Bìa 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA/TRUNG TÂM…………………………….
TÊN ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG CỦA HÀN PHI TỬ VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI
VỚI XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Lịch sử học thuyết chính trị - pháp lý
Mã phách:………………………………….(Để trống)
Hà Nội – 2021
MỞ ĐẦU
Tư tưởng chính trị thuộc hình thái ý thức xã hội, phản ánh thực tiễn chính trị
của xã hội; Thể hiện quan điểm, tư tưởng của các giai cấp về việc giành, giữ,
thực thi quyền lực nhà nước, quyền điều hành và quản lý xã hội nhằm thực
hiện lợi ích giai cấp.
Hàn Phi Tử (280 – 233 TCN) là một nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc thời
Xuân Thu – Chiến Quốc, thuộc trường phái Pháp gia. Tuy không phải là
người khởi xướng nhưng ơng đã có cơng tổng hợp và hoàn thiện tư tưởng
Pháp gia, đưa Pháp gia trở thành một trong bốn trường phái tư tưởng lớn của
Trung Quốc thời bấy giờ. Chính vì vậy, ơng được xem là người đại diện tiêu
biểu của trường phái Pháp gia.
Tư tưởng Hàn Phi Tử có ảnh hưởng sâu rộng ở xã hội phong kiến Việt Nam
trong suốt chiều dài lịch sử, do vậy, nghiên cứu tư tưởng chính trị của Hàn
Phi Tử vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Những
nội dung trong tư tưởng chính trị Hàn Phi Tử là kết quả của sự khái quát, tổng
kết những vấn đề chung, mang tính quy luật của chính trị. Tuy ra đời đã lâu
song những tư tưởng đó vẫn gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ để có thể chọn
lọc, tiếp thu, kế thừa những yếu tố hợp lý.
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HÀN PHI TỬ
Hàn Phi Tử là nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc thời cổ đại. Tư tưởng của
ông không những tác động tới chính trị đương thời mà cịn có ảnh hưởng lâu
dài trong suốt chiều dài lịch sử.
Về tư tưởng, Hàn Phi tiếp thu, kế thừa có phê phán tư tưởng của các trường
phái Nho gia, Đạo gia và Pháp gia, nhưng không phải ông đã trộn lẫn các
phái tư tưởng, mà chính là ơng đã sáng lập ra hệ thống tư tưởng của ông,
trong lịch sử thời đại ông.
Pháp, thuật, thế là ba hệ pháo trong Pháp gia và cũng là nội dung cơ bản trong
tư tưởng Hàn Phi nên khi nghiên cứu về tư tưởng Hàn Phi cũng như tư tưởng
Pháp gia đều tập trung vào những nội dung này; Trong đó, pháp được tập
trung khai thác nhiều dưới góc độ pháp luật, thuật được khai thác nhiều dưới
khia cạnh thuật dùng người.
Ngoài ra, con người trong tư tưởng Hàn Phi được tiếp cận chủ yếu ở góc độ
triết học, đi sâu vào bản chất con người , còn con người dưới góc độ chính trị
tuy đã được đề cập nhưng chưa phải là nhiều. Dưới góc độ triết học, chủ yếu
yếu khai thác bản chất “ham lợi” của con người.
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG VÀ BỐI CẢNH CHO SỰ RA ĐỜI CỦA TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ HÀN PHI TỬ
2.1 Tư tưởng chính trị
“Tư tưởng chính trị” là khái niệm kép, gồm 2 khái niệm là “tư tưởng” và
“chính trị”.
Tư tưởng là những quan niệm được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,
phản ánh nhận thức của con người về thế giới tự nhiên và xã hội. Tư tưởng
2
phụ thuộc hay được quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, phản
ánh tồn tại xã hội nhưng lại có tác động trở lại và định hướng sự phát triển
của tồn tại xã hội.
Chính trị là một lĩnh vực hoạt động đặc thù trong một xã hội có giai cấp, thể
hiện mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các nhóm lợi
ích, các tổ chức chính trị chính trị - xã hội và sự tham gia của quần chúng
nhân dân, trong việc giành, giữ, sử dụng, thực thi quyền lực Nhà nước, quyền
điều hành, quản lý xã hội.
Từ phân tích trên, ta có thể hiểu “tư tưởng chính trị” chính là sự kết hợp giữa
hai khái niệm tư tưởng và chính trị: Tư tưởng chính trị là một hình thái ý
thức, phản ánh thực tiễn chính trị trong xã hội có giai cấp, thể hiện quan điểm
tư tưởng của các giai cấp trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước,
quyền điều hành và quản lý xã hội nhằm thực hiện lợi ích giai cấp.
2.2 Bối cảnh cho sự ra đời tư tưởng chính trị Hàn Phi Tử
2.2.1 Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội
Về bối cảnh cho sự ra đời tư tưởng chính trị Hàn Phi Tử là bối cảnh kinh tế,
chính trị, xã hội của Trung Quốc giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc (từ năm
770 đến năm 220 TCN) .
