BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỒN THỊ NGỌC HẰNG
TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Hoàng Hải
Học viên: Đoàn Thị Ngọc Hằng
Lớp: Cao học Luật - Khóa 32
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn thạc sĩ “Trách nhiệm của người sử dụng lao động
đối với người lao động bị tai nạn lao động theo pháp luật Việt Nam” là cơng trình
nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực hiện với sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Trần Hoàng Hải. Những tài liệu, số liệu được sử dụng trong luận văn bảo
đảm tính khách quan, trung thực, chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào khác.
Tác giả
Đoàn Thị Ngọc Hằng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATVSLĐ
An toàn vệ sinh lao động
BHXH
Bảo hiểm Xã hội
BHYT
Bảo hiểm Y tế
BLLĐ
Bộ luật Lao động
ILO
Tổ chức Lao động Quốc tế
NLĐ
Người lao động
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
TNLĐ
Tai nạn lao động
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI
SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO
ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ...............................................................9
1.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với
người lao động bị tai nạn lao động .......................................................................9
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao
động bị tai nạn lao động .......................................................................................9
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao
động bị tai nạn lao động .....................................................................................11
1.2. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của pháp luật lao động Việt Nam
về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn
lao động .................................................................................................................14
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1994 .....................................................................14
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2012 ...................................................17
1.2.3. Giai đoạn từ năm 2012 đến nay .............................................................18
1.3. Ý nghĩa của quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với
người lao động bị tai nạn lao động .....................................................................19
1.3.1. Đối với người lao động ...........................................................................19
1.3.2. Đối với người sử dụng lao động .............................................................21
1.3.3. Đối với xã hội .........................................................................................22
1.4. Các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam và một số nước trên
thế giới, Tổ chức lao động quốc tế về trách nhiệm của người sử dụng lao
động đối với người lao động bị tai nạn lao động ...............................................23
1.4.1. Các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của
người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động .................23
1.4.2. Quy định của Tổ chức Lao động quốc tế và một số nước trên thế giới về
trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao
động ................................................................................................................29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA
NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN
LAO ĐỘNG .............................................................................................................40
2.1. Trách nhiệm của người sử dụng lao động về chi phí y tế và tiền lương
cho người lao động bị tai nạn lao động ..............................................................40
2.1.1. Trách nhiệm chi trả chi phí sơ, cấp cứu và điều trị ...............................40
2.1.2. Trách nhiệm trả lương trong thời gian người lao động điều trị, phục hồi
chức năng lao động .............................................................................................43
2.2. Trách nhiệm bồi thường của người sử dụng lao động đối với người lao
động bị tai nạn lao động ......................................................................................45
2.2.1. Điều kiện để người sử dụng lao động bồi thường cho người lao động bị
tai nạn lao động ..................................................................................................45
2.2.2. Mức bồi thường tai nạn lao động ...........................................................46
2.2.3. Bồi thường tổn thất về tinh thần .............................................................50
2.2.4. Thanh tốn tiền cơng chăm sóc người lao động bị tai nạn lao động .....54
2.3. Trách nhiệm sắp xếp công việc cho người lao động bị tai nạn lao động.55
2.4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về trách nhiệm
của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động và
phòng ngừa tai nạn lao động ...............................................................................58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, nước ta đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lĩnh vực nông
nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ để thực hiện mục tiêu cơng nghiệp hóa
– hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, nhiều cơng nghệ kỹ thuật mới được ra đời và áp
dụng vào hoạt động sản xuất góp phần tăng năng suất lao động và giải phóng sức
lao động của con người. Sự phát triển năng động của nền kinh tế thị trường đã đem
đến những khởi sắc về nền kinh tế, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người lao
động. Tuy nhiên, số vụ tai nạn lao động không ngừng tăng nhanh gây thiệt hại to
lớn về cả người và tài sản. Tai nạn lao động không chỉ là vấn đề riêng của mỗi quốc
gia mà cịn là vấn đề của tồn cầu. Ở một số nước trên thế giới, tai nạn lao động đã
cướp đi sinh mạng hàng triệu người, gây ra những thương tật vĩnh viễn, để lại
những nỗi đau về tinh thần cho người thân của họ. Do đó, để góp phần bảo vệ người
lao động và xoa dịu nỗi đau trên, trách nhiệm của người sử dụng lao động có vai trò
quan trọng đối với người lao động bị tai nạn lao động.
Ở Việt Nam, theo báo cáo của 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
trên toàn quốc, năm 2018 xảy ra 7.090 vụ tai nạn lao động làm 8.229 người bị nạn,
năm 2019 xảy ra 7.130 vụ tai nạn lao động làm 8.327 người bị nạn, năm 2020 xảy
ra 7.473 vụ tai nạn lao động làm 8.610 người bị nạn, năm 2021 xảy ra 5.797 vụ tai
nạn lao động làm 6.658 người bị nạn. Từ số liệu trên cho thấy số vụ tai nạn lao
động tăng qua các năm từ năm 2018 đến năm 2020. Tuy nhiên, năm 2021, do ảnh
hưởng của tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, kéo dài nên số lao
động trên cả nước giảm dẫn đến giảm số vụ tai nạn lao động và số người bị nạn.
Trong năm 2021, nguyên nhân xảy ra tai nạn lao động do người sử dụng lao động
chiếm 40,69% tổng số vụ tai nạn lao động; Nguyên nhân xuất phát từ phía người
lao động chiếm 9,73% tổng số vụ tai nạn lao động, còn lại 49,58% tổng số vụ tai
nạn lao động xảy ra do các nguyên nhân khác như tai nạn giao thông, do người khác
gây ra hoặc các nguyên nhân khách quan khác. Nhìn chung, hiện nay số vụ tai nạn
lao động ở nước ta vẫn có xu hướng tăng, trong đó nguyên nhân xảy ra tai nạn lao
động do người sử dụng lao động chiếm tỉ lệ lớn. Trước tình hình trên, vấn đề trách
nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động được
đặt ra và được xã hội đặc biệt quan tâm.
Đảng và Nhà nước luôn coi trọng, chăm lo đời sống cho người lao động, cải
thiện điều kiện làm việc để hạn chế tai nạn lao động cũng như có các chính sách hỗ
2
trợ đối với người bị tai nạn lao động. Để thực hiện được chính sách nêu trên, bên
cạnh chế độ của bảo hiểm xã hội thì Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật để quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao
động bị tai nạn lao động như Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 cùng với các
văn bản hướng dẫn thi hành.
