QUỐC HỘI KHỐ XI
CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Uỷ ban về các vấn đề xã hội
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
***
Số: 2410 BC/UBXH11
Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2006
BÁO CÁO THẨM TRA
DỰ ÁN LUẬT PHÒNG, CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM
KÍNH GỬI: Các vị Đại biểu Quốc hội,
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm
2006, theo sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Uỷ ban về các vấn đề xã hội chủ
trì thẩm tra dự án Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
Để thực hiện nhiệm vụ được giao, Uỷ ban đã tiến hành một số hội nghị lấy ý kiến góp
ý cho Dự án Luật tại tỉnh Thừa Thiên - Huế, Lạng Sơn, Tây Ninh, lấy ý kiến chuyên gia tại
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; tổ chức một số phiên họp Thường trực uỷ ban, toàn thể
Uỷ ban để nghe Ban soạn thảo trình bày những nội dung cơ bản của Dự án Luật và góp ý
kiến vào những vấn đề cịn vướng mắc trong quá trình xây dựng Dự án Luật.
Trên cơ sở Tờ trình số 124/TTr-CP ngày 09/10/2006 của Chính phủ và dự thảo Luật
phòng, chống bệnh truyền nhiễm, Uỷ ban về các vấn đề xã hội đã tổ chức họp toàn thể vào
ngày 25/10/2006 để thẩm tra Dự án Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm với sự tham gia
của đại điện Uỷ ban Pháp luật và một số bộ, ngành liên quan. Sau khi nghe Ban soạn thảo
báo cáo và ý kiến của các đại biểu, Uỷ ban về các vấn đề xã hội xin báo cáo Quốc hội một số
vấn đề như sau:
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Về cơ bản, Uỷ ban về các vấn đề xã hội nhất trí với nội dung trong Tờ trình của
Chính phủ và cho rằng Dự án Luật có nội dung phong phú, nhiều quy định tương đối chi tiết.
Ban soạn thảo đã tiếp thu nhiều ý kiến về những quan điểm lớn của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, của Thường trực Uỷ ban về các vấn đề xã hội trong lần thẩm tra sơ bộ và đại diện các cơ
quan, địa phương và chun gia.
Tuy nhiên, nhìn chung dự thảo Luật phịng chống bệnh truyền nhiễm được xây dựng
với nhiều quy định về kỹ thuật chun mơn y tế, tính quy phạm pháp luật chưa cao. Mặt
khác, các quy định của dự thảo Luật thể hiện tính thụ động của ngành y tế trong phòng,
chống bệnh truyền nhiễm, thiếu những quy định về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của người
dân, của cộng đồng trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
1
1. Về sự cần thiết ban hành Luật
Ngoài những lý do của sự cần thiết phải ban hành Luật phòng, chống bệnh truyền
nhiễm được nêu trong Tờ trình của Chính phủ, Uỷ ban chúng tơi thấy cịn có thêm các lý do
sau:
- Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, con người là nguồn lực và vốn quý của xã
hội. Vì vậy, đầu tư cho con người chính là đầu tư cho nguồn lực, cho sự phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm sự bền vững của đất nước. Việc ban hành Luật này thể hiện sự quan tâm của
Nhà nước đối với việc bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của nhân dân.
- Việc ban hành Luật này nhằm khẳng định và cụ thể hóa quan điểm phòng bệnh hơn
chữa bệnh đã được thể hiện trong Hiến pháp và được chỉ đạo xuyên suất, thống nhất trong
nhiều năm qua. Đồng thời góp phần khắc phục xu hướng coi nhẹ vấn đề phòng bệnh trong
chỉ đạo cũng như đầu tư.
- Việc xây dựng Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm là một bước quan trọng để
hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật trong cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của mỗi người dân cũng như trách nhiệm của
cộng đồng. Nhiễm HIV là một loại bệnh truyền nhiễm đã được Quốc hội ban hành một luật
riêng; do vậy, việc ban hành Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm để điều chỉnh mối quan
hệ liên quan đến tất cả các loại bệnh truyền nhiễm, nhất là loại bệnh truyền nhiễm thuộc
nhóm A và chủ động ngăn ngừa không để bệnh truyền nhiễm trở thành dịch lại càng cần
thiết hơn.