Về kinh tế:
Điều quan trọng mang tính quyết định đến công cụ lao động trong giai đoạn
này là sự xuất hiện của “sắt”. Đồ sắt nhanh chóng được sử dụng rộng rãi, đây
là bước tiến bộ vượt bậc về mặt kỹ thuật, tạo nên một cuộc cách mạng lớn
trong công cụ sản xuất, nhất là đối với nông nghiệp.
Chế độ “tỉnh điền” – cơ sở kinh tế của chế độ chiếm hữu nô lệ bị lung lay tan
rã. Quan hệ sản xuất phong kiến dần dần được xác lập.
Về xã hội:
3
Sự phát triển của kinh tế đã làm thay đổi về cơ bản thành phần, cơ cấu xã hội.
Sự xuất hiện của các lực lượng xã hội mới như thương nhân, thợ thủ công,
tầng lớp địa chủ mới…đã làm thay đổi bộ mặt của xã hội. Đây là những thành
phần mà địa vị kinh tế đã khẳng định vị trí của họ trong xã hội. Tuy vậy, nắm
giữ quyền lực vẫn là tầng lớp lãnh chúa phong kiến cũ đã mất dần địa vị kinh
tế, điều đó đã dẫn đến những mâu thuẫn sâu sắc của xã hội. Những mâu thuẫn
đó nói lên tính chất phức tạp và sự phân tán của xã hội. Đây là thời kỳ tiềm ẩn
một sự biến đổi dữ dội của xã hội.
Về chính trị:
Đây cũng là thời kỳ mà chế độ cai trị theo kiểu “Tông pháp” của nhà Chu trở
nên suy đồi và loạn lạc. Thiên tử nhà Chu chỉ còn là danh nghĩa.
Về tư tưởng:
Các trường phái tư tưởng đua nhau ra đời, trong đó nổi trội hơn cả là bốn
trường phái: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia và Pháp gia.
2.2.2 Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng chính trị Hàn Phi Tử
Tư tưởng Hàn Phi là sự hội tụ của nhiều trường phái tư tưởng Trung Quốc
thời cổ đại. Phó giáo sư Phan Ngọc có viết: “Kết quả ông là con người duy
nhất của Trung Quốc thực hiện được một sự tổng hợp ba học thuyết Nho,
Lão, Pháp.”
Tư tưởng Hàn Phi Tử, về cơ bản thì Hàn Phi tiếp thu tư tưởng của Nho gia
mà trực tiếp là thầy Tuân Tử, tiếp thu tư tưởng về “Đạo”, “vô vi” của Lão Tử,
kế thừa, tiếp thu tư tưởng của các Pháp gia đi trước.
Tiếp thu tư tưởng của Tuân Tử - Nho gia
Hàn Phi là người học rộng, do vậy, một điều chắc chắn là các học thuyết, các
trường phải tư tưởng đương thời như Nho gia không thể không ảnh hưởng
đến tư tưởng của ông. Mặt khác, Hàn Phi còn là học trò của Tuân Tử, do vậy,
4
Tuân Tử có ảnh hưởng trực tiếp đến Hàn Phi, đặc biệt là nhìn nhận về xã hội,
về bản tính con người.
Tuân Tử là nhà tư tưởng nổi tiếng đương thời thuộc trường phái Nho gia, tuy
vậy, quan điểm của ơng có phần khác với quan điểm chính thống của Nho
gia, nhất là quan niệm về bản tính con người.
Do tiếp thu tư tưởng “tính ác” của thầy Tuân Tử nên trong nhìn nhận về con
người, Hàn Phi đề cao tính “tư lợi” ở con người hơn là tính thiện, thậm chí
ơng cịn phủ nhận những tư tưởng đề cao cái quý trong con người. Đối với
ông, mọi cái cao quý thiêng liêng đều quy về “lợi” hết, với ông, con người
bao giờ cũng làm theo tiếng gọi của lợi ích cá nhân.
Tiếp thu tư tưởng về “Đạo” và “vô vi” của Lão Tử
Hai nội dung quan trọng trong tư tưởng Lão Tử mà Hàn Phi tiếp thu là tư
tưởng về “Đạo” và tư tưởng “vô vi”. Thông qua việc giải thích và minh họa
tư tưởng Lão Tử, Hàn Phi đã “lồng ghép” tư tưởng của mình vào, hay nói
cách khác, Hàn Phi đã “mượn” tư tưởng Lão Tử để thể hiện tư tưởng của
mình.
Tiếp thu tư tưởng của các Pháp gia
Hàn Phi là người đại diện tiêu biểu cho phái Pháp gia, tuy nhiên ông không
phải là người khởi xướng sáng lập ra trường phái này mà ông tiếp thu, kế
thừa tư tưởng của Pháp gia đi trước, kết nối, thống nhất tư tưởng các phái của
Pháp gia, nâng lên tầm lý luận. Do vậy, tư tưởng của ông thâu tóm tồn bộ tư
tưởng Pháp gia.
Về pháp, ơng kế thừa và tiếp thu tư tưởng của Thương Ưởng; về Thuật, ông
kế thừa và tiếp thu tư tưởng của Thân Bất Hại; Về Thế, ông kế thừa và tiếp
thu tư tưởng của Thận Đáo.