Tuy đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng đảm bảo tốt quyền lợi của người
lao động nhưng Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 cùng với các văn bản
hướng dẫn vẫn còn tồn tại một số điểm bất cập như quy định việc người sử dụng lao
động phải chi trả chi phí y tế và trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao
động phải nghỉ việc trong thời gian điều trị; Điều kiện và mức bồi thường, trợ cấp
cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động hoặc chết do tai nạn lao động;
Bố trí việc làm và đào tạo lại nghề cho người lao động bị tai nạn lao động sau khi
điều trị... Mặt khác, còn nhiều vấn đề hiện nay Luật An toàn, vệ sinh lao động năm
2015 và các văn bản hướng dẫn chưa đề cập đến nhưng trên thực tế các cơ quan
chức năng có thẩm quyền đã gặp phải. Do đó, cần phải có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ
sung kịp thời để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống hiện nay.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả nhận thấy cần thiết phải nghiên
cứu chuyên sâu, bổ sung, hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của người sử dụng
lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động. Do đó, tác giả đã chọn đề tài
“Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao
động theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Giáo trình
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật Lao động,
Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam; Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình
Luật Lao động, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Đại học Huế (2013), Giáo trình
Luật Lao động Việt Nam, Nxb Đại học Huế. Ba tài liệu này đã trình bày ngắn gọn,
súc tích trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về trách nhiệm của người sử
dụng lao động trong trường hợp tai nạn lao động mà chưa đi sâu nghiên cứu vào
những bất cập trong quy định của pháp luật và đưa ra kiến nghị hoàn thiện.
- Luận văn
+ Phạm Thị Diệp Hạnh (2008), “Thực trạng áp dụng biện pháp bồi thường
thiệt hại trong việc bảo vệ người lao động và một số kiến nghị”, Luận văn, Trường
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tác giả nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về
3
việc áp dụng các biện pháp bồi thường thiệt hại trong việc bảo vệ người lao động
bao gồm quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản; Đánh giá thực trạng pháp luật và áp
dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại về tiền lương, thu nhập cho người lao động,
bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe… và đã đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong việc bảo vệ người lao động. Tuy
nhiên, phạm vi nghiên cứu rộng, bao quát gồm cả về tiền lương, thu nhập, bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho người lao động nhưng chưa đi sâu vào
các quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị
tai nạn lao động. Bên cạnh đó, năm 2008 chưa có Luật An tồn, vệ sinh lao động
năm 2015 nên tác giả nghiên cứu dựa trên các quy định của Bộ luật Lao động năm
1994 và các văn bản hướng dẫn đã hết hiệu lực;
+ Nguyễn Đức Tài (2018), Trách nhiệm của người sử dụng lao động trong
trường hợp tai nạn lao động theo pháp luật lao động Việt Nam, Luận văn, Trường
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Đỗ Thành Trung (2018), Bồi thường tai nạn lao
động theo pháp luật lao động Việt Nam, Luận văn, Trường Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh. Hai tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn
áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của người sử dụng lao
động trong trường hợp tai nạn lao động và bồi thường tai nạn lao động. Từ đó, đưa
ra những bất cập của pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động trong
việc chi trả chi phí y tế, tiền lương, trợ cấp, bồi thường thiệt hại, tính mạng cho
người lao động… tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện quy định
của pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động trong trường hợp tai nạn
lao động. Tuy nhiên, cả hai luận văn được thực hiện theo định hướng ứng dụng nên
tác giả chưa đi sâu vào phân tích các vấn đề về lý luận cũng như khơng nghiên cứu
và tham khảo pháp luật nước ngồi;
+ Trần Hoàng Em (2018), Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động theo pháp
luật Việt Nam, Luận văn, Trường Đại học Kinh tế - Luật. Tác giả làm rõ những vấn
đề lý luận về tai nạn lao động và bồi thường tai nạn lao động; Có sự phân tích, so
sách những quy định của pháp luật về bồi thường tai nạn lao động của Việt Nam với
một số nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Tác giả đã đưa ra những bất
cập và kiến nghị hoàn thiện với các vấn đề sau: Trách nhiệm của người sử dụng lao
động về chi trả chi phí y tế, tiền lương trong thời gian điều trị; Thủ tục, hồ sơ hưởng
chế độ bồi thường tai nạn lao động và xây dựng nguồn kinh phí để thực hiện bồi
thường tai nạn lao động;
4
+ Phạm Thị Phương Loan (2011), Chế độ tai nạn lao động, thực trạng và
giải pháp hoàn thiện, Luận văn, Trường Đại học Luật Hà Nội. Tác giả nghiên cứu
chế độ tai nạn lao động dưới hai góc độ là trách nhiệm của người sử dụng lao động
và trợ cấp của bảo biểm xã hội với các nội dung khái quát những vấn đề lý luận về
tai nạn lao động, chế độ tai nạn lao động ở Việt Nam và một số nước trên thế giới
gồm Thái Lan và Cộng hòa Liên bang Đức. Cụ thể là khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa,
lịch sử hình thành và phát triển của chế độ tai nạn lao động; Đưa ra thực trạng chế
độ tai nạn lao động và phương hướng, giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật. Tác
giả nghiên cứu dưới hai góc độ gồm chế độ từ người sử dụng lao động và bảo hiểm
xã hội nên đối tượng nghiên cứu khá rộng, chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu về
trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động.
Bên cạnh đó, năm 2011 chưa có Luật An tồn, vệ sinh lao động năm 2015 nên tác
giả nghiên cứu dựa trên các quy định của Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi, bổ
sung năm 2007 và các văn bản hướng dẫn đã hết hiệu lực;
+ Đỗ Hồng Vân (2021), Pháp luật về quyền lợi của người lao động khi bị tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam, Luận văn, Trường Đại học Luật Hà
Nội. Tác giả đề cập đến một số vấn đề lý luận về quyền lợi của người lao động khi
bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Cụ thể là khái niệm, phân loại, nguyên tắc và
nội dung pháp luật về quyền lợi của người lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp. Tác giả nghiên cứu quyền lợi của người lao động khi bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp dưới hai góc độ là từ người sử dụng lao động và bảo hiểm
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Từ thực trạng pháp luật về quyền lợi của người
lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, luận văn đã đưa ra một số bất
cập, kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, luận
văn có đối tượng nghiên cứu rộng, bao gồm chế độ từ người sử dụng lao động và
chế độ từ bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong hai trường hợp là tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp.
