt để, tính khoa học sâu sắc nhất trong văn
hóa nhân loại.
Chủ nghĩa Mac – Lenin là nguồn tư tưởng lý luận quyết định bước phát triển về
chất của tư tưởng Hồ Chí Minh vì:
-
Chỉ khi đến với chủ nghĩa Mac – Lenin, Hồ Chí Minh mới tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, con đường giỉa phóng dân tộc theo
cách mạng vô sản.
-
Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận Mac – Lenin, Hồ Chí Minh đã từng
bước xây dựng nên hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của mình về
những vấn đề cơ bản của cách mạng.
6
Thế giới quan và phương pháp luận Mac – Lenin đã giúp Hồ Chí Minh hấp thụ và
chuyển hóa những nhân tố tiến bộ và tích cực của truyền thống văn hóa dân tộc,
tinh hoa văn hóa nhân loại thành trí tuệ của bản thân, giúp Người phân tích và tổng
kết đúng đắn thực tiễn trong nước và thế giới.
Ngoài ra, nhân tố chủ quan cũng là một những điều làm nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người có năng lực thiên bẩm, có khả năng tư duy trí tuệ, tư duy độc lập, có khả
năng phê phán tinh tường, sáng suốt. Đồng thời, Người có phẩm chất đạo đức và
năng lực thực tiễn hơn người, có tình u nước thương dân, yêu thương con người.
2.2.4 Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa điều kiện khách quan và chủ quan, giữa
truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa nhân loại; hình thành trên cơ sở thực tiễn
cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mac – Lenin.
CHƯƠNG 3: NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ LÀ SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN CỦA
HỒ CHÍ MINH
3.1 Q trình lựa chọn kiểu nhà nước
Q trình hoạt động cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với những nhận
thức, tìm kiếm, lựa chọn một hình thức, chế độ nhà nước thích hợp, thúc đẩy dân
tộc Việt Nam phát triển đúng theo quỹ đạo tiến bộ của xã hội.
Xuất phát từ nhu cầu giải phóng dân tộc, trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí
Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Mac – Lenin, lý luận cách mạng tiên tiến nhất thời đại.
Đặt trong dịng chảy liền mạch của tiến trình lịch sử, trên cơ sở phân tích, so sánh,
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra vị trí lịch sử của các chế độ nhà nước đang vận hành.
Trong nhận thức của Người, nhà nước tư sản dù ở Mỹ hay ở Pháp, mặc dù đã xác
lập một hệ thống giá trị theo các chuẩn mực dân chủ và nhân đạo nhưng về bản chất
vẫn là một công cụ thống trị của một số người, vì lợi ích của thiếu số; đại bộ phận
dân chúng vẫn bị bốc lột nặng nề, nô dịch ngay cả chính quốc cũng như ở thuộc địa.
Hồ Chí Minh nhận ra rằng, cái gọi là “thiên đường của dân chủ, tự do” lý tưởng
bình đẳng bác ái chỉ là ngơn từ sáo rỗng, khơng có nội dung xã hội xác thực. Tính
7
chất phiến diện nửa vời không triệt để của nhà nước dân chủ tư sản, ngay trong bản
chất của nó cũng bộc lộ những đối kháng khơng thể điều hịa được thì chắc chắn đó
sẽ là ngun nhân gây ra những cuộc cách mạng xã hội trong tương lai. Vì vậy,
mục đích giải phóng và phát triển của xã hội Việt Nam thì khơng thể lựa chọn kiểu
nhà nước này.
Trái với nhà nước tư sản là nhà nước Xô – viết, tuy còn là một nhà nước non trẻ
nhưng đã bộc lộ sức sống và những ưu thế nổi trội của mình, hướng vào phục vụ
quần chúng nhân dân (cơng – nơng – binh), đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu.
Đây chính là kiểu nhà nước của chế độ xã hội mới mà cách mạng Việt Nam phải đi
theo. Với sự khảo nghiệm thực tiễn cũng như tư duy chính trị nhạy bén, sắc sảo, Hồ
Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, kiểu nhà
nước theo chủ nghĩa Mac – Lenin.