5
Tiếp thu trực tiếp lý thuyết của các bậc tiền bối Pháp gia, Hàn Phi xây dựng
cho mình một học thuyết chính trị hồn tồn mới; cái mới ở đây không phải
là sự phủ định mà là sự bổ sung, hoàn thiện trên cơ sở những nền tảng tư
tưởng đã có. Các nguyên lý cơ bản về “pháp”, “thuật”, “thế” mà ông tổng hợp
đã được các bậc tiền bối Pháp gia đưa ra trước đó, đồng thời ơng bổ sung tư
tưởng của Tuân Tử, Lão Tử để lý thuyết của mình có sức thuyết phục.
Hàn Phi tiếp thu các tư tưởng đó nhưng khơng phải là làm một phép cộng đơn
thuần tư tưởng của những người đi trước, mà ở đó, pháp, thuật, thế được vận
dụng tổng hợp, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, tạo thành một hệ thống lý thuyết
chính trị hồn chỉnh để có thể vận dụng vào thực tiễn chính trị một cách hiệu
quả.
CHƯƠNG 3: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HÀN PHI TỬ
3.1 Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử
Hàn Phi lập luận rằng thuyết nhân trị khơng cịn phù hợp trong thời đại
của ơng. Dựa vào thuyết nhân khẩu mà ông lý giải: thời thượng cổ, dân thưa
thớt, tài sản ít nên con người sống với nhau hiền hịa, giúp đỡ lẫn nhau và tơn
sùng các vị vua giàu đức độ như vua Nghiêu, vua Thuấn; nhưng bây giờ thời
thế đã khác, dân số đông đúc, của cải tích lũy ngày càng nhiều nên con người
tranh giành nhau, mưu lợi cái riêng cho mình mà điển hình là các cuộc thơn
tính diễn ra giữa các nước chư hầu. Mặt khác, ông cho rằng thời Nghiêu,
Thuấn tồn tại cách thời đại của ông đã mấy ngàn năm lịch sử, sự hiểu biết về
họ cũng chỉ là truyền thuyết khơng thể xác thực được. Chính vì vậy, cai trị
ngày nay mà áp dụng phương thức của thời đại khác là không phù hợp, cai trị
thời nay cần phải cứng rắn ban hành luật pháp một cách rõ ràng nhằm lặp lại
trật tự xã hội, đưa mọi việc vào khuôn khổ, phép tắc.
3.1.1 Tư tưởng của Hàn Phi Tử về pháp
6
Hàn Phi chưa đưa ra một định nghĩa mang tính xác định về “pháp”, tuy nhiên,
trong tác phẩm Hàn Phi Tử có nhiều chỗ ơng đã làm rõ nội hàm của khái
niệm này như ở thiên “Định pháp” hoặc ở thiên “Hữu độ”. Từ đó có thể hiểu,
Hàn Phi quan niệm “pháp” là khuôn mẫu, phép tắc, chuẩn mực do vua ban ra,
công bố ở công đường cho mọi người thực hiện. Tới Hàn Phi, “pháp” ở đây
mới được hiểu theo nghĩa là pháp luật.
Về tính tất yếu của “pháp trị” đây là nội dung quan trọng trong tư tưởng pháp
trị của Hàn Phi nhưng ít được đề cập. Trên cơ sở phân tích những điều kiện
lịch sử, cũng như điều kiện kinh tế - xã hội, Hàn Phi đã luận chứng cho tính
tất yếu phải dùng pháp trị trong chính trị mới đảm bảo sự trị an của quốc gia.
Những yêu cầu của pháp luật, đó là: Pháp luật phải hợp thời, rõ ràng dễ hiểu,
công bằng, công khai và công bố rộng rãi cho mọi người biết.
3.1.2 Tư tưởng của Hàn Phi Tử về thuật
Thuật là nội dung quan trọng trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi.
Về khái niệm, “thuật” là danh từ tương đối đa nghĩa được dùng trong chính trị
từ thời cổ đại Trung Quốc. Thân Bất Hại được coi là người đề xuất dùng thuật
trong chính trị, coi thuật như một phương thức trị nước của bậc vua chúa.
Thuật là nhân tài năng mà giao cho chức quan, theo cái danh mà trách cứ cái
thực, nắm quyền sinh sát trong tay mà xét khả năng của quần thần.
Ở thiên “Định Pháp” trong tác phẩm Hàn Phi Tử, Hàn Phi có nói: Thuật là
nhân trách nhiệm mà giao chức quan, theo tên gọi mà yêu cầu sự thực, nắm
lấy cái quyền cho sống và giết chết, hiểu rõ năng lực của bầy tơi, đó là điều
nhà vua cần nắm lấy. Còn ở thiên “Nạn Tam”, ông nói: Thuật trị nước là cái
giấu trong bụng con người để kết hợp các đầu mối và ngầm chế ngự bầy tơi.
Tuy nói nhiều dến thuật nhưng Hàn Phi khơng hề đưa ra một định nghĩa
chính xác về thuật: Qua những nội dung mà Hàn Phi Tử thể hiện, ta có thể
7
hiểu: Thuật là phương thức để bậc vua chúa tuyển chọn, kiểm tra, giám sát sử
dụng bầy tôi.