- Bài báo, tạp chí
+ Đỗ Ngân Bình, “Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động”, Tạp chí Luật
học, số 6/2000, trang 9-11. Tác giả đề cập đến quy định của pháp luật về tai nạn lao
động và bồi thường tai nạn lao động. Tác giả đưa ra một số bất cập trong quy định
của pháp luật và đề xuất kiến nghị hoàn thiện. Tác giả nghiên cứu dựa trên các quy
định của Bộ luật Lao động năm 1994 và các văn bản hướng dẫn, hiện nay đã hết
hiệu lực;
5
+ Nguyễn Thị Bích (2017), “Một số ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật về tai nạn lao động”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11, trang 31-33;
Tác giả đề xuất kiến nghị liên quan đến quy định về tai nạn lao động của Bộ luật
Lao động năm 2012 và Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 về các vấn đề như
sau: Trách nhiệm điều tra vụ tai nạn lao động của người sử dụng lao động; Trách
nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị tai nạn lao động; Các trường
hợp người lao động không được hưởng chế độ từ người sử dụng lao động khi bị tai
nạn lao động. Tác giả phân tích ngắn gọn và đưa ra kiến nghị chứ chưa đi sâu vào
từng vấn đề;
+ Đồn Cơng n (2016), “An toàn, sức khỏe tại nơi làm việc trong hệ thống
tiêu chuẩn lao động cốt lõi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ tai nạn lao động”,
Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6 (100), trang 46-55. Tác giả phân tích hai vấn đề là:
(i) Vị trí của an toàn và sức khỏe tại nơi làm việc trong hệ thống tiêu chuẩn lao
động cốt lõi, (ii) Lợi ích mà người lao động hoặc nhân thân của người lao động bị
chết được bồi thường từ người sử dụng lao động. Tác giả đưa ra một số bất cập
trong quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ tai nạn lao động. Cụ thể là vấn
đề trả tiền lương ngừng việc trong thời gian điều trị tai nạn, phục hồi khả năng lao
động và bồi thường, trợ cấp khi người lao động bị giảm, mất khả năng lao động
hoặc bị chết. Tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật dựa trên cơ sở
học tập kinh nghiệm pháp luật của Hàn Quốc, Nhật Bản,… Tuy nhiên, một số quy
định được phân tích, kiến nghị dựa trên Bộ Luật Lao động năm 2012 và các văn bản
hướng dẫn thi hành đã hết hiệu lực;
+ Lê Kim Dung (2011), “Tiêu chí của pháp luật bồi thường tai nạn lao
động”, Tạp chí Bộ lao động Thương binh & Xã hội, số 5 (277), trang 36-38. Tác giả
phân tích những tiêu chí để đánh giá sự hồn thiện của pháp luật về bồi thường tai
nạn lao động cụ thể là: Tính dễ tiếp cận và mở rộng độ bao phủ của đối tượng điều
chỉnh; Mức độ hiệu quả của các quy định pháp luật; Khả năng chia sẻ rủi ro và đảm
bảo phát triển bền vững; Khả năng phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro. Tác giả không
đưa ra những bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm
của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên phần lớn đã nêu được những bất
cập và có đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của
người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động. Tuy nhiên, một
số cơng trình có đối tượng nghiên cứu rộng bao gồm chế độ tai nạn lao động, bệnh
6
nghề nghiệp từ người sử dụng lao động và của bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp. Bên cạnh đó, một số cơng trình đã được viết khá lâu nên các quy định
được phân tích, kiến nghị đã hết hiệu lực hoặc khơng cịn phù hợp với thực tiễn áp
dụng pháp luật cũng như các bản án hiện nay chưa được đề cập đến. Với việc
nghiên cứu của mình, tác giả muốn kế thừa và bổ sung thêm những điểm mới chưa
được đề cập trong các cơng trình nghiên cứu trên và đưa ra những kiến nghị góp
phần hồn thiện hơn quy định của pháp luật lao động về trách nhiệm của người sử
dụng đối với người lao động bị tai nạn lao động.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Với việc nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng đến mục tiêu xác định trách
nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động theo
pháp luật Việt Nam. Đưa ra những hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng quy
định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn
lao động vào thực tiễn. Ngoài ra, tác giả nghiên cứu các quy định của một số quốc
gia trên thế giới và hướng dẫn của Tổ chức Lao động quốc tế nhằm tham khảo để
đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao
động đối với người lao động bị tai nạn lao động theo pháp luật Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, tác giả xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm trách nhiệm của người sử
dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động; Sơ lược về sự hình thành,
phát triển và ý nghĩa của quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối
với người lao động bị tai nạn lao động theo pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật Việt Nam về trách
nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, so
sánh với quy định của Tổ chức Lao động quốc tế và một số nước trên thế giới.
Thứ ba, đưa ra những vướng mắc, bất cập về thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao
động bị tai nạn lao động. Từ đó, đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực
thi hiệu quả quy định của pháp luật về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối
với người lao động bị tai nạn lao động trên cơ sở có tham khảo quy định của Tổ
chức Lao động quốc tế và một số quốc gia trên thế giới.
7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Những vấn đề lý luận về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với
người lao động bị tai nạn lao động;
- Các Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế về tai nạn lao động;
- Quy định của một số quốc gia trên thế giới về trách nhiệm của người sử
dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động;
- Quy định của pháp luật lao động Việt Nam về trách nhiệm của người sử
dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động;
- Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện quy định về trách nhiệm của
người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động ở Việt Nam hiện
nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn ở tên gọi của đề tài luận văn
“Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao
động theo pháp luật Việt Nam”. Cụ thể, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề
trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động khi bị tai nạn lao
động mà không nghiên cứu vấn đề chế độ của bảo hiểm tai nạn lao động hoặc trách
nhiệm của các chủ thể khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để phân tích, lý
giải giúp người đọc hiểu rõ hơn các vấn đề mà tác giả đưa ra, cụ thể như sau:
− Phương pháp lịch sử được sử dụng tại Chương 1 để làm rõ cơ sở lý luận,
quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối
với người lao động bị tai nạn lao động qua từng thời kỳ.
− Phương pháp so sánh được tác giả sử dụng tại Chương 1 để so sánh những
quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore,
quy định của pháp luật Việt Nam qua từng thời kỳ với nhau. Từ đó, rút ra những
điểm tiến bộ để học tập, duy trì và hồn thiện hệ thống pháp luật.
− Phương pháp tổng hợp được sử dụng tại Chương 1 của đề tài với mục đích
cung cấp đầy đủ nhưng có chọn lọc các quy định pháp luật Việt Nam và các quy
định pháp luật nước ngoài liên quan trực tiếp đến trách nhiệm của người sử dụng
lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động.