Tính chất sáng tạo của chủ tịch Hồ Chí Minh là việc vận dụng kinh nghiệm Xô –
viết để kiến tạo, xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Vào năm 1941, khi về
nước lãnh đạo kháng chiến, Người đã thành lập Ủy ban Việt minh, Ủy ban giải
phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng thay vì chủ trương xây dựng các Xô – viết đã
từng xuất hiện trong phong trào Xô – viết Nghệ Tĩnh. Giữa năm 1945, khu giải
phóng Việt Bắc hình thành chính quyền hồn chỉnh. Đồng bào được hít thở khơng
khí tự do, tự tổ chức đời sống của mình, tự sản xuất, đánh giặc, quản lý mọi mặt đời
sống xã hội. Bằng công tác thực tiễn chu đáo, thiết thực, các ủy ban nhân dân, chính
quyền kiểu mới đã cắm rễ trong lịng dân chúng. Nhà nước hình thành theo quy
định của Hiến pháp 1946 đều tiếp tục truyền thống đó đến nay, là một nhà nước dân
chủ nhân dân, do dân và vì dân.
3.2 Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – những nét khái quả về sự ra đời và
trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh
Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Người là người đứng đầu và cũng là linh hồn của nhà nước đó.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước Việt Nam ngày càng
được củng cố và hoàn thiện về các mặt: lập pháp, hành pháp và tư pháp, thật sự trở
8
thành công cụ quyền lực của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích và ngun vọng
của tồn dân tộc. Trong xây dựng chính quyền và lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí Minh
đã tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có
phân cơng, phân nhiệm rõ ràng nhằm thực hiện mục tiêu dân tộc độc lập, dân quyền
tự do, dân sinh hạnh phúc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln căn dặn cán bộ, đồn thể phải tin ở dân, vì khả năng của
dân là to lớn, là vơ tận. Trong tồn bộ hoạt động chính trị của mình, Hồ Chí Minh
ln lấy dân làm gốc, lợi ích của nhân là trước hết và cũng là trên hết, nhiệm vụ của
chính quyền và đoàn thể là phụng sự nhân dân.
Trong 24 năm đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng các thiết
chế, thể chế và cơ chế dân chủ, khơi nguồn truyền thống dân chủ ở Việt Nam. Đặc
biệt là Người đã để lại một tấm gương sáng về đạo đức liêm khiết, trong sạch, hết
lòng phục vụ nhân dân, vì dân, vì nước.
CHƯƠNG 4: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
4.1 Nhà nước do nhân dân làm chủ
Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng nhất quán trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Nhà nước Viêt Nam kiểu mới thể
hiện khối đại đoàn kết dân tộc, trong đó có cơng – nơng là gốc và trí thức ngày càng
có vị trí quan trọng đặc biệt khi đất nước bước vào thời kì xây dựng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò
của nhân dân trong lịch sử: “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối thượng”,
“Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Dân là gốc của nước, của cách mạng”,
“Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huy động sức mạnh của toàn dân trong cuộc đấu
tranh tự giải phóng mình, góp phần to lớn đưa dân tộc Việt Nam tới độc lập, tự do,
đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. “Đối với
dân, ta đừng có làm trái ý dân”, Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ ràng vai trò của
9
dân, coi dân là nhân tố động lực của sự phát triển, dân là chìa khóa vạn năng để giải
quyết mọi khó khăn.
Ngay tại điều 1 Hiến pháp 1946 đã khẳng đinh rằng “Tất cả quyền bính trong nước
là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tơn giáo”. Tính chất dân chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của chính
quyền nhà nước kiểu mới. Ở nước ta, nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực,
còn các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ chức ra, nhân viên nhà nước là người
được ủy quyền, thực hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân, trở thành công bộc của
nhân dân.
Trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không
chỉ nằm ở việc nhân dân bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, mà cịn ở
quyền bãi miễn, kiểm sốt, giám sát hoạt động của các đại biểu. Cơ chế này nhằm
đảm bảo sự trong sạch, giữ được phẩm chất, năng lực hoạt động của Quốc hội.
Ngoài ra, Nhà nước của dân, do nhân dân làm chủ còn bao hàm một nội dung quan
trọng khác đó là nhân dân có quyền kiểm sốt Nhà nước.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân là Nhà nước dân chủ, thể
hiện quyền lực của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là bảo đảm thực thi quyền
lực của nhân dân lao động. Quan điểm này của Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt tất cả quá trình xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Trong công cuộc đổi
mới, Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là một nội dung trọng yếu. Điều đó
đã thể hiện đầy đủ trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013.
4.2 Nhà nước phục vụ quyền lợi của nhân dân
Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ trên thực tế và trong hành động. Về quan hệ
giữa nhà nước và nhân dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rằng nếu khơng có
dân thì Chính phủ sẽ khơng đủ lực lượng, nếu khơng có Chính phủ thì nhân dân
khơng ai dẫn đường. Vậy nên, Chính phủ và nhân dân phải đoàn kết thành một
khối. Nhà nước phải hướng dẫn nhân dân gia tăng năng suất sản xuất, thực hành tiết
kiệm, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân hằng ngày. Theo chủ tịch Hồ Chí
Minh, Nhà nước cần phải thực hiện: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm
10
cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Chứ đất nước đã tranh cử tự do, độc
lập nhưng dân vẫn phải khổ, vẫn phải lầm than thì độc lập hay tự do cũng khơng có
giá trị gì, người dân chỉ có thể biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn
no, mặc đủ.
Cách để đánh giá hiệu quả năng lực hoạt động của nhà nước chính là việc nhà nước
có đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu lợi ích của nhân dân hay khơng. Muốn đạt được
mục đích đó, trước hết, vấn đề đặt ra là phải bằng mọi cách giữ cho bộ máy nhà
nước thật sự trong sạch. Nếu hoạt động của nhà nước kém hiệu quả, bộ máy quan
liêu, đội ngũ cán bộ công chức, nhất là cán bộ chủ chốt, bị thối hóa, biến chất thì
nhà nước đó đã trượt ra khỏi quỹ đạo nhân dân làm chủ, biến thành một thế lực đối
lập với nhân dân.
Theo Người, nguy hại nhất là khi được dân ủy quyền, một số cán bộ, công chức đã
kéo bè, kéo cánh để thu vén lợi ích cá nhân, vì ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân mà làm
biến dạng đi nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận ra và sớm cảnh báo những căn
bệnh khá phổ biến, đó là trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo,
Người đã chỉ ra và gọi những hình thức, biểu hiện đó là “giặc ngoại xâm” và hậu
quả của nó hết sức nguy hiểm, làm thất thốt của cơng, chậm tốc độ phát triển, nhất
là xói mịn niềm tin của nhân dân, làm cho dân xa rời nhà nước.
4.3 Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam
Theo nguyên lý chủ nghĩa Mac – Lenin, về chủ nghĩa xã hội khoa học, cách mạng
xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng của giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản,
Đảng của giai cấp cơng nhân khởi xướng và lãnh đạo. Chính vì thế, dưới chủ nghĩa
xã hội, trong cơng cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa toàn bộ các thiết chế
chính trị xã hội về tổ chức và hoạt động đều mang tính đảng, tính chính trị tức là
mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp cơng nhân của Nhà nước Việt
Nam kiểu mới là sự vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết Mac – Lenin về nhà
nước và nhà nước chun chính vơ sản.