Về nội dung: Danh từ “thuật” được Hàn Phi dùng với hai nghĩa: “kỹ thuật” và
“tâm thuật”. Trong kỹ thuật lại có “thuật dùng người” và “thuật trừ gian”, còn
“tâm thuật” là nội dung rộng, thiên biến vạn hóa, khơng theo một quy tắc nào
và khó xác định.
Thuật dùng người được phân tích ở các nội dung như tuyển chọn, sử dụng
người, trong thuật dùng người Hàn Phi chú trọng đến quy tắc “hình danh”.
Với thuật trừ gian được phân tích ở khía cạnh kiểm tra, giám sát bầy tôi, buộc
họ phải thi hành pháp luật.
3.1.3 Tư tưởng của Hàn Phi Tử về thế
“Thế” là một trong ba nội dung tạo nên học thuyết “pháp trị”.
Về khái niệm, trong tác phẩm Hàn Phi Tử của Hàn Phi, ngoài thiên “Nạn
thế”, chất vấn về cái thế, thuật ngữ “thế” còn được dùng nhiều chỗ, với nhiều
cách gọi khác nhau như “thế vị”, “uy thế”, “thế trọng”, những thuật ngữ đó đề
nói về “quyền thống trị hay chủ quyền” của bậc vua chúa. Qua cách diễn đạt
và giải thích trên, ta có thể hiểu rằng: Thế là uy quyền, địa vị mà bậc vua
chúa dựa vào đó để buộc người khác phải phục tùng. Nếu so sánh với quan
niệm hiện đại thì “thế” được hiểu như “quyền lực”. Trong chính trị, thế là
quyền lực của các bậc vua chúa, bởi suy cho cùng, mục tiêu chính trị có đạt
được hay khơng thể hiện ở việc bậc vua chúa có “thế” hay khơng.
Thế quan trọng như vậy đối với việc cai trị, do đó Hàn Phi cho rằng trong
chính trị khơng nhất thiết phải có người hiền tài mà chỉ cần người trung bình
nhưng giữ được thế vẫn cai trị thành cơng. Ơng nói: Những người cai trị tối
đại đa số là những người trung bình.
8
Hàn Phi cũng chỉ ra cách tạo thế của vua, đó là: Ơng vua muốn có thể thì phải
có pháp luật, đề cao pháp luật, đồng thời phải nắm lấy quyền thưởng phạt.
3.1.4 Tư tưởng Hàn Phi Tử về quan hệ pháp, thuật, thế
Giải quyết mối quan hệ pháp, thuật, thế là một bước phát triển của Hàn Phi
Tử đối với tư tưởng Pháp gia, nâng tầm của Pháp gia lên ngang hàng cùng
các trường phái tư tưởng lớn đương thời.
Về quan hệ pháp, thuật, thế: Pháp – thuật – thế của Hàn Phi không phải là
một phép cộng đơn thuần của những người đi trước, mà là một sự kết hợp,
hịa quyện nhuần nhuyễn khơng thể tách rời. Nó tạo nên một kết cấu vững
chắc mà kết cấu đó nếu thiếu đi một trong ba cái thì khơng thể thành “thuật trị
nước”. Trong đó, pháp đứng ở vị trí trung tâm, thuật và thế như những điều
kiện cần và đủ để thi hành pháp luật, tạo cho pháp luật có hiệu lực.
Pháp – thuật – thế từ chỗ rời rạc, phiến diện của các bậc tiền bối Pháp gia,
đến Hàn Phi đã được kết lại thành một khối vững chắc. Kết cấu pháp – thuật
– thế tạo nên cái cốt lõi trong lý luận chính trị của Hàn Phi, nó biểu hiện sự
hồn thiện và hội tụ các trường phái của Pháp gia trong học thuyết chính trị
của ơng.
3.1.5 Tư tưởng của Hàn Phi Tử về thưởng, phạt
Nếu như pháp luật là trung tâm lý luận chính trị của Hàn Phi Tử thì thưởng và
phạt là cơng cụ sắc bén của bậc vua chúa để pháp luật được thi hành. Khơng
có thưởng phạt thì pháp luật chỉ là hình thức trống rỗng vơ dụng. Do đó, trong
lý thuyết chính trị của Hàn Phi, thưởng phạt có một vị trí vô cùng quan trọng.
Hàn Phi Tử đề cập nhiều đến việc thưởng phạt, một phần đó là cơ sở thể hiện
của pháp luật, nó tạo cho pháp luật sức mạnh, có hiệu lực để vua đạt được
mục đích chính trị. Mặt khác, nó cịn phản ánh đặc điểm cai trị chuyên quyền
của chế độ phong kiến theo lối trung ương tập quyền, đồng thời cũng phản
9
ánh yêu cầu của xã hội lúc đó là phải có thưởng phạt nghiêm minh để tăng
tính hiệu lực của pháp luật.
Trong thưởng phạt, Hàn Phi chủ trương khi ban thưởng không được đẻ cho
dân chịu ơn đức, mà phải cho họ hiểu rằng việc thưởng đó là do cơng lao của
họ. Ngược lại, hình phạt khơng được để cho dân oán, bởi họ phạm tội, phạm
pháp nên mới bị phạt chứ không phải người trên vô cớ phạt họ.