8
− Phương pháp phân tích được sử dụng tại Chương 1 và Chương 2 của đề tài
nhằm giải thích rõ quy định pháp luật hiện hành, khai thác các vấn đề pháp lý phát
sinh trong những bản án và lý giải các kiến nghị của tác giả.
− Phương pháp suy luận logic được tác giả sử dụng tại Chương 2 để giải
quyết những vướng mắc, không thống nhất về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật của tòa án và những hạn chế, bất cập của quy định pháp luật hiện
hành liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Dự kiến điểm mới của đề tài
Trên cơ sở kế thừa và phát huy những công trình nghiên cứu trước đó, luận
văn sẽ tiếp tục hồn thiện và đóng góp thêm những điểm mới sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu chun sâu, có hệ thống, tồn diện các quy định về
trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động.
theo Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 và Thông tư 28/2021/TT-BLĐTBXH
ngày 28 tháng 12 năm 2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật An toàn, vệ sinh lao động về chế độ của người lao động bị tai nạn lao động.
Thứ hai, thông qua việc đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về trách
nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, tác
giả đưa ra một số vướng mắc, bất cập. Từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hồn thiện,
củng cố và nâng cao hiệu quả áp dụng trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của Tổ
chức Lao động quốc tế và pháp luật nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
Luận văn sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho các cơng trình nghiên
cứu tiếp theo về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị
tai nạn lao động cho sinh viên trong các cơ sở đào tạo luật và cho các doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung luận văn bao gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm của người sử dụng lao động
đối với người lao động bị tai nạn lao động theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng áp dụng và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp
luật Việt Nam về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị
tai nạn lao động.
9
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI
SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO
ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với
người lao động bị tai nạn lao động
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị
tai nạn lao động
Quá trình lao động sản xuất ln tiềm ẩn những nguy cơ gây ra tai nạn cho
người lao động (NLĐ). Vì vậy, tai nạn lao động (TNLĐ) xuất hiện gắn liền với q
trình lao động và có thể xảy ra ở mọi ngành nghề, mọi quốc gia. TNLĐ không chỉ
ảnh hưởng đến cuộc sống, sức khỏe, thu nhập của NLĐ mà còn ảnh hưởng đến thân
nhân của NLĐ, người sử dụng lao động (NSDLĐ), Nhà nước và xã hội. Pháp luật
Việt Nam quy định NSDLĐ sẽ phát sinh các nghĩa vụ đối với NLĐ khi xảy ra
TNLĐ. Do đó, việc xác định tai nạn như thế nào được xem là TNLĐ là một vấn đề
quan trọng vì ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của NLĐ và NSDLĐ.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), tại Nghị định thư năm 2002 về Cơng
ước số 155 thì “TNLĐ là những chấn thương phát sinh từ hoặc trong quá trình làm
việc mà hậu quả có thể gây tử vong hoặc khơng gây tử vong”1. Từ quy định mang
tính chất bao quát của ILO thì mỗi khu vực, mỗi quốc gia sẽ có những định nghĩa về
TNLĐ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của
quốc gia đó.
Theo Liên minh Châu Âu “TNLĐ là những tai nạn xảy ra trong quá trình
làm việc, dẫn đến tổn hại về thể chất hoặc tinh thần”2. Tuy nhiên, ở một số quốc gia
tại Châu Á có những cách định nghĩa khác về TNLĐ chẳng hạn như Singapore sử
dụng thuật ngữ “work-related acident” để chỉ TNLĐ, nó được hiểu là bất cứ sự kiện
ngoài ý muốn nào xảy ra trong quá trình làm việc mà dẫn đến chấn thương cho
NLĐ như tai nạn trong giờ làm việc, thời gian tăng ca hay trong khi thực thi nhiệm
vụ được giao, bao gồm cả tai nạn giao thông trong quá trình làm việc và tai nạn liên
quan đến bệnh lý như bị đau tim, đột quỵ… của NLĐ mà dẫn tới tai nạn nếu bệnh lý
Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật lao động, NXB Hồng ĐứcHội luật gia Việt Nam, tr.363
2 European Commission, European Statistics on Accidents at Work (ESAW) - Summary
methodology Edition, Publications Office of European Union, Luxembuorg, 2013, p.5-6
1
10
đó được xuất phát bởi cơng việc của NLĐ3. Theo pháp luật Campuchia, TNLĐ là
một tai nạn được coi là có liên quan đến cơng việc, bất kể ngun nhân gây ra là gì,
nếu tai nạn đó có xảy ra với NLĐ khi đang làm việc hoặc trong giờ làm việc, cho dù
đó là lỗi của NLĐ hay khơng; Đó là tai nạn gây ra trên cơ thể của NLĐ hoặc một
người học việc có hoặc khơng có tiền lương, những người đang làm việc với bất cứ
năng suất nào hoặc ở bất cứ đâu cho một NSDLĐ hoặc một người quản lý của một
doanh nghiệp. Tương tự như vậy, tai nạn xảy ra đối với NLĐ trong thời gian đi làm
từ nơi cư trú của mình đến nơi làm việc và về nhà cũng được coi là TNLĐ miễn là
hành trình này khơng bị gián đoạn hay đi đường vịng vì một lý do cá nhân hay
khơng liên quan đến công việc4. Theo pháp luật Lào, TNLĐ là tai nạn làm cho NLĐ
bị thương tật hoặc tử vong xảy ra trong các trường hợp sau: Trong thời gian đang
làm nhiệm vụ tại nơi làm việc hoặc tại bất kỳ nơi nào khác theo sự phân công của
NSDLĐ hoặc một người đại diện cho NSDLĐ; Tại khu vui chơi giải trí, quán giải
khát hoặc nơi nào khác thuộc phạm vi trách nhiệm của cơ sở lao động; Trong thời
gian di chuyển từ nơi ở đến nơi làm việc. Tai nạn xảy ra trong suốt thời gian NLĐ
thực hiện công việc cá nhân không theo phân công của NSDLĐ hoặc đại diện
NSDLĐ hoặc xảy ra sau khi hồn thành cơng việc được giao sẽ không được coi là
TNLĐ5.
Việt Nam xây dựng định nghĩa tai nạn lao động dựa trên khái niệm của ILO.
