ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH TẬP LUYỆN DƯỠNG
SINH CỦA NGƯỜI DÂN TRÊN MỘT SỐ ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HUẾ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
BÁC SĨ Y HỌC CỔ TRUYỀN
Huế, năm 2021
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
NGUYỄN THỊ TUYẾT MAI
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH TẬP LUYỆN
DƯỠNG SINH CỦA NGƯỜI DÂN
TRÊN MỘT SỐ ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HUẾ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
BÁC SĨ Y HỌC CỔ TRUYỀN
Người hướng dẫn luận văn:
TS.BS Đoàn Văn Minh
Huế, năm 2021
Lời Cảm Ơn
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu nhà trường, Phòng Đào
tạo Đại học – Công tác Sinh viên, Khoa Y học cổ truyền cùng tồn thể q thầy cơ
Trường Đại học Y Dược Huế đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý
giá cho em trong suốt thời gian học tập tại trường cũng như trong quá trình làm luận
văn.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ - Bác sĩ Đoàn Văn Minh, Trưởng
Khoa Y học cổ truyền, là người đã hướng dẫn một cách tận tình và chu đáo trong
suốt thời gian em làm đề tài tốt nghiệp.
Chân thành cảm ơn Trung tâm Thông tin – Thư viện Trường Đại học Y Dược
Huế đã hỗ trợ em trong quá trình tìm kiếm tài liệu tham khảo.
Xin cảm ơn Uỷ ban nhân dân phường, Trạm Y tế và người dân phường Vĩnh Ninh Tây Lộc – An Hòa trên địa bàn Thành phố Huế đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho em trong quá trình thu thập thơng tin, số liệu để hồn thành luận văn.
Con xin cảm ơn gia đình đã ln sát cánh bên con, khuyến khích, động viên con
và ln là chỗ dựa vững chắc cho con trong cuộc sống.
Cuối cùng, xin cảm ơn những người bạn đã luôn bên cạnh sẻ chia, giúp đỡ mình
trong suốt quá trình học tập và trao đổi kinh nghiệm.
Huế, tháng 5 năm 2021
Nguyễn Thị Tuyết Mai
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.
Huế, tháng 5 năm 2021
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Tuyết Mai
DANH MỤC VIẾT TẮT
BN
YHCT
YHHĐ
: Bệnh nhân
: Y học cổ truyền
: Y học hiện đại
PPDS
TCQ
CBYT
CBCNVC
MSLĐ
: Phương pháp dưỡng sinh
: Thái cực quyền
: Cán bộ Y tế
: Cán bộ công nhân viên chức
: Mất sức lao động
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dưỡng sinh với những tên gọi khác nhau: dưỡng sinh, bảo sinh, di dưỡng, vệ
sinh,… đã có mặt từ rất lâu đời, ngay từ khi loài người bắt đầu có nhận thức về cuộc
sống. Điều này đã được thể hiện trong các văn tự, các sách triết học cổ, trong các
truyền thuyết hay giáo lý của các tôn giáo, các tập quán của các dân tộc. Dù có gọi
là gì thì mục đích cuối cùng của Dưỡng sinh chính là ni dưỡng sự sống. Phương
pháp dưỡng sinh là cách sống để giữ gìn sức khỏe, cải tạo thể chất, phịng bệnh,
chữa bệnh, sống lâu và sống có ích [1], [4].