Theo Hàn Phi, thưởng phạt có đúng đắn thì mới thể hiện được tác dụng
“khuyến khích” dân làm điều lợi và “ngăn cấm” dân làm điều hại, chính vì
vậy, ngun tắc của thưởng phạt là “thưởng hậu” và “phạt nặng” nhằm “dùng
hình phạt để trừ bỏ hình phạt”. Cơ sở thưởng phạt là căn cứ theo pháp luật,
không được thưởng phạt bừa bãi, vù nếu thưởng phạt bừa bãi sẽ làm mất tác
dụng của thưởng phạt.
3.2 Tư tưởng của Hàn Phi Tử về con người chính trị
Con người chính trị là con người được xem xét trong lĩnh vực chính trị, được
xác định trong các quan hệ chính trị.
Con người chính trị là con người xã hội; hoạt động của họ gắn liền với mục
tiêu giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị của một giai cấp, một dân tộc,
một lực lượng xã hội nhất định.
Trong tư tưởng của Hàn Phi Tử, con người chính trị được xem xét trong các
quan hệ chính trị, được chia theo các cấp độ: “Vua” (Người đứng đầu – thủ
lĩnh chính trị), “bầy tơi” (đội ngũ quan chức hoạt động chính trị) và người
dân.
3.2.1 Tư tưởng của Hàn Phi Tử về “vua”
Nếu như trong tư tưởng Nho gia, “người hiền” như Nghiêu, Thuấn; Trong tư
tưởng Mặc gia thì là một vị vua “kiêm ái”, biết thương u và nhân rộng tình
thương u đó trong xã hội; Trong tư tưởng Lão Tử là những bậc “thánh
10
nhân” có “Đạo”, thực hiện chính sách trị nước “vơ vi” thì ở Hàn Phi Tử là
một hình mẫu ơng vua “trung bình” nhưng ơng vua đó phải biết đề ra pháp
luật và chấp hành luật pháp.
Tiêu chuẩn của vua theo Hàn Phi là phải “đúng với pháp luật”, tuân theo pháp
luật. Vua cũng phải có “thuật” để kiểm tra, giám sát, khống chế bầy tôi, buộc
bầy tôi phải phục tùng, chấp hành pháp luật. Đối với dân thì phải được lịng
dân, nếu khơng được lịng dân thì mục đích của ơng ta khơng đạt được, vì cái
cuối cùng của thuật trị nước là yêu dân, do lo sản xuất chiến đấu và làm giàu
chứ khơng phải làm loạn.
Ngồi ra, để đạt được mục đích bá vương, nước nhà yên trị thì nhà vua phải
nắm lấy quyền lực, phải có thế, nhưng khơng vì thế mà độc đốn, Hàn Phi
phản đối nhà vua độc đoán, chỉ hành động theo ý riêng của mình.
Vị vua theo chuẩn mực của Hàn Phi chính là vị vua biết tập trung quyền lực
vào tay mình nhưng khơng độc đốn, mà phải biết đề ra, nêu cao pháp luật và
chịu sự chi phối của pháp luật.
Trong hệ thống lý luận chính trụ của Hàn Phi Tử, vai trò của người lãnh đạo –
“vua” đã được ông đề cập đến một cách tương đối toàn diện từ tư cách, nhân
phẩm, năng lực đến cách thức và phương pháp hoạt động nhằm đạt được mục
đích là nắm quyền lãnh đạo, lập nghiệp bá vương, làm chủ thiên hạ.
3.2.2 Tư tưởng của Hàn Phi Tử về “bầy tôi”
Để thực hiện ý chí của mình, vua khơng thể một mình cai quản được thiên hạ
mà ý chí đó được thực hiện thông qua một hệ thống quân thần, những người
giúp việc xung quanh ơng – đó là những “bầy tôi”. Nghiệp bá vương của vua
thành hay bại phụ thuộc nhiều vào việc sử dụng đội ngũ bầy tôi. Do đó trong
chính trị, vấn đề sử dụng con người để thực hiện mục tiêu chính trị được đặt
lên hàng đầu.
11
Nhận thứuc được tầm quan trọng nên lý luận chính trị của Hàn Phi chủ yếu
xoay quanh quan hệ vua – tôi. Vua phải sử dụng bầy tôi thể nào để vừa có thể
thực hiện tốt được nghiệp bá vương của mình mà bầy tơi cũng khơng phản lại
mình, đó chính là thuật của vua sử dụng bầy tơi.
Xuất phát từ nhận thức “bản chất” con người “ham lợi” thì vua phải xác định
động cơ nào để bầy tôi phục vụ, tơn thờ mình. Do đó, trong mắt Hàn Phi Tử,
bầy tôi coi trọng đạo đức là những con người giả dối, chỉ là đạo đức giả chứ
không bộc lộ đúng bản chất của mình, cho nên vua khơng nên dùng. Tiêu
chuẩn “đạo đức” của bầy tôi trong mắt Hàn Phi Tử là phải biết quý trọng của
cải, tôn thờ điều lợi chứ không phải là những con người coi thường bổng lộc,
tôn thờ nhân nghĩa như quan niệm của Nho giáo.