11
Trong khi khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta, Hồ Chí Minh
đã vơ cùng khéo léo xử lý, kết hợp tính giai cấp và tính dân tộc thành một thể thống
nhất. Nhà nước dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo theo hệ tư tưởng Mac
– Lenin là nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân. Mặt khác, Nhà nước
dân chủ Việt Nam là một nhà nước thống nhất, của khối đại đồn kết dân tộc. Sự
thống nhất, gắn bó chặt chẽ giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc được quy định
bởi bản chất xã hội và mục đích hoạt động sống của con người. Ở thời đại chúng ta,
khi giai cấp cơng nhân nắm chính quyền, trở thành người đại diện chân chính dân tộ
thì nhà nước cũng trở thành nhà nước của các dân tộc trong một quốc gia. Đấy
chính là điều mà Hồ Chí Minh muốn hướng đến.
Bản chất công nhân quy định nội dung hoạt động của chính quyền. Cùng với sự
phát triển kinh tế - xã hội, cơ cấu giai cấp, bản chất cơng nhân của nhà nước ngày
càng được hồn thiện, bộc lộ rõ nét. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà
nước gắn liền với bảo vệ chế độ chính trị, con đường phát triển độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để đảm bảo và giữ vững bản chất giai cấp công nhân
của nhà nước, cần quán triệt những vấn đề có tính ngun tắc:
Thứ nhất, xây dựng, tổ chức và hồn thiện chính quyền nhà nước phải trên cơ sở
các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mac – Lenin về nhà nước, nhà nước chun
chính vơ sản, áp dụng vào điều kiện, đặc điểm nước ta để có hình thức và cơ chế
vận hành phù hợp. Vì chủ nghĩa Mac – Lenin là nền tảng lý luận để xây dựng mơ
hình nhà nước đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đây chính là nguyên
tắc được chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt 24 năm lãnh đạo đất nước và
cho đến ngày nay thì đây vẫn là nguyên tắc để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà
nước. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc số một để bảo đảm bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước. Về mặt lịch sử, Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân lao động đấu
tranh giành chính quyền, sau đó trở thành Đảng cầm quyền. Nhà nước của Đảng
được quy định bởi các nhân tố lịch sử nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
12
công nhân Việt Nam: bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã
hội, giải phóng giai cấp cơng nhân và tồn thể dân tộc, đem đến cho nhân dân một
cuộc sống đầy đủ, ai cũng có cơm ăn áo mặc.
Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam có nhiều biến động do hồn cảnh lịch sử,
nhưng nhìn chung, từ năm 1945 đến nay, Chính quyền nhà nước bao giờ cũng đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nói đúng hơn chính là nhân dân đã ủy quyền
cho Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhà nước trong mọi tình hình.
Thứ ba, thiết chế, tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nguyên tắc này đảm bảo bản chất giai cấp công nhân vẫn là nguyên
tắc tổ chức đặc thù của nhà nước kiểu mới. Thực chất của nguyên tắc tập trung dân
chủ được Hồ Chí Minh lý giải như sau: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền.
Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành quyền ấy ấy. Thế là dân chủ. Các
cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung.”
Thực hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề có tính ngun tắc trên đây sẽ duy
trì và bảo đảm bản chất giai cấp công nhân của nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Ngày nay, những ngun tắc cơ bản đó vẫn chỉ đạo xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4.4 Sự thống nhất giữa quản lý bằng pháp luật với việc nâng cao giáo dục đạo
đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước khơng hề có quan điểm “trị nước” hay
“trị dân”. Người dùng chữ “trị” đối với những thành phần tổ chức phản động hại
dân, phản nước. Đối với dân, với nước, Người thường dùng từ “lãnh đạo”, “quản
lý”, “điều hành”, “phụng sự” hay “phục vụ” khi dân đã có chính quyền.
Hồ Chí Minh khơng dùng chữ “đức trị” hay “pháp trị” nhưng trong thực tế, Người
đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật với việc tuyên
truyền, giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh công dân cho cán bộ và
nhân dân.