Tại Khoản 8, Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 (Luật ATVSLĐ
2015), “TNLĐ là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ
thể hoặc gây tử vong cho NLĐ, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc
thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động”. Theo định nghĩa trên, tai nạn được xem là
TNLĐ khi có 02 yếu tố đó là xảy ra trong q trình lao động và gắn liền với việc
thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về TNLĐ, tuy nhiên các định nghĩa
có đặc điểm chung như sau: TNLĐ là sự cố bất ngờ, mang tính rủi ro, khơng mong
đợi và ngồi ý muốn của NLĐ và NSDLĐ; Hậu quả của TNLĐ là có thiệt hại thực
tế xảy ra tác động trực tiếp lên cơ thể NLĐ, ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc tính
3
(Truy cập 15/12/2021)
4
Điều 248 Luật lao động Campuchia
5
Điều 54 Luật lao động Lào năm 2006
11
mạng của NLĐ; Tai nạn xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với công việc,
nhiệm vụ lao động, trong một khoảng thời gian và không gian cụ thể.
Theo Khoản 1, Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019 (BLLĐ năm 2019), NLĐ
là người làm việc cho NSDLĐ theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý,
điều hành, giám sát của NSDLĐ, họ là các cá nhân trực tiếp tham gia vào q trình
lao động có thể làm việc bằng sức lao động hoặc lao động bằng trí óc. Trong quan
hệ lao động, đây là q trình mua bán sức lao động, trong đó sức lao động được coi
là một loại hàng hóa mang tính chất đặc biệt vì những thuộc tính của nó. Trong q
trình sử dụng sức lao động của NLĐ, NSDLĐ đã thu về một giá trị lớn hơn giá trị
ban đầu bỏ ra. NSDLĐ là người có vốn, có tài sản, được thực hiện quyền quản lý
của mình, được quyền đưa ra những u cầu, mệnh lệnh về phía NLĐ, do đó
NSDLĐ phải gánh chịu những rủi ro trong quá trình sử dụng sức lao động ấy 6.
NSDLĐ phải có nghĩa vụ đảm bảo mơi trường làm việc an tồn cho NLĐ, trong
trường hợp xảy ra TNLĐ thì NSDLĐ phải chịu các trách nhiệm về vật chất và tinh
thần theo quy định của pháp luật. Hiện nay chưa có khái niệm về trách nhiệm của
NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ, tuy nhiên từ những phân tích như trên ta có thể
hiểu: “Trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ là một loại trách nhiệm pháp
lý mang tính chất bắt buộc của Nhà nước đối với NSDLĐ phát sinh khi xảy ra
TNLĐ nhằm bù đắp tổn thất về vật chất, thể chất và tinh thần cho NLĐ hoặc thân
nhân của họ”.
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị
tai nạn lao động
Thứ nhất, về chủ thể của trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ
Chủ thể của trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ gồm có NLĐ
và NSDLĐ. Tại Khoản 1, Điều 3 BLLĐ 2019 quy định NLĐ là người làm việc cho
NSDLĐ theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành giám sát của
NSDLĐ. NLĐ theo pháp luật phải có các điều kiện để đảm bảo quyền và lợi ích của
NLĐ khơng bị xâm phạm hay bị lạm dụng thì luật phải quy định điều kiện tối thiểu
về sức khỏe, sự hiểu biết,… thì mới tham gia vào quan hệ lao động. Các điều kiện
đó là: Thuộc độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật về lao động; Làm việc
cho NSDLĐ theo thỏa thuận; Được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám
sát của NSDLĐ. Theo Khoản 2, Điều 3 BLLĐ 2019, NSDLĐ là doanh nghiệp, cơ
6
Trường Đại học Huế (2013), Giáo trình Luật lao động Việt Nam, Nxb Đại học Huế, phần 2, tr.13
12
quan, tổ chức hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động làm
việc cho mình theo thỏa thuận; Trường hợp NSDLĐ là cá nhân thì phải có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ. NSDLĐ thơng qua chủ thể có thẩm quyền có quyền tối cao
trong việc quyết định các vấn đề kinh tế hay xã hội và quản lý quá trình lao động
của NLĐ, đồng thời có nghĩa vụ đảm bảo các quyền lợi đối với NLĐ. Quy định
NSDLĐ là chủ thể bị áp dụng trách nhiệm đối với NLĐ bị TNLĐ vì trong quan hệ
lao động, NSDLĐ phải đảm bảo an toàn lao động, đưa ra các biện pháp phòng ngừa
TNLĐ và cũng là người tổ chức, điều hành NLĐ để tạo ra lợi ích cho NSDLĐ.
NLĐ ln ở vị trí phụ thuộc vào NSDLĐ.
Thứ hai, trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ luôn gắn liền với
quan hệ lao động, phát sinh trong quan hệ lao động
Quan hệ lao động được thiết lập trên sơ sở thương lượng, thỏa thuận với
nhau thông qua giao kết hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động sẽ là căn cứ pháp lý
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, trong đó có trách nhiệm của NSDLĐ
đối với NLĐ bị TNLĐ.
Theo Khoản 5, Điều 3 BLLĐ 2019, quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát
sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa NLĐ, NSDLĐ, các tổ
chức đại diện của các bên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hình thành trong quá
trình sử dụng sức lao động giữa một bên là người có sức lao động (NLĐ) và một
bên (cá nhân hoặc pháp nhân) là người sử dụng sức lao động đó. Trách nhiệm của
NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ chỉ phát sinh khi họ đang trong quan hệ lao động và
hành vi gây thiệt hại liên quan đến quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quan
hệ lao động. NLĐ phải thực hiện một nội dung hoạt động lao động nào đó, cịn bên
sử dụng sức lao động phải trả công, hoặc trả lương và đảm bảo những điều kiện lao
động cần thiết khác cho họ.
Trong quan hệ lao động, NSDLĐ và NLĐ có mối quan hệ mật thiết với nhau
vì: Về mặt pháp lý, NSDLĐ có quyền tổ chức, quản lý q trình lao động của NLĐ
và NLĐ phải tuân thủ. NSDLĐ là người có quyền sở hữu tài sản mà các yếu tố cấu
thành nên quan hệ sản xuất luôn chịu sự chi phối của quan hệ sở hữu. Bên cạnh đó,
NSDLĐ mua sức lao động của NLĐ và muốn cho việc sử dụng sức lao động đó đạt
hiệu quả địi hỏi NSDLĐ phải quản lý nó một cách khoa học và phù hợp; Về mặt lợi
ích kinh tế, giữa NSDLĐ và NLĐ vừa có sự mâu thuẫn, vừa có sự thống nhất phụ
thuộc lẫn nhau. NSDLĐ luôn muốn giảm tới mức thấp nhất các khoản chi phí trong
13
đó có vấn đề tiền lương của NLĐ để tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, tiền lương và thu
nhập trong quan hệ lao động lại là nguồn sống chủ yếu của NLĐ.