2. Tên gọi, phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật
Về cơ bản, Uỷ ban nhất trí với tên gọi, phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của
dự thảo Luật.
Tuy nhiên cũng có một số ý kiến đề nghị lấy tên là Luật phòng, chống dịch bệnh sẽ
phù hợp hơn.
Có ý kiến đề nghị Ban soạn thảo cần làm rõ mối quan hệ, ranh giới giữa Luật phòng,
chống bệnh truyền nhiễm với Luật phòng, chống HIV/AIDS, với Pháp lệnh vệ sinh an toàn
thực phẩm, Pháp lệnh thú y, Luật bảo vệ môi trường.
3. Bố cục của dự thảo Luật
- Đa số ý kiến nhất trí với bố cục dự thảo Luật do Chính phủ trình.
- Một số ý kiến đề nghị nên cân nhắc việc thể hiện các chế định pháp lý cho phù hợp
với phân loại nhóm bệnh A, B, C, bổ sung chương quy định về khen thưởng và xử lý vi
phạm nhầm xử lý đối với các trường hợp khai khống dịch bệnh hay thờ ơ, không chịu chấp
hành quy định khi có dịch bệnh xẩy ra.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỤ THỂ
1. Đề nghị bổ sung một số nội dung vào dự thảo Luật
- Bổ sung quy định về điều trị, cách ly, hạn chế đối với người mắc bệnh truyền nhiễm
khi bệnh chưa phát triển thành dịch, bởi vì dự thảo Luật mới chỉ đề cập đến phòng bệnh
2
truyền nhiễm và chống dịch. Việc điều trị tốt bệnh truyền nhiễm sẽ góp phần phịng dịch. Ví
dụ, nếu một người mắc bệnh truyền nhiễm loại đặc biệt nguy hiểm (nhóm A) và cũng chưa
phát thành dịch, có nên quy định bắt buộc chữa bệnh, cách ly, hạn chế đi lại đối với họ hay
không?
- Bổ sung quy định về quyền, trách nhiệm của cộng đồng, của mỗi công dân, của
người bệnh, gia đình người bệnh, cán bộ y tế, chính quyền các cấp trước khi có dịch và khi
có dịch bệnh, cũng như khi hết dịch. Đồng thời bổ sung quy định về xây dựng, đào tạo lực
lượng phòng, chống dịch (nhất là lực lượng chống dịch đặc nhiệm) đạt trình độ quốc gia và
quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của cơng tác phịng, chống dịch bệnh trong giai đoạn
hiện nay.
- Nên bổ sung một số quy định trách nhiệm của các cơ quan liên quan cũng như trách
nhiệm của người đang nuôi, giữ, vận chuyển, tiêu thụ động vật có liên quan đến bệnh truyền
nhiễm, bởi vì hiện nay đang có tình trạng lây bệnh truyền nhiễm từ động vật sang người.
2. Về tiêm chủng phịng bệnh cho trẻ em, phụ nữ có thai thuộc Chương trình
tiêm chủng mở rộng (Điều 29)
Dự thảo Luật trình Quốc hội đã quy định tiêm chủng phòng bệnh cho trẻ em, phụ nữ
có thai thuộc Chương trình tiêm chủng mở rộng là bắt buộc và miễn phí. Hiện có hai loại ý
kiến khác nhau về vấn đề này như sau:
+ Loại ý kiến thứ nhất: nhất trí như dự thảo Luật (tiêm chủng mở rộng là bắt buộc và
miễn phí với trẻ em, phụ nữ mang thai). Mục đích quan trọng nhất của việc quy định bắt
buộc phải tiêm chủng là tạo cơ sở pháp lý để các đối tượng trong diện phải tự giác, chủ động
tham gia tiêm chủng và yêu cầu được tiêm chửng, có như vậy xã hội sẽ tránh được sự tái
phát các bệnh dịch nguy hiểm đã được thanh tốn, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khỏe nhân dân.