13
Pháp luật và đạo đức đều dùng để điều chỉnh hành vi của con người, nâng con
người lên, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Nếu pháp luật cho phép con người
được hay không được làm việc này, việc khác thì đạo đức chỉ khun ta nên làm
hay khơng nên làm. Thông thường, một hành động vi phạm pháp luật cũng đồng
nghĩa với việc vi phạm đạo đức, tuy nhiên, vẫn có trường hợp vi phạm đạo đức
nhưng chưa đến mức vi phạm pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
hai lĩnh vực pháp luật và đạo đức. Người kết hợp hài hịa, gắn bó giữa đạo đức và
pháp luật trong xử trí từng trường hợp.
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở
quan điểm xử lý các hành vi phạm pháp. Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phải
nghiêm túc, nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ một ai nhằm ngăn cản cái xấu,
cái ác, phát huy cái tốt, cái thiện chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Người
cịn căn dặn “Khơng xử phạt là khơng đúng. Song chút gì cũng trừng phạt cũng là
khơng đúng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh có tấm lịng độ lượng nhưng khơng bao che,
khoan hồng nhưng nghiêm khắc, luôn đấu tranh một cách chân thành, thẳng thắn
với những khuyết điểm, sai lầm.
4.5 Xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
4.5.1 Xây dựng bộ máy nhà nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm bộ máy nhà nước là một hệ thống bao gồm nhiều
bộ phận gắn kết, ràng buộc và thúc đẩy lẫn nhau, nhưng mỗi bộ phận lại có một vị
trí riêng, có tính độc lập tương đối.
Nguyên tắc chung xây dựng bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
-
Xây dựng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nhà nước. Quốc hội giải
quyết những vấn đề chung cho toàn quốc, xây dựng hiến pháp, pháp luật.
-
Xây dựng một Chính phủ mạnh, hoạt động có hiệu quả. Chính phủ là cơ
quan hành pháp cao nhất của nhà nước, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp,
pháp luật, là trung tâm đầu não điều chỉnh mọi hoạt động quản lý của các cơ
quan nhà nước.
14
-
Xây dựng một nền hành chính hiện đại từ trung ương đến địa phương và cơ
sở. Trong quan niệm của mình, Hồ Chí Minh rất chú ý mối quan hệ giữa
chính quyền các cấp và hiệu quả hoạt động của Nhà nước tùy thuộc ở việc
xử lý mối quan hệ đó.
Những nội dung tổ chức bộ máy nhà nước được Hồ Chí Minh vận dụng linh hoạt,
phù hợp điều kiện lịch sử trong từng giai đoạn cụ thể, tránh được sự xơ cứng, trì trệ,
giáo điều, rập khn.
4.5.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước
Trong công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước và nền hành chính, Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm và coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức. Theo người
“cán bộ là nguồn vốn của Nhà nước”, là cái gốc của mọi công việc; công việc thành
công hay thất bại do cán bộ quyết định.
Cán bộ cơng chức nhà nước phải có đủ các đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư, có tri thức và học thức, nắm vững lý luận, sâu sát thực tế, có lý trí vững
vàng, tình cảm trong sáng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và khoa học, chấp
hành đúng pháp luật.
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải biết người, biết dùng người, tạo
điều kiện cho nhân viên phát huy được tài năng và phẩm chất của mình.
Hồ Chí Minh có u cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, đội
ngũ này phải mang tính chuyên nghiệp và được tiêu chuẩn hóa. Để đạt được mục
tiêu đó, Người đã xây dựng một chế độ thi tuyển cán bộ, cơng chức vào các ngạch,
bậc của ngành hành chính. Chế độ thi tuyển cán bộ, công chức do Hồ Chí Minh
khởi xướng thể hiện một cách rõ nét tư tưởng chính quy, hiện đại, dân chủ, cơng
khai, cơng bằng, bình đẳng xã hội, khơng có đặc quyền đặc lợi.
CHƯƠNG 5: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
15
5.1 Nội dung và phương hướng vận dụng
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của nhiều nước
trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rất rõ ràng phương hướng đổi
mới Nhà nước hiện nay, đó là đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, phát huy tính dân chủ, tăng cường pháp chế.