Ở Việt Nam phương pháp dưỡng sinh đó có truyền thống từ lâu đời, đã được
nhiều danh y nghiên cứu, phát triển như: Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV) [32]; Hồng Đơn
Hịa (thế kỷ XVI) [10]; đến thế kỷ XVII, Đào Cơng Chính viết cuốn “Bảo sinh diên
thọ toan yếu” có nêu lên và truyền bá phương pháp dưỡng sinh thời cổ; thế kỷ
XVIII có danh y nổi tiếng là Hải Thượng Lãn Ông trong tác phẩm “Vệ sinh yếu
quyết” đã ghi rõ tư tưởng của mình [33]:
“Tấc lịng tâm niệm bấy lâu
Mong đời hết bệnh kéo dài ngày xuân”
Đến thế hệ sau này, phương pháp dưỡng sinh được phát triển lên mức độ cao
hơn với đóng góp của nhiều nhà dưỡng sinh tiêu biểu như: Nguyễn Khắc Viện, Tô
Như Khuờ, Lờ Kim Định và Nguyễn Văn Hưởng. Trong đó Bác sỹ Nguyễn Văn
Hưởng nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông y đã nhiều năm nghiên cứu về
phương pháp dưỡng sinh y học cổ truyền. Từ kinh nghiệm của bản thân bị liệt nửa
người do tai biến mạch máu não từ năm 1970. Ông và tập thể đã nghiên cứu và xây
dựng bài tập dưỡng sinh kết hợp giữa kinh nghiệm của dưỡng sinh y học cổ truyền
với y học hiện đại. Ơng đã vận dụng thành cơng trong bảo vệ sức khoẻ của bản thân
mình và hướng dẫn cho nhiều người luyện tập đạt kết quả tốt. Cho đến hiện nay,
phương pháp dưỡng sinh của BS Nguyễn Văn Hưởng là một trong các phương pháp
được áp dụng rộng rãi trên toàn quốc. đã vận dụng những phương pháp tập luyện y
10
học cổ truyền với kiến thức y học hiện đại để xây dựng thành những hệ thống tập
luyện hoàn chỉnh, có cơ sở khoa học rõ ràng [4], [7], [20], [39].
Cố đô Huế nơi hội tụ tinh hoa của nền Đông y lâu đời qua các triều đại vua
chúa nhà Nguyễn, là nơi quy tụ nhiều danh y, ngự y giỏi; do đó cho đến bây giờ, nơi
đây vẫn giữ được cho mình những nếp sinh hoạt và thói quen rèn luyện thân thể.
Đồng thời khi xã hội ngày nay khơng cịn lo đến cái ăn cái mặc thì người ta lại quan
tâm nhiều hơn đến chất lượng sống, làm sao để sống vui, sống đẹp, tâm thần thư
thái và an yên. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại cùng với phương châm phòng
bệnh hơn chữa bệnh, biến quá trình chữa bệnh thành quá trình tự chữa bệnh, trong
nhiều năm trở lại đây phong trào tập luyện dưỡng sinh đã được áp dụng phổ biến
trong cộng đồng. Luyện tập dưỡng sinh không những trở thành nhu cầu của người
cao tuổi mà tất cả mỗi người muốn rèn luyện thân thể nâng cao sức khỏe đều có thể
tập luyện các bài tập dưỡng sinh phù hợp. Tuy nhiên không phải người dân nào
cũng biết và thực hiện, cũng như chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá tình hình tập
luyện dưỡng sinh, đặc biệt là trên địa bàn Thành phố Huế. Nhằm cung cấp một cái
nhìn chung về tình hình tập luyện Dưỡng sinh của người dân thành phố Huế để từ
đó tạo tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo, chúng tơi tiến hành đề tài: “Khảo sát
tình hình tập luyện Dưỡng sinh của người dân trên một số địa bàn Thành phố
Huế” với hai mục tiêu sau:
1. Khảo sát đặc điểm và tình hình tập luyện Dưỡng sinh của người dân trên
một số địa bàn thành phố Huế.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan tới tình hình tập luyện Dưỡng sinh của
người dân trên một số địa bàn thành phố Huế.
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. DƯỠNG SINH VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÉP DƯỠNG SINH
1.1.1. Khái niệm:
Dưỡng sinh là sự ni dưỡng và bảo vệ sự sống để phịng bệnh và kéo dài tuổi
thọ. Về phương pháp dưỡng sinh, trong Nội kinh cổ nhân đã qui nạp thành bốn
phương diện:
Điều dưỡng tinh thần
Điều tiết sinh hoạt và ăn uống
Thích nghi với điều kiện khí hậu, xã hội
Rèn luyện thân thể
Phương pháp dưỡng sinh là một phương pháp tự luyện tập gồm có 4 mục đích
gắn chặt và thúc đẩy nhau [21]:
-
Bồi dưỡng sức khỏe
Phòng bệnh
Từng bước chữa bệnh mãn tính
Tiến tới sống lâu và sống có ích
1.1.2. Cơ sở lý luận của phép dưỡng sinh
Sách Nội kinh viết “Thánh nhân chữa khi chưa có bệnh, khơng để bệnh phát ra
rồi mới chữa, trị khi nước chưa có loạn, khơng đợi khi có loạn rồi mới trị. Phàm sau
khi bệnh đã thành rồi mới dùng thuốc, loạn đã thành rồi mới lo dẹp, cũng ví như
khát mới đào giếng, khi chiến đấu mới đúc binh khí thì chẳng phải muộn rồi” [9],
[33] , [34].