Tiêu chuẩn để chọn bầy tôi, theo Hàn Phi chính là những con người biết xem
trọng luật pháp. Theo ông, kẻ gọi là bầy tôi hiền là kẻ biết soi sáng pháp luật,
làm chức quan giỏi để đề cao ông vua của mình.
Phẩm chất của bầy tôi cần phải đánh gia bằng thực tài của họ chứ không phải
bằng lời nói, do đó khi tiến cử người hiền phải dựa vào thực tài của họ, cân
nhắc tài năng mà giao nhiệm vụ.
Khi dùng pháp luật để chọn người hiền thì “khơng địi hỏi phải có quan liêm
khiết” mà vua chỉ cần dùng cái thuật để biết họ, dùng pháp luật để khống chế
hành động của họ, dùng tước lộc để đổi lấy cái công lao của họ.
3.2.3 Tư tưởng của Hàn Phi Tử về dân
Lý thuyết “pháp trị” của Pháp gia chú trọng vào tính thực tiễn, theo đó, chính
trị cần hướng tới mục tiêu quốc phú binh cường.
Muốn nước giàu thì dân phải giàu, hai mặt đó thống nhất với nhau, liên quan
mật thiết với nhau, đi đôi với nhau, do vậy, dù muốn hay khơng thì thực tế đó
12
buộc giai cấp thống trị phải quan tâm tới đối tượng cai trị của mình. Giai cấp
thống trị muốn tồn tại và phát triển thì khơng thể khơng phát triển dân.
Vì mục tiêu “phú quốc binh cường” nên Hàn Phi Tử chủ trương trị dân là
phải khuyến khích dân chăm lo sản xuất, tiết kiệm, không xa xỉ, không lấn át
nhau, khơng làm loạn. Để thực hiện được điều đó thì phải dùng pháp luật.
Pháp luật vừa mang tính khuyến khích, vừa mang tính chế ước, thưởng phạt
nghiêm minh. Thơng qua pháp luật, lợi ích của người dân được bảo vệ. Đứng
trước pháp luật, quyền lợi của người dân được bảo vệ, công bằng xã hội được
xác lập.
Trong học thuyết Hàn Phi Tử, người dân không được đề cập nhiều nhưng
những tư tưởng về phát triển người dân thể hiện trong đó hết sức cơ bản.
3.3 Một số hạn chế trong tư tưởng Hàn Phi Tử
Mặc dù có những ưu điểm, và trên thực tế đã được những thành công nhất
định, song lý thuyết trị nước của Hàn Phi Tử vẫn còn một số hạn chế như đề
cao quá mức “điều lợi”, xem nhẹ điều nghĩa, đề cao sự “cưỡng chế”, “thưởng
phạt”, nhất là “hình phạt” mà xem nhẹ giáo dục. Đặc biệt tư tưởng của ơng
tuyệt đối hóa vai trị của pháp luật trong chính trị, hay đề cao quyền lực hữu
hiệu.
CHƯƠNG 4: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG HÀN PHI TỬ ĐẾN XÃ
HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM
Việt Nam có vị trí địa lý “núi liền núi, sơng liền sơng” với Trung Quốc, thủy
bộ liên thơng, văn hóa tương đồng. Từ thời Tần – Hán, trong suốt 1000 năm
Bắc thuộc, Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa Trung Quốc, từ chữ viết,
phong cách sinh hoạt cho đến lễ nghĩa. Ở nước ta, từ thời Lê sơ, trên nhiều
phương diện: thiết chế chính trị, luật pháp, giáo dục, kinh tế…của các quốc
13
gia Đại Việt đều thể hiện những dấu ấn Trung Hoa với nhiều chính sách và
biện pháp tương tự.
4.1 Ảnh hưởng của tư tưởng Hàn Phi Tử đến xây dựng và phát triển chế
độ phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam
4.1.1 Ảnh hưởng của tư tưởng Hàn Phi Tử trong việc tổ chức bộ máy nhà
nước phong kiến
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã khép lại hơn 10 thế kỷ nước ta bị phong
kiến phương Bắc đô hộ, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc – kỷ nguyên
xây dựng nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập, tự chủ.
Từ năm 938 đến năm 1884, lịch sử chế độ phong kiến nước ta trải qua 10
triều đại, Cho dù cách thức, thời gian quản lý và trị vì khơng giống nhau,
song độc lập dân tộc gắn liền với củng cố nhà nước trung ương tập quyền
luôn là xu hướng phát triển xuyên suốt cả thời kỳ phong kiến.
Thời kì thiết lập chính quyền:
Thế kỷ X được xem là thế kỷ bản lề của dân tộc, nó chứng kiến sự xác lập
cương vực của các triều đại Ngộ, Đinh, Tiền Lê, đồng thời gắn với cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc, chống lại các thế lực cát cứ và sự xâm lược của
nhà Tống để xây dựng nhà nước phong kiến tự chủ.
Tuy nhiên, các triều đại này đều có chung đặc điểm là thời gian tồn tại khá
ngắn và thường xuyên phải đối mặt với chiến tranh. Cho nên, đặc trưng của
nhà nước vào giai đoạn này là gắn liền với hành chính hóa qn sự và pháp
luật cũng dùng những hình phạt, có thể nói là khá dã man.