Thứ ba, căn cứ xác định trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ
(i) Hành vi gây thiệt hại trong TNLĐ được thể hiện dưới dạng vi phạm các
quy định về ATVSLĐ. Đối với NLĐ, hành vi phổ biến nhất đó là khơng sử dụng đồ
bảo hộ lao động trong quá trình làm việc mặc dù đã được trang bị đầy đủ; Khơng
tn thủ quy trình, quy tắc an tồn lao động,… Đối với NSDLĐ, khơng thực hiện
các biện pháp phịng ngừa TNLĐ, khơng bảo trì máy móc, thiết bị,… Ngồi ra,
pháp luật lao động cịn quy định các trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị
TNLĐ khi hành vi gây thiệt hại không vi phạm pháp luật lao động, do rủi ro, khách
quan như NLĐ bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc, từ nơi làm việc về nơi ở
trong khoảng thời gian và quãng đường hợp lý theo Khoản 2, Điều 39 và Điều 45
Luật ATVSLĐ 2015.
(ii) Thiệt hại do TNLĐ gây ra cho NLĐ bao gồm thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm hoặc tính mạng bị xâm phạm. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao
gồm chi phí hợp lý cho việc sơ cứu, cấp cứu, điều trị cho NLĐ. Ngồi ra, thiệt hại
đối với sức khỏe của NLĐ cịn được xác định bằng mức suy giảm khả năng lao
động.
(iii) Yếu tố lỗi trong việc xác định trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị
TNLĐ bao gồm lỗi do NSDLĐ và lỗi do NLĐ. Tuy nhiên, trong trường hợp phát
sinh TNLĐ do lỗi của người khác hoặc không xác định được người gây ra lỗi hoặc
do yếu tố khách quan,… thì vẫn làm phát sinh trách nhiệm của NSDLĐ đối với
NLĐ bị TNLĐ theo Điều 39 Luật ATVSLĐ 2015. Khi NLĐ bị TNLĐ thì trách
nhiệm chính khắc phục sự cố như sơ cứu, cấp cứu, thanh tốn chi phí y tế,… thuộc
về NSDLĐ mà không xét nguyên nhân tai nạn là do lỗi của NSDLĐ hay của NLĐ.
Như vậy, pháp luật lao động khơng đặt ra u cầu phải có yếu tố lỗi mới phát sinh
trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ.
NSDLĐ là người phải chịu trách nhiệm đối với NLĐ ngay khi khơng có lỗi
trong việc xảy ra TNLĐ bởi vì NSDLĐ đầu tư kinh phí để tổ chức hoạt động sản
xuất, kinh doanh, có quyền quản lý, điều hành, bố trí, giám sát đối với quá trình lao
động của NLĐ. Cụ thể, khi NSDLĐ tuyển NLĐ vào làm việc thì NSDLĐ có quyền
quyết định NLĐ làm gì, tại bộ phận nào và NSDLĐ có quyền điều chuyển vị trí khi
cần thiết và tuân thủ đúng quy định của luật; Mọi hoạt động của NLĐ đều phải tuân
theo ý chí của NSDLĐ như là vận hành máy móc, thời gian hồn thành,… NSDLĐ
14
phải có nghĩa vụ đảm bảo về an tồn cho NLĐ. Tuy nhiên, với việc thực hiện đúng
quy định về ATVSLĐ thì chi phí đầu tư vào q trình sản xuất tăng lên, dẫn đến
làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường và giảm lợi nhuận của
NSDLĐ, như vậy dẫn đến NSDLĐ thường không thực hiện hoặc thực hiện không
nghiêm chỉnh vấn đề ATVSLĐ và hậu quả tất yếu xảy ra là NLĐ bị TNLĐ, trong
trường hợp này NSDLĐ có trách nhiệm khắc phục hậu quả do TNLĐ gây ra đối với
NLĐ.
1.2. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của pháp luật lao động Việt Nam
về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn
lao động
TNLĐ có hậu quả nặng nề, trở thành mối nguy hại của toàn xã hội trong lĩnh
vực lao động. Việc đảm bảo một mơi trường an tồn cho sản xuất cũng như có được
chính sách hỗ trợ NLĐ khi họ gặp TNLĐ ln được coi trọng. Chính vì vậy, chế độ
bồi thường, trợ cấp về TNLĐ ra đời như một tất yếu khách quan7.
Quy định về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ đã tồn tại trên thế giới từ
rất lâu tuy nhiên ở Việt Nam do tình hình kinh tế xã hội và chiến tranh kéo dài nên
quy định về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ xuất hiện ở cuối những năm 30
của thế kỷ XX. Sự hình thành và phát triển của quy định về trách nhiệm của
NSDLĐ đối với NLĐ trải qua từng thời kỳ gắn liền với các Sắc lệnh, các BLLĐ,...
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1994
Giai đoạn trước năm 1954
Trước năm 1945, dưới ách thống trị của Thực dân Pháp những quyền về an
sinh xã hội của người dân Việt Nam khơng được đảm bảo, chính quyền thực dân chỉ
áp dụng một số chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH) đối với công chức và quân
nhân Việt Nam làm việc trong cơ quan hành chính và quân đội Pháp, tuy nhiên số
lượng rất ít, chỉ khoảng hơn 1000 người và có sự phân biệt giữa người Việt và
người châu Âu8.
Khi cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa ngày 02 tháng 09 năm 1945, Đảng và Chính phủ luôn coi con
người là vốn quý nhất, đề cao vấn đề bảo vệ sức khỏe và sinh mạng của nhân dân.
Hà Tất Thắng (2017), “Thực trạng chế độ TNLĐ, bệnh nghề nghiệp và những quy định hiện
hành”, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 550, 2017, tr.21
8
Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb Công an nhân dân,
tr.49
7
15
Ngày 12 tháng 03 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh
29/SL, trong đó có chương riêng quy định về vệ sinh và bảo an (bảo đảm an toàn
lao động) cho người làm và chương riêng về TNLĐ, hướng dẫn giao dịch về việc
làm công giữa các chủ nhân người Việt Nam hay người ngoại quốc và các công
nhân Việt Nam làm tại các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm
nghề tự do. Cụ thể, tại Điều thứ 149 Chương thứ 7 quy định “TNLĐ là những tai
nạn xảy ra cho công nhân bỏ công việc làm hay công nhân khi làm cơng việc. Cơng
nhân bị TNLĐ, dù lỗi tại mình hay khơng, mà phải nghỉ việc q 04 ngày, thì phải
được chủ bồi thường; Nếu vì tai nạn ấy mà chết thì những người thừa kế được bồi
thường. Số tiền bồi thường sẽ kể từ hôm sau ngày xảy ra tai nạn. Ngày xảy ra tai
nạn coi như ngày công nhân vẫn làm việc, chủ phải trả cả lương”. Sắc lệnh số 29
đã quy định về bồi thường TNLĐ thành một điều luật cụ thể, tuy còn nhiều hạn chế
do khó khăn của đất nước trong những năm đầu mới thành lập và kháng chiến
chống thực dân Pháp. Tuy nhiên, xét về tính tổng thể có thể xem Sắc lệnh số 29 có
vai trị như BLLĐ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hịa.