Phương pháp dưỡng sinh là một phương pháp rèn luyện cơ thể một cách toàn
diện để bảo vệ sức khỏe.
Cơ sở của phương pháp dưỡng sinh của YHCT đã được nhà y học nổi tiếng của
nước ta là Tuệ Tĩnh tóm tắt ở hai câu thơ [21], [32] :
“ Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần
12
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình”
Hai câu thơ trên đã tổng kết sâu sắc cách sinh hoạt, cách lao động, cách suy
nghĩ, cách luyện tập như thế nào để bảo vệ sức khỏe. Hay nói một cách khác hơn là
phương pháp luyện tập như thế nào để làm cho thể xác và tinh thần đều khỏe mạnh,
làm chủ được mình để sống lâu và có ích.
Có thể minh họa hai câu thơ bằng sơ đồ dưới đây:
Tồn thần
Theo YHCT: Tinh, khí, thần là ba thứ quí báu của cơ thể, được xem là tam bảo
[21] . Tinh dồi dào, khí đầy đủ thì thần mới vững mạnh, cơ thể mới sống khoẻ và
sống lâu.
Bế tinh: là giữ gìn tinh, khơng hao phí; tránh phóng túng. Tinh có hai loại là
tinh tiên thiên (bẩm thụ từ cha mẹ, đóng vai trị sinh sản) và tinh hậu thiên (khí
huyết, tân dịch có được từ tinh hoa từ đồ ăn thức uống, đóng vai trị dinh dưỡng).
Dưỡng khí
13
Dưỡng khí: là luyện thở nhiều khơng khí, và hít thở khí trong sạch; cũng cịn
có nghĩa là khóe láo giữ gìn và bồi dưỡng khí lực ccủa mình cho dồi dàothì tồn cơ
thể mới có sức hoạt động. Có hai loại khí là khí tiên thiên (nguyên khí, bẩm thụ từ
cha mẹ) và khí hậu thiên (do phế sinh ra và tỳ vị lấy từ đồ ăn thức uống). Khí là vật
chất vơ hình, là nguồn gốc, có tác dụng duy trì cuộc sống, thúc đẩy hoạt động chức
năng của cơ thể, không chỗ nào không đến, không chỗ nào khơng qua.
Tồn thần: Thần là hình thức năng lượng cao cấp mà các động vật cũng có,
nhưng mức cao nhất thì chỉ có ở người, do hệ thần kinh tạo ra. Thần là hoạt động
sống, là biểu hiện của sự sống - nhờ nó mà con người biết tư duy, có ý chí, có tình
cảm, có khoa học và nghệ thuật. Muốn bồi dưỡng cái gốc của thần thì phải bế tinh;
muốn giữ gìn thần thì phải “thanh tâm, quả dục, thủ chân”.
Thanh tâm: đứng đầu ngũ tạng là Tâm, biểu hiện bằng tâm chủ thần minh,
hoạt động trí tuệ của con người. Thanh tâm là giữ cho lòng mình trong sạch, thanh
thản, ăn ngay ở thẳng, giữ lịng mình bình tĩnh, khơng bị tình cảm xúc động thái
q, khơng buồn phiền, khơng tức giận.
Quả dục: dục có nghĩa là lòng ham muốn, khát vọng (dục vọng). Quả dục là
hạn chế lịng ham muốn sắc dục, dục vọng; khơng tham tiền (tham ô), không tham
sắc, không tham danh vị (địa vị).
Thủ chân: là nắm giữ chân khí, nguyên khí, là năng lực cơ bản của con người.
Luyện hình: là luyện tập thân thể, tập thể dục, thể thao, lao động tay chân,
làm cho cơ thể luôn luôn vận độn, khí huyết lưu thơng, gân cốt mạnh mẽ, cơ
khớp linh hoạt,..
Hai câu thơ trên của danh y Tuệ Tĩnh đã thể hiện đấy đủ các yếu lĩnh để có
được một cuộc sống khoẻ mạnh và lâu dài.