Thời kì củng cố và giữ vững chính quyền
Từ thế kỉ XI – XIV dưới các triều đại Lý – Trần – Hồ, chế độ phong kiến
nước ta tiếp tục khẳng định nền độc lập, đánh thắng các thế lực xâm lược
14
phương Bắc; bước đầu xây dựng, phát triển nhà nước tập quyền và hệ thống
pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước.
Nhà Lý trải qua 225 năm với 9 đời vua, triều Lý được biết đến với nhiều công
lao to lớn; định đô ở Thăng Long, đổi quốc hiệu thành Đại Việt, hai lần đánh
thắng quân xâm lược nhà Tống, khẳng định vững chắc chủ quyền.
Kế tục sự nghiệp của nhà Lý, nhà Trần tiếp tục tạo dựng chế độ quân chủ quý
tộc, tăng cường công hiệu của pháp luật trong quản lý. Trải qua 12 đời vua
trong suốt 175 năm, nhà Trần đã làm nên những chiến công hiển hách cho
lịch sử dân tộc: 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông, cùng cổ pháp luật, phát
triển kinh tế thịnh vượng. Thời Lý – Trần cũng được biết đến với 2 bộ pháp
điển là Hình thư của thời Lý và Hình luật thời Trần.
Đặc điểm xã hội phong kiến Việt Nam từ cuối thế kỉ thứ X đã chia thành các
tầng lớp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập vững chắc chính quyền
trung ương trong nước.
Dưới vua, trong xã hội đã hình thành ba lực lượng:
Thứ nhất, “thần dân” là các quan lại được giao nhiệm vụ, trọng trách nhất
định. Lực lượng này tuy chiếm số lượng không nhiều, nhưng lại rất cần thiết
cho sự ổn định của bộ máy nhà nước với hai ban là quan văn và quan võ,
trong đó, các võ tướng có vai trò rất lớn, bởi sự hiện diện của họ thể hiện sự
kiểm soát lãnh thổ của một nhà nước.
Thứ hai, là “trăm họ” (bách tính), chính là tổ chức dân sự được tập hợp từ
những nông dân công xã và tầng lớp trên trong làng, họ có vai trị vừa bảo vệ
chính quyền, đất nước khi có chiến tranh, vừa chăm lo sản xuất, cống nạp cho
triều chính.
Thứ ba, là tôn giáo, để tập quyền nhà nước, nhà Lý cần đến tôn giáo. Sự
thống nhất và suy tôn một tôn giáo nào đó có ý nghĩa thống nhất về tư tưởng
15
để trên cơ sở đó, đi đến thống nhất quốc gia, từ sự thống nhất trong đa dạng
các hình thức tín ngưỡng, đến hệ tư tưởng. Ở Đại Việt lúc bấy giờ, tơn giáo
đó chỉ có Phật giáo.
Trong giai đoạn từ thế kỷ X – XIII, khi Nho giáo chưa chiếm vị trí thống trị,
dưới xã hội Lý – Trần ngoài những chức quan theo phẩm hàm từ trung ương
xuống địa phương, các triều đại này còn xuất hiện các chức vụ như: quốc sư,
tăng thống, tăng lục, tăng chính. Những vị quan này thường là những người
có học vấn uyên bác, phương lược uyên thâm, có tầm ảnh hưởng lớn trong xã
hội, họ trực tiếp giúp các tân vương khởi nghiệp bằng mọi thủ đoạn chính trị,
thậm chí ngay cả những hành vi tàn bạo đã từng bị lên án của trường phái
Pháp gia, miễn sao có thể đạt được mục đích chính trị. Tiêu biểu như triều Lý
có sư Vạn Hạnh bằng sấm vĩ đề tôn Lý Công Uẩn lên ngơi, triều Trần có Trần
Thủ Độ dùng mưu sự để hợp thức hóa nhà Trần dưới chiêu bài nhường ngơi
từ nhà Lý.
Về mặt hành chính – tổ chức, từ thời Lý trải qua các triều đại Trần, Hồ, sang
Lê Sơ ln tồn tại hình thức chính quyền “lưỡng chế”. Đây là thể chế được
hình thành với hai cấp (trung ương và địa phương), nó giống với mơ hình mà
các Pháp gia cổ đại đã dùng. Mặc dù ở mỗi cấp có chức năng, nhiệm vụ khác
nhau nhưng từ trung ương xuống địa phương đều có chung một mục đích là
bảo vệ và phục tùng bộ máy quan liêu phong kiến trung ương tập quyền.
4.1.2 Những biện pháp cơ bản nhằm củng cố và phát triển bộ máy nhà nước
phong kiến trung ương tập quyền
Thiết lập quan hệ sở hữu ruộng đất tập trung vào tay nhà vua
Cơ sở cốt yếu và sâu xa để hình thành chế độ trung ương tập quyền dưới
phương thức sản xuất nông nghiệp của phong kiến Việt Nam chính là sở hữu
ruộng đất. Ngay từ thời nhà Lý, bộ phận ruộng đất lúc đó là đất cơng giao cho
nơng dân cày cấy và thu tô. Trên danh nghĩa là người sở hữu tối cao về ruộng
16
đất,nhà vua thực hiện chế độ cấp, phong cho những người có cơng, thân tộc
và tầng lớp quan lại. Nhờ chế độ phong cấp này đã hình thành nên các thái ấp
tư, chủ trương này của nhà Lý là nguồn cội của sở hữu tư về ruộng đất.