Ngồi ra, Chính phủ đã ban hành thêm một số sắc lệnh như Sắc lệnh số
76/SL ngày 20 tháng 05 năm 1950 tại Điều 89, Điều 90, Điều 91 quy định chế độ
cho công chức bị tai nạn và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22 tháng 05 năm 1950 tại Điều
39, Điều 40 quy định chế độ TNLĐ cho người giúp việc trong Chính phủ. Các
khoản trợ cấp này đều do cơ quan, đơn vị, xí nghiệp trả.
Nhìn chung, các sắc lệnh này mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận chế độ TNLĐ
chứ chưa đảm bảo đầy đủ về mặt pháp lý, những nội dung cần thiết, cụ thể và rõ
ràng về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ.
Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1985
Từ năm 1954 đến 1985, pháp luật nước ta bị chi phối bởi cơ chế quản lý kinh
tế tập trung bao cấp. Trong thời kỳ này, nền kinh tế đất nước chỉ tồn tại hai thành
phần kinh tế đó là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Chế độ sở hữu tư nhân
không được coi trọng, thay vào đó sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể được đặt ở vị
trí trung tâm của nền kinh tế đã làm cho vai trò của người làm cơng ăn lương trong
các doanh nghiệp ngồi quốc doanh không được quan tâm.
Ở giai đoạn này, pháp luật về lao động và các quy định về BHXH chủ yếu áp
dụng đối với cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang. Nguồn
tài chính bảo đảm cho các chế độ về BHXH chủ yếu từ ngân sách Nhà nước. Pháp
luật lao động quy định trách nhiệm của NSDLĐ đối với cơng tác đảm bảo an tồn
16
lao động và bồi thường cho NLĐ bị TNLĐ chủ yếu áp dụng trong các doanh nghiệp
quốc doanh9.
Ngày 27 tháng 12 năm 1961, Nhà nước ban hành Nghị định số 218-CP ban
hành điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước.
Điều lệ tạm thời quy định đối tượng áp dụng của BHXH là: Công nhân, viên chức
nhà nước ở các cơ quan, xí nghiệp, cơng trường, nơng trường, lâm trường, kể cả cán
bộ, công nhân hoạt động ở các cơ quan của các đồn thể nhân dân; Cơng nhân, viên
chức ở các xí nghiệp cơng tư hợp doanh đã áp dụng chế độ tiền lương như xí nghiệp
quốc doanh; Cơng nhân, viên chức tại xí nghiệp cơng nghiệp địa phương đã có kế
hoạch lao động tiền lương ghi trong kế hoạch nhà nước. Trong cơ chế kinh tế kế
hoạch hoá tập trung, Nhà nước thực hiện trách nhiệm của mình đối với NLĐ bị
TNLĐ với tư cách vừa là một NSDLĐ vừa là người thực hiện BHXH đồng thời là
chủ thể quản lý xã hội.
Nhìn chung, trong giai đoạn này, pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam do
Nhà nước thực hiện. Nhà nước đảm bảo hai chức năng, vừa là người ban hành chính
sách, vừa là người thực hiện chính sách thơng qua bộ máy của mình. Nguồn tài
chính để thực hiện chủ yếu từ ngân sách nhà nước, sự đóng góp của NSDLĐ rất ít10.
Quy định chế độ BHXH đối với TNLĐ áp dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh.
Các quy định về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ từ các doanh
nghiệp còn rất mờ nhạt, chưa có quy định cụ thể, rõ ràng.
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1993
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 15
tháng 12 năm 1986 là một dấu mốc quan trọng, nước ta chuyển từ nền kinh tế tập
trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng như các nước có
nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường của Việt Nam đã làm cho đời sống kinh tế
- xã hội năng động hơn, đa dạng và phong phú hơn. Người dân có nhiều cơ hội, điều
kiện để phát huy tiềm năng sáng tạo của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như các hoạt động xã hội11. Đặc biệt, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ
chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước q trình đổi mới đời
Trần Hồng Em (2018), Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động theo pháp luật Việt Nam, Luận
văn, Trường Đại học Kinh tế - Luật, tr. 22
10 Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương (2011), Pháp luật an sinh xã hội kinh nghiệm của một số
nước đối với Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, tr. 308
11 Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương, tlđd (10), tr. 309
9
17
sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động
lực phát triển mới và là cơ sở quan trọng để tách bạch các quan hệ xã hội. Tại Điều
48 Nghị định số 233/HĐBT ngày 22 tháng 06 năm 1990 ban hành quy chế lao động
đối với xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài quy định “Nếu TNLĐ xảy ra do lỗi của
xí nghiệp, xí nghiệp có trách nhiệm bồi thường cho người bị TNLĐ hoặc cho thân
nhân của người bị chết vì TNLĐ đó theo chế độ do Nhà nước Việt Nam quy định”
và Điều 22 Pháp lệnh Bảo hộ lao động số 61/LCT/HĐNN ngày 19 tháng 09 năm
1991 về bảo hộ lao động quy định “Người bị TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp được
hưởng nguyên tiền công, tiền lương kể cả phụ cấp trong thời gian điều trị, điều
dưỡng; được trợ cấp, bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Nhìn chung, trong giai đoạn này, pháp luật đã có những quy định khá cụ thể,
rõ ràng về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ, các quy định của pháp
luật lao động ngày càng tiến bộ và hoàn thiện hơn.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2012
Ngày 23 tháng 06 năm 1994, Quốc hội ban hành BLLĐ đầu tiên của nước ta
có quy định về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ. Các quy định tại
BLLĐ 1994 là cơ sở pháp lý cao nhất đảm bảo cho chế độ TNLĐ được thực hiện
thống nhất trên toàn quốc. Trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ được
quy định tại Điều 105, Điều 106, Điều 107 BLLĐ 1994 và cụ thể hóa tại Nghị định
số 06/CP ngày 20 tháng 01 năm 1995 quy định chi tiết một số điều của BLLĐ 1994
về ATVSLĐ. Điều 106 BLLĐ 1994 quy định “Người bị TNLĐ phải được cấp cứu
kịp thời và điều trị chu đáo, NSDLĐ phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra TNLĐ
theo quy định của pháp luật”. Tại Khoản 3, Điều 107 BLLĐ 1994 quy định
“NSDLĐ có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng lương cho NLĐ bị suy
giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do TNLĐ,
bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của NLĐ. Trường hợp do lỗi của NLĐ, thì cũng
được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 12 tháng lương” đây là một quy định mới,
cụ thể hóa mức bồi thường mà NSDLĐ phải chi trả cho NLĐ. Tuy nhiên, quy định
tại BLLĐ 1994 chỉ mới đề cập đến trường hợp NLĐ bị suy giảm khả năng lao động
từ 81% trở lên mà chưa quy định về việc bồi thường khi NLĐ bị suy giảm khả năng
lao động dưới 81%.