1.2. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TẬP LUYỆN DƯỠNG SINH Ở TRÊN THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.2.1. Nguồn gốc của các phương pháp tập luyện
Bao đời nay, con người đã biết những lợi ích mà việc tập luyện đem lại. Trong
quyển Hoàng đế Nội kinh Tố vấn - Thượng cổ Thiên chân luận – Kinh văn 1 có ghi:
14
“Về đời Thượng cổ, những người biết đạo Dưỡng sinh, bắt chước âm, dương; điều
hòa với thuật số, ăn uống có mực, khởi cư có thường, khơng làm q sức, cho nên gìn
giữ được cả hình hài và tinh thần, sống trọn số trời, linh trăm tuổi mới thác” [25].
Mỗi quốc gia, dân tộc đều xây dựng cho mình phương pháp tập luyện riêng:
Phương pháp khí cơng đã xuất hiện ở Trung Quốc hơn 1000 năm nay. Phương
pháp Yoga của Ấn Độ đã xuất hiện từ hơn 4000 năm nay, với các ngành của nó như:
Hath Yoga chuyên luyện về thể xác, Raja Yoga chuyên luyện về tinh thần, tập trung
tinh thần [5], [13]. Ở Châu Âu, có phương pháp tập luyện thể dục thể thao, điền
kinh, thư giãn....
1.2.2. Một số phương pháp tập luyện dưỡng sinh ở trên thế giới
Ở Trung Quốc đã biết tập khí cơng, dưỡng sinh từ lâu đời, đã có viện nghiên
cứu về khí cơng, nhiều người tập khí cơng và đã đề ra phương pháp giải quyết bệnh
mãn tính bằng khí cơng, xoa bóp, thái cực quyền
Ở Ai Cập, I-răn, Ấn Độ: nổi tiếng với phương pháp Yoga cổ truyền, là phương
pháp rnè luyện tinh thần và thể xác, đem lại sức khỏe toàn diện cho con người.
Các nước Châu Âu: có phương pháp thư giãn (Relaxation) để chống tình trạng
căng thẳng và phương pháp thơi miên (hypnotisme) để trị bệnh [21] .
1.2.2.1 Khí công dưỡng sinh:
Là phương pháp tập luyện từ lâu đời ở Trung Quốc, là phương pháp tự tập
luyện để nâng cao thể chất, phịng bệnh và chữa bệnh.
a. Định nghĩa
Khí cơng là phương pháp luyện khí một cách cơng phu. Nó là sự tổng hợp một
số phương pháp Dưỡng sinh chữa bệnh của người xưa qua áp dụng, chỉnh lí, nâng
cao…đã trở thành một trong những phương pháp tự rèn luyện để giữ gìn sức khỏe,
phịng bệnh và chữa bệnh [6].
Từ “Khí cơng” có nghĩa là Khí theo YHCT có hai nội dung: một là vật chất,
tức là khơng khí ta hít thở hằng ngày, hai là chức năng sinh lý của cơ thể nói chung
(chân khí, ngun khí) và chức năng của các cơ quan tổ chức trong cơ thể nói riêng
(tỳ khí, thận khí, phế khí, can khí, tâm khí,…). Cơng là sự luyện tập. Như vậy thì
15
“Khí cơng” là luyện tập để nâng cao chức năng sinh lý của cơ thể nói chung, của cơ
quan nội tạng nói riêng và tập thở. [21].
b. Đặc điểm
- Là phương pháp tự tập để giữ sức khỏe, tự phòng bệnh; Càng dày cơng luyện tập
-
kết quả càng cao.
Nó thơng qua việc tự luyện tập để điều chỉnh những sự mất cân băng của cơ thể, tự
-
lực giữ gìn sức khỏe và phòng bệnh.
Phương pháp này giúp con người nhận thức được, tự khống chế và tự điều chỉnh
-
một số hoạt động sinh lý của bản thân.
Phương pháp này không những có tác dụng chữa bệnh mà cịn chữa cả người bệnh,
-
nhất là đối với những người bị bệnh mãn tính.
Là phương pháp hợp với tự nhiên, khơng tốn kém, khơng phiền phức
c. Nội dung
Nội dung của phương pháp khí công gồm 2 phần: luyện ở tư thế tĩnh và luyện
ở tư thế động [2], [8], [21], [28]. Hai mặt luyện tập này gắn chặt với nhau làm cho
tác dụng của khí cơng được tồn diện.