Khác với triều Lý, Trần, thời Lê Sơ chế độ ruộng đất có những biến chuyển
đáng kể. Thời Lê Sơ là thời kì đánh dấu bước chuyển đáng kể về sở hữu
ruộng đất dưới sự bảo hộ của pháp luật. Đây là biện pháp hợp thức hóa về
ruộng đất cho tầng lớp địa chủ, phong kiến thân vua. Lúc này, thân phận của
người nông dân trong quan hệ với nhà nước chỉ là một tá điền và chịu nộp tơ,
thuế cũng như có nghĩa vụ với nhà vua. Chế độ này có ưu điểm là bảo tồn
được công xã với tư cách là cơ sở bóc lột của nhà nước trung ương với tá
điền. Việc nhà nước cho phép mua bán ruộng đất có thể được xem là tất yếu
lịch sử.
Phát triển lực lượng quân đội
Trên nền tảng một quốc gia độc lập, nhà nước phong kiến được thiết lập dựa
trên nền tảng cố kết cộng đồng. Trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần, Hồ, Lê Sơ, Tây Sơn và Nguyễn, công tác phát triển quân đội luôn được
chú trọng. Ngoài quy luật chung là quân đội ra đời để bảo vệ nhà nước, chế
độ, lực lượng quân đội phong kiến nước ta cịn có nhiệm vụ quan trọng khác,
đó là bảo vệ nền độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, mang lại cuộc sống bình yên cho
nhân dân.
Về tổ chức quân đội, nhà Lý đặt cấm quân dưới sự chỉ huy trực tiếp của các
tướng lĩnh dưới quyền chỉ huy của vua và đạt đến một trình độ tổ chức và
huấn luyện khá cao. Bên cạnh quân chủ lực do nhà vua trực tiếp chỉ huy cịn
có qn tại các địa phương gọi là lộ quân hay sương quân, ngoài ra cịn có
hương binh ở đồng bằng và thổ binh ở miền núi. Những lực lượng qn đội
này khơng có lẫn với nhau.
17
Sang thời Trần, trước thế giặc Mông Nguyên mạnh, Trần Hưng Đạo soạn ra
“Binh thư yếu lược”. Đây là một cuốn cẩm nang tập hợp kế sách, binh pháp
chống và đánh địch. Cùng với soạn Binh thư, nhà Trần còn ra sức tổ chức
phát triển quân đội. Kế thừa mô hình qn đội của nhà Lý, đặc biệt là chính
sách “ngụ binh ư nông”.
Điểm khác biệt căn bản trong cấu trúc và mơ hình qn đội dưới thời Lý Trần với tư tưởng Pháp gia chính là nếu như Pháp gia coi trọng phát triển
quân sự đến mức biến chúng trở thành công cụ đắc lực giúo nhà nước độc tài
cai quản nhân dân và tiến hành chiến tranh thôn tính các nước, thì nhà Lý –
Trần lại chủ trương xây dựng một lực lượng quân hùng, tướng dũng nhằm
bảo vệ cả vua lẫn tôi, tất cả đều được hưởng thái bình.
Trong thời gian 1000 năm Bắc thuộc, các học thuyết từ bên ngoài du nhập
vào nước ta đã tiếp biến với cái bản địa, từ đó, trải qua thời gian dài, mặc dù
nền văn hóa dân tộc bị áp lực bởi chủ trương đồng hóa văn hóa của nhà Hán,
song bản lĩnh văn hóa của dân tộc cơ bản vẫn được bảo tồn. Tuy nhiên, lĩnh
vực chính trị có những đặc thù của nó, ngồi những tập qn, lối sống và cách
thức quản lý xã hội truyền thống, hệ thống chính trị và hình thức quản lý xã
hội ln thay đổi cho phù hợp với những biến đổi tồn tại của xã hội. Vì thế,
khi đất nước giành được độc lập, chủ quyền quốc gia được khẳng định thì tất
yếu kéo theo sự thiết lập thượng tầng kiến trúc của xã hội trong việc xây dựng
và hoàn thiện nhà nước phong kiến.
Tuy nhiên, mơ hình nhà nước phong kiến trong buổi đầu độc lập, đó là triều
đại Đinh và Tiên Lê từng định đơ ở Hoa Lư, Ninh Bình. Cả hai triều đại này
tuy không chú trọng đến Nho giáo, song vấn đề tổ chức mơ hình nhà nước và
quản lý xã hội đều bắt chước các triều đại phong kiến Trung Hoa, cụ thể là
nhà Tống. Chính vì vậy, có thể nói, cách thức quản lý nhà nước nói riêng, xã
hội nói chung, đều khơng thể khơng chịu ảnh hưởng của những tư tưởng pháp
trị vốn là sản phẩm của sự dung hợp Nho – Pháp từ thời Hán.Trong sự dung
18