Tại Khoản 4, Điều 1 Nghị định 110/2002/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm
2002 đã quy định cụ thể về mức bồi thường đối với trường hợp NLĐ bị TNLĐ có
mức suy giảm khả năng lao động từ 5% đến dưới 81%, cụ thể “ít nhất bằng 1,5
18
tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) cho người bị suy giảm khả năng lao
động từ 5% đến 10%; Nếu bị suy giảm khả năng lao động từ trên 10% đến dưới
81% thì cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu
có) mà không do lỗi của NLĐ. Trường hợp do lỗi của NLĐ, thì cũng được trợ cấp
một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức bồi thường đã quy định theo các tỷ lệ tương
ứng nêu trên”.
Sau một thời gian áp dụng, để bảo vệ tốt hơn cho NLĐ, tại Khoản 23, Điều 1
Luật số 35/2002/QH10 ngày 02 tháng 04 năm 2002 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLLĐ quy định ngồi trách nhiệm bồi thường thì NSDLĐ cịn phải phụ cấp
lương (nếu có). Bên cạnh đó, tại Thơng tư liên tịch của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội và Bộ Tài chính số 21/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 18 tháng 06 năm
1994, lần đầu tiên TNLĐ được xác định cụ thể có 04 trường hợp bao gồm: TNLĐ
trong giờ làm việc, tại nơi làm việc, kể cả làm việc ngoài giờ do yêu cầu của
NSDLĐ; Tai nạn khi đi công vụ được giao; Tai nạn trên đường đi và về từ nơi ở
đến nơi làm việc; Tai nạn trong những trường hợp cứu người, cứu tài sản của Nhà
nước.
Nhìn chung, pháp luật lao động giai đoạn này đã có những bước tiến đáng
kể. Sau những lần sửa đổi, bổ sung của BLLĐ vào các năm 2002, năm 2006, năm
2007 thì các quy định về trách nhiệm của NSDLĐ với NLĐ bị TNLĐ ngày càng cụ
thể, rõ ràng, có cách nhìn mới, quan điểm phù hợp hơn theo hướng bảo vệ lợi ích
của NLĐ và với sự phát triển của xã hội.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 2012 đến nay
Qua thời gian, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, của thị
trường lao động, quan hệ lao động nói riêng đã có những đổi mới địi hỏi BLLĐ cần
phải được sửa đổi, bổ sung. BLLĐ 2012 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3
thơng qua ngày 18 tháng 06 năm 2012 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng
05 năm 2013. Trong đó, các quy định về chế độ TNLĐ được quy định tại Mục 2
Chương IX. Chính phủ đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật quy định
chi tiết về thực hiện chế độ bồi thường, trợ cấp TNLĐ. Cụ thể, Nghị định số
45/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 05 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của BLLĐ về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao
động, vệ sinh lao động. Nghị định này quy định rõ các trường hợp được xác định là
TNLĐ. Đây là những cơ sở pháp lý để thực hiện chế độ bồi thường, trợ cấp TNLĐ.
Đồng thời, Thông tư số 04/2015/TT-BLĐTBXH ngày 02 tháng 02 năm 2015 hướng
19
dẫn thực hiện chế độ bồi thường, trợ cấp và chi phí y tế của NSDLĐ đối với NLĐ bị
TNLĐ, bệnh nghề nghiệp, quy định tương đối cụ thể, rõ ràng về điều kiện, mức bồi
thường, trợ cấp mà NSDLĐ phải thực hiện đối với NLĐ bị TNLĐ.
Trước năm 2016, các quy định về TNLĐ nói chung và trách nhiệm của
NSDLĐ đối với NLĐ nói riêng được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp
luật khác nhau,… mặc dù các quy định khá cụ thể, chi tiết và đầy đủ nhưng còn
phân tán, chưa tập trung thống nhất tại một văn bản luật nên gây nhiều khó khăn
trong quá trình thực thi. Bên cạnh đó, qua thực tiễn áp dụng pháp luật, các quy định
về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ đã bộc lộ một số điểm bất cập.
Để khắc phục những hạn chế, thiếu sót đó, ngày 26 tháng 05 năm 2015, Quốc hội
khóa XIII đã ban hành Luật ATVSLĐ 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng
07 năm 2016. Luật ATVSLĐ 2015 quy định khá đầy đủ và chi tiết các quy định về
TNLĐ và trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ. Do đó, BLLĐ 2019 khơng cịn
quy định về vấn đề trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ như các BLLĐ
trước đây giúp thuận tiện cho việc thi hành.
Hiện nay, trải qua các giai đoạn phát triển của lịch sử, các quy định trách
nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung ngày
một hồn thiện hơn cả về hình thức và nội dung cho phù hợp theo hướng ngày càng
đảm bảo quyền lợi hơn cho NLĐ góp phần dung hịa giữa các lợi ích kinh tế với các
vấn đề cấp thiết của xã hội. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển nhanh chóng của nền
kinh tế - xã hội và nhu cầu ngày càng nâng cao của con người thì việc nghiên cứu
để tiếp tục hoàn thiện các quy định trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ
vẫn đang được đặt ra ở nước ta.
1.3. Ý nghĩa của quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với
người lao động bị tai nạn lao động
Mục đích lớn nhất của các quy định về trách nhiệm của NSDLĐ đối với
NLĐ bị TNLĐ là bảo đảm đời sống cho NLĐ, sẽ được thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập mất đi khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm. Các
quy định về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị TNLĐ khơng chỉ có vai trị to
lớn đối với NLĐ, mà cịn có ý nghĩa đối với NSDLĐ, gia đình người thân của NLĐ
bị TNLĐ và cả xã hội.
1.3.1. Đối với người lao động
Khi TNLĐ xảy ra, NLĐ là chủ thể bị tác động trực tiếp đến sức khỏe và
thậm chí là tính mạng, tiền bạc trong khi đó nhiều chủ doanh nghiệp cố tình trốn