- Luyện ở tư thế tĩnh là sựu kết hợp chặt chẽ giữa ba mặt luyện tập: luyện tư thế,
luyện ý và luyện thở khi thân thể ở trạng thái yên tĩnh. Mục đích chính của nó là
-
luyện các bộ phận trong cơ thể [2], [8], [21], [28].
Luyện ở tư thế động cũng là sự kết hợp chặt chẽ của ba mặt luyện tập: luyện thở,
luyện ý và luyện động tác. Mục đích của nó là luyện ngũ quan, gân cốt. Tùy tình
hình cụ thể của mỗi người mà tiến hành luyện tập. [2], [8], [21], [28].
d. Một số nghiên cứu về tác dụng của khí cơng
- Đối với hệ thần kinh: Khi tập khí công: hoạt động của vỏ não ở trạng thái ức chế và
trung khu thần kinh thực vât cũng ở trạng thái hưng phấn giảm đi và ức chế tăng
lên, có lợi cho việc tăng cường hai quá trình hưng phấn và ức chế của thần kinh
-
trung khu.
Đối với hệ hô hấp: Khi tập khí cơng, hoạt động hơ hấp có những thay đổi rõ rệt, có
ảnh hưởng đến tồn bộ hoạt động của cơ thể. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy: Số lần
thở trong 1 phút giảm, số lượng khí thơng qua phổi trong 1 phút trung bình giảm từ
8,4 lít xuống 6,6 lít. Số lượng khơng khí trong 1 lần trung bình tăng 78%; tập ở tư
16
thế nằm số lớn trường hợp, lượng O 2 tiêu hao trong 1 phút trung bình giảm từ
188ml/phút xuống 157ml/phút. Lượng CO2 thải ra trong 1 phút trung bình giảm từ
172ml/phút xuống cịn 136ml/phút. Cơng suất chuyển hóa trung bình giảm từ 100%
xuống cịn 81%. Ở người hen, khí cơng có thể cắt được cơn hen (nhẹ và vừa) và
-
từng bước cải thiện được phản ứng của cơ thể đối với kích thích gây hen.
Đối với hệ tuần hồn: Khi tập khí cơng, số lượng lớn trường hợp có số tim đập
trong 1 phút giảm đi, mạch ngoại vi giãn, huyết áp cao hạ xuống và hạ hơn cả khi
ngủ ngon nhất. Trên cơ sở đó làm giảm nhẹ gánh nặng của tim, chỉ số thực bào và
-
năng lượng thực bào nói chung tăng lên.
Đối với hệ tiêu hóa: Khi tập khí cơng, lượng nước bọt ở tuyến mang tai tiết ra giảm
đi, song nó tăng lên khi kết thúc một lần luyện tập, biên độ cơ hoành tăng rõ rệt, nhu
động của dạ dày tăng lên, số lần nhu động cũng tăng, thời gian đẩy thức ăn xuống
ruột được rút ngắn, lượng dịch vị tiết ra tăng, nhu động ruột tăng. Trên thực tiễn lâm
sàng cho thấy khí cơng có tác dụng tốt với táo bón và tiêu chảy [21].
Ngoài ra
phản ứng Gros được cải thiện rõ rệt [6].
Theo thống kê của hội nghị khí cơng quốc gia Trung Quốc có khoảng 50 triệu
người tập luyện khí cơng. [2]. Hiện nay Trung Quốc đã áp dụng khí cơng vào điều
trị nhiều bệnh như: tăng huyết áp, suy nhược thần kinh, hen phế quản, viêm loét dạ
dày, giảm béo [2], [28]. Hiện nay có Viện nghiên cứu khí cơng và các mơn tập khí
cơng ở Trung Quốc, hội khí cơng ở nhiều nước trên thế giới [28].