Những nội dung đó được khái qt, cụ thể hóa thành các nội dung chính:
-
Đảm bảo trên thực tế Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân. Đây là quan điểm chỉ đạo có tính ngun tắc, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bản chất giai cấp công nhân trong tổ
chức và hoạt động của Nhà nước.
-
Tiến hành cải cách thể chế, phương thức hoạt động của Nhà nước một cách
đồng bộ, bao gồm cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
-
Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc thực thi nghiêm chỉnh pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
-
Kiên quyết đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
-
Xây dựng đội ngũ cơng chức vững mạnh, trong sạch, có đạo đức, phẩm chất,
có năng lực.
-
Giải quyết đúng đắn quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của
Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước.
-
Củng cố, tăng cường cơ sở xã hội của Nhà nước là khối đại đoàn kết tồn
dân mà nịng cốt là liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức.
Nghị quyết đại hội XIII của Đảng đã khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.”
Chính vì thế, trong thực hiện cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
16
Thứ nhất, phải nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Thực
tiễn đã chỉ ra rằng, chừng nào Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực
hiện phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ sở, hoặc để xảy ra dân chủ cực đoan,
dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều hành và quản lý của bộ máy
chính quyền cơ sở, thì chừng đó quyền lực Nhà nước ở địa phương bị suy giảm, cản
trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, xây dựng nhà nước luôn đi đôi khắc phục được những căn bệnh cố hữu
của các nhà nước kiểu cũ. Tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch của nhà nước. Đồng thời, phải kiên quyết chống
luận điệu xuyên tạc núp bóng “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” để xuyên tạc những
giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã xây dựng.
Thứ ba, tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Theo chủ tịch
Hồ Chí Minh, để xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp
chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được
xem nhẹ bất kì mặt nào.
Thứ tư, ln đề phịng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong tổ chức hoạt
động của bộ máy Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ơ, lãng
phí và quan liêu. Sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc
vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về
đạo đức của những người cầm quyền.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong
cách, năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ trung thành của
nhân dân”, toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân.
Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước của dân, do dần và vì dân, đáp ứng địi hỏi của sự
nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Thực tiễn
cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định để
17
bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng
bước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi trên con đường cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
5.2 Thực tiễn
Trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, khoa học – công nghệ đã có sự phát triển
vượt bậc, Đảng ta khẳng định Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân,
đồng thời là người tổ chức, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Như vậy, mọi
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đều phải phản ánh được lợi
ích của đại bộ phận dân chúng.
Trong 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, bộ máy nhà nước ở Việt Nam đã có
bước phát triển cả về tổ chức và hoạt động, theo hướng bảo đảm nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Hoạt động của Quốc hội, Hội dồng nhân dân các cấp, của Chính
phủ, Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân được xây dựng bảo đảm giữ vững
bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, từng bước nâng cao hiệu
quả hoạt động.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nhiều pháp lệnh và nghị quyết, bảo đảm dân
quyền, nhân quyền và có tính nhân văn sâu sắc. Đồng thời tiến hành bổ sung, sửa
đổi Hiến pháp và hệ thống pháp luật phù hợp yêu cầu thực tiễn của đất nước.
Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi chúng ta cần củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức của Nhà nước thật sự là cơng bộc của dân, có đức, có tài, vì đây là cái gốc, là
nền tảng để hoàn thiện bộ máy nhà nước. Và sự nghiệp đổi trong 35 năm đã cho
thấy, tổ chức Chính phủ được sắp xếp hợp lý hơn, tổ chức chính quyền địa phương
phát triển theo hưởng hiệu quả hơn, phân định cụ thể hơn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ, cán bộ, ngành và chính quyền các địa
phương.
Đặc biệt vừa qua khi đất nước phải đối phó với đại dịch Covid-19, Đảng, Nhà nước
cùng với Chính phủ đã kịp thời có chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn, chưa
18