Một số các nghiên cứu: Theo Jing Peng, Linglin Zhang và cộng sự (2020)
đánh giá tác dụng của Khí cơng đối với chức năng phổi và chất lượng cuộc sống ở
bệnh nhân covid-19 của cho kết quả các chỉ số hô hấp như 6MWD, FEV1, FVC,
FEV1/FVC đều được cải thiện; chất lượng cuộc sống được đánh giá qua các thang
điểm tự đánh giá về độ lo lắng, trầm cảm đều mang tính hiệu tích cực [51]. Theo
Girard J (2018). Khí cơng có tác dụng đối với đau cổ (95%) [45]. Nghiên cứu Khí
cơng và đau cơ xương của Ray Marks (2019) [54]. Nghiên cứu về tác dụng của khí
cơng lên triệu chứng khơng cử động và tình trạng viêm của bệnh nhân Parkinson
của Moon S, Sarmento CVM và cộng sự (2019) [49]. Khí cơng có tác dụng cải
17
thiện sức khỏe tâm thần của phụ nữ Trung Quốc bị bạo hành của Cheung DST,
Deng W, Tsao SW(2019) [41].
1.2.2.2. Tự xoa bóp
Xoa bóp là phương pháp chữa bệnh ra đời từ rất sớm, được xây dựng và phát
triển trên cơ sở những kinh nghiệm tích lũy trong đấu tranh bảo vệ sức khỏe của
người xưa.
Xoa bóp của YHCT là phương pháp phịng bệnh và chữa bệnh của YHCT, vì
vậy nó cũng chịu sự chỉ đạo của học thuyết âm dương, ngũ hành, tạng phủ, kinh lạc,
vệ khí dinh huyết của YHCT. Đặc điểm của nó là dùng bàn tay, ngón tay là chính để
tác động lên huyệt, da, thịt, gân, khớp [21].
Một số phương pháp tự xoa bóp:
- Bàn tay: xoa 2 lòng bàn tay vào nhau cho ấm nóng rồi tay này xoa mu tay kia vận
-
động cổ tay và các ngón tay.
Mặt gáy: hai bàn tay áp vào hai má, xát ngược lên trán, đỉnh đầu, sau gáy và vòng ra
-
má, tiếp tục như vây 10 lần.
Đầu tóc: gãi đầu từ phía trước ra sau gáy vịng lại thái dương, trở ra phía trước và
lần lượt gái hết diện da đầu. Sau đó dùng móng các ngón tay miết da đầu từ phía
-
trước ra phía sau tựa như chải tóc.
Mắt: xoa vịng quanh hố mắt 10 lần, vuốt mi mắt trên từ sống mũi ra ngoài 10 lần.
Sau đó đưa ngón tay ra phía trước mắt, nhìn chăm chú vào các ngón tay rồi đưa các
-
ngón tay từ từ ra xa, lại đưa tay gần gốc mũi, làm 10 lần.
Tai: vuốt vành tai 10 lần, sau đó dùng gan bàn tay ấn chặt vào tai, đột nhiên bung
-
tay ra, làm như vậy 10 lần.
Gan bàn tay vẫn bịt chặt lỗ tai, bốn ngón tya bám chặt vào xương chẩm, đưa ngón
trỏ lên tựa vào lưng ngón giữa, bật mạnh ngón trỏ đập vào xương chẩm ( nghe thấy
-
bùng bùng trong tai 5 lần).
Mũi: dùng ngón tay cái hoặc ngón trỏ miết 2 bên sống mũi và đỉnh mũi 10 lần.
Răng: hai hàm ăng gõ vào nhau từ 10-20 lần.
Lưỡi: lưỡi để phía ngồi răng cửa quay trịn, đồng thời miết vào mặt răng, mắt nhìn
-
theo lưỡi đảo vòng, mỗi chiều quay 10 lần.
Chi trên: hai tay trên xát từ nách và lòng bàn tay vòng qua mu tay lên đỉnh xát 10
lần.
18
- Ngực: bàn tay phải đặt trên ngực phải xát mạnh chéo sang hàng bên trái, sau đó đổi
-
tay làm như trên, mỗi lần xát 5 lần.
Bụng: xoa thành đường vòng quanh rốn theo chiều kim đồng hồ, xoa 10 lần.
Lưng: xát mạnh từ thắt lưng tới mông, xát 10 lần.
Chân: xát từ mặt ngoài cẳng chân đến mu bàn chân vòng vào lòng bàn chân ngược
lên đến bẹn, xát 10 lần, sau đó dây đầu gối 10 lần, rồi hai bàn chân cọ xát vào nhau,
chân nọ xát mu bàn chân kia [ 6]
1.2.2.3. Thái cực quyền (TCQ)
a, Khái niệm
“Thái” nghĩa là lớn lao, “Cực” là trạng thái cao cấp nhất của sự vật. Thái Cực
là danh từ được dùng đầu tiên ở Kinh Dịch. Quyển kinh này quan niệm: lúc Trời
Ðất chưa hình thành là Thái Cực (cịn gọi là Thái Sơ, Thái Nhất). Sau đến đời nhà
Tống, có Chu Ðơn Di vẽ ra bức Thái Cực đồ, có thuyết minh kỹ càng, nhằm giải
thích ý nghĩa hàm ngụ và sự biến hóa phát triển của ý niệm Thái Cực. Trong “Thái
Cực đồ khuyết” của Chu Ðôn Di, câu đầu tiên là "Vô Cực Nhi Thái Cực" (“Nhi” ở
đây có nghĩa là “tức là”). Ý niệm này cịn được mô tả trong câu “Thái Cực bản
Vô Cực” (“bản” ở đây có nghĩa “ vốn là”).
Trong bài TCQ mỗi động tác đều đi theo đường tròn như các đường tròn được
biểu thị trong Thái Cực đồ. Trong các động tác đường trịn này có chứa rất nhiều sự
biến hóa như: hư- thực, động- tĩnh, cương- nhu, tấn- thoái.
Ðộng tác trong TCQ từ khai thức đến thâu thức hoàn toàn liên tục, khơng một
chỗ nào đứt đoạn như một vịng trịn hồn chỉnh, khơng thể tìm được đầu mối; đó
chính là cái lẽ “ thái cực vốn là vô cực”.
Thái cực quyền 24 thức là bài tập nằm trong một số bài TCQ đã được giản hóa
chiêu thức, giảm các số lần lặp đi lặp lại trên cơ sở sắp xếp lại thứ tự động tác cho
mỗi thức. TCQ Dương Gia đã kết tinh từ bài 108 thức để tạo nên bài TCQ 24 thức
vào thập niên 1950 ở Trung Quốc dưới sự chỉ đạo của Quốc gia Thể Ủy Trung
Quốc. Và đã được các câu lạc bộ dưỡng sinh trên tồn thế giới đưa vào tập luyện
bởi tính ưu việt và nhất là tác dụng của TCQ đem lại.
b, Nguồn gốc của Thái cực quyền
19
Theo võ sử Trung Hoa thì mơn TCQ được sáng tạo vào thế kỷ 13 bởi Đạo Sĩ
Trương Tam Phong (Chang Sen Feng), người đồng thời sáng lập ra môn phái Võ
Đan. Nhờ quan sát một cuộc chiến đấu giữa con rắn và con chim ưng. Chim ưng
dùng cánh, mỏ và móng vuốt cứng để mãnh liệt tấn cơng con rắn, nhưng rắn với sự
chuyển mình uyển chuyển đã hóa giải được tất cả các thế đánh của chim ưng khiến
chim ưng khơng làm gì được và phải bay đi. Từ cuộc chiến giữa rắn và chim ưng,
Trương Tam Phong đã nghiên cứu và nghĩ ra một môn võ công phối hợp với triết lý
của Đạo Gia, có âm có dương và dùng nhu khắc cương, đặt tên là TCQ (Tai Chi
Chuan). Từ thế kỷ XVIII- XX, thái cực quyền được chia thành 7 trường phái: TCQ
Trần gia Lão giá, TCQ Trần gia Tân giá, TCQ Trần gia Tiểu giá, TCQ Dương gia,
TCQ Vũ gia, TCQ Ngô gia, TCQ Tôn gia [12].
Thái cực quyền là môn võ cổ truyền dân tộc của Trung Quốc có từ 2000 năm
trước, được người già đưa vào tập luyện khoảng 300 năm gần đây. TCQ gồm 2 loại:
loại TCQ chiến đấu và TCQ dưỡng sinh. Năm 2006, UNESCO công nhận TCQ của
Trung Quốc là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới. Ở Việt nam, TCQ được biên
soạn với các động tác trường quyền uyển chuyển, chậm rãi kết hợp với điều hồ hơi
thở và khí huyết (dưỡng sinh) nên cịn được gọi là Thái cực quyền dưỡng sinh hay
Thái cực trường sinh đạo. Từ năm 1955, Bác Hồ đã bắt đầu tập Thái cực quyền
và đây là môn tập mà Người ưa thích nhất, có lẽ vì nó hấp dẫn, mang lại kết
quả tích cực, rất thích hợp với mọi người, đặc biệt là người lớn tuổi [ 40] .
Về tác dụng của bài tập TCQ đã được nghiều tác giả nghiên cứu ở các phương
diện khác nhau. Cụ thể: Nghiên cứu của Christian Wehner, Cornelia Blank và cộng
sự (2021) cho kết quả tập luyện thái cực quyền cải thiện đáng kể về sức mạnh của
bàn tay, độ bền của cơ bắp thông qua đo lường khoảng cách đi bộ trong 6 phút, thời
gian đứng ở tư thế một chân với mắt mở và độ linh hoạt của cột sống thắt lưng từ đó
cải thiện sự cân bằng tư thế [42]. Theo Dongling Zhong và cộng sự (2020) nghiên
cứu ảnh hưởng của Thái Cực Quyền đối với bệnh nhân tăng huyết áp (<50 tuổi) đã
cho kết quả việc tập luyện thái cực quyền từ 12 – 24 tuần làm giảm đáng kể huyết
áp tâm thu và huyết áp tâm trương; từ đó Thái Cực Quyền có thể được khuyến
20
khích như một phương pháp điều trị bổ trợ cho bệnh tăng huyết áp, đặc biệt là cho
những bệnh nhân dưới 50 tuổi [55]. Hay theo nghiên cứu của Rafael LomasVega, Esteban Obrero-Gaitán, Francisco J Molina-Ortega và Rafael Del-PinoCasado (2017) Ở người lớn và người lớn tuổi có nguy cơ, luyện tập thái cực quyền
có thể làm giảm tỷ lệ té ngã và các cú ngã liên quan đến chấn thương trong thời gian
ngắn (<12 tháng) tương ứng khoảng 43% và 50% [53]. Lu.J, Huang.L (2017) cho
thấy tập luyện dưỡng sinh có hiệu quả cải thiện chất lượng giấc ngủ của phụ nữ cao
tuổi ở Trung Quốc bị viêm khớp gối [ 47] .
1.2.2.4 Yoga
Yoga là môn khoa học sức khỏe có nguồn gốc từ Ấn Độ từ khoảng 5000 năm
trước, nhưng hiện nay được nhiều người lựa chọn như là một liệu pháp nâng cao
sức khỏe, thể lực, phòng và hỗ trợ chữa bệnh. Với sự kết hợp của 4 yếu tố: các tư
thế (asana), kỹ thuật thở (pranayama), tập trung (dharana) và thiền định (dhyana)
[2], [13]. Yoga đã được đánh giá làm tăng sức mạnh cốt lõi của cơ thể, tăng sức
mạnh cơ, linh hoạt khớp, sự nhanh nhẹn, cân bằng và sức bề cơ thể.
Hiện nay có nhiều viện nghiên cứu về Yoga ở Ấn Độ và một số nước Phương
Tây [9], [13]. Trên Thế giới nhiều tác giả đã nghiên cứu về tác dụng của yoga: Theo
Dwi Puji Putranti và cộng sự (2020) nghiên cứu về Tác dụng của yoga đối với chức
năng phổi ở bệnh nhân hen cho kết quả: Với 13 bài tập Yoga tập trong vòng 30- 45
phút/buổi, 2- 5 buổi/tuần và kéo dài 2- 6 tháng đã cải thiện chức năng phổi một cách
rõ rệt ở bệnh nhân hen [44]. Nghiên cứu Yoga để kiểm soát các bệnh lý liên quan
đến điều trị ung thư của Po-Ju Lin, Luke J. Peppone và cộng sự (2018) đã cho kết
quả Yoga giúp điều trị gián đoạn giấc ngủ ở bệnh nhân ung thư và những người
sống sót trải qua, điều trị mệt mỏi do ung thư (CRF), suy giảm nhận thức, chứng
đau khổ tâm lý và các triệu chứng cơ xương [46]. Theo nghiên cứu của Holger
Cramer, Wenbo Peng, Romy Lauche (2018) so với những người khơng tập luyện thì
việc tập luyện Yoga giúp giảm tổng số các triệu chứng mãn kinh, tâm lý, vận mạch
và các triệu chứng tiết niệu sinh dục [43]. Nghiên cứu về vai trò của yoga trong việc
phòng ngừa và kiểm soát các bệnh tim mạch và các yếu tố nguy cơ của chúng của