+ Loại ý kiến thứ hai: Đề nghị quy định Chương trình tiêm chủng mở rộng thuộc loại
tiêm chủng tự nguyện. Từ trước tới nay Chương trình tiêm chủng mở rộng thuộc loại tiêm
chủng không bắt buộc, ngành y tế và các ban, ngành hữu quan thực hiện vận động các gia
đình đưa con đi tiêm chủng phòng bệnh. Hơn nữa, nếu quy định tiêm chủng mở rộng là bắt
buộc thì chế tài xử lý nhưng người không đến tiêm chủng, hoặc nếu cơ quan y tế không thực
hiện được việc tiêm chủng 100% số đối tượng ở một số vùng sẽ bị xử lý như thế nào? Đồng
thời về kinh phí, chỉ nên quy định Nhà nước hỗ trợ kinh phí tiêm chủng mở rộng.
Quy định linh hoạt như vậy tạo điều kiện cho Chính phủ có thể miễn phí hoặc hỗ trợ
một phần kinh phí để tiêm chủng cho các nhóm đối tượng này phù hợp với điều kiện kinh tế
- xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. Trên thực tế, nhiều nước cũng khơng miễn phí
cho việc tiêm chủng mở rộng.
Sau khi thảo luận, đa số ý kiến nhất trí với loại ý kiến thứ nhất, như vậy sẽ tạo cơ sở
pháp lý để quy trách nhiệm cho cá nhân, gia đình và cơ quan y tế trong việc thực hiện tiêm
chủng mở rộng cho trẻ em, phụ nữ mang thai.
3. Về xử lý khi rủi ro, biến chứng do tiêm chủng (khoản 5 Điều 30)
Dự thảo Luật quy định: cơ quan, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, bảo quản vắc
xin, sinh phẩm y tế và cán bộ y tế làm công tác tiêm chủng phải chịu trách nhiệm về hành vi
3
vi phạm của mình gây ra cho người bị thiệt hại theo quy định pháp luật (có nghĩa là phải bồi
thường cho người bị rủi ro, tai biến sau tiêm chủng). Đây là quy định hồn tồn mới, đó là
kết quả của việc tiếp thu ý kiến góp ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Uỷ ban
về các vấn đề xã hội, bởi vì dự thảo Luật trình xin ý kiến Uỷ ban thường vụ Quốc hội (tháng
8/2006) không quy định trách nhiệm bồi thường nếu xảy ra rủi ro, tai biến sau khi tiêm
chủng. Tuy vậy, vẫn còn 2 loại ý kiến về vấn đề này như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất: Nhất trí với quy định như dự thảo, nhưng chỉ nên giới hạn
chịu trách nhiệm đối với các trường hợp tiêm chủng bắt buộc. Còn đối với trường hợp tiêm
chủng tự nguyện là sự thỏa thuận giữa các bên do đó khơng nên áp dụng quy định này.
- Loại ý kiến thứ hai: Nhất trí như quy định như dự thảo.
Sau khi thảo luận, Uỷ ban đồng ý với loại ý kiến thứ nhất vì việc quy định trách
nhiệm của các bên nếu để xảy ra rủi ro, tai biến sau khi tiêm chủng đã thể hiện sự minh
bạch, tôn trọng quyền con người. Qua đó, sẽ địi hỏi cơ quan và cá nhân thực hiện tiêm
chủng mờ rộng, cũng như bảo quản vắc xin phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trong cơng
việc của mình. Để xác định ngun nhân gây rủi ro làm cơ sở quy trách nhiệm cho đúng đối
tượng, cần bổ sung quy định về thủ tục xác minh, kết luận nguyên nhân rủi ro vào nội dung
dự thảo Luật. Đồng thời cũng nên quy định, trong trường hợp nếu khơng xác định được
ngun nhân thì Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ cho nạn nhân.
Đối với trường hợp tiêm chủng tự nguyện, đó là Sự thỏa thuận giữa các bên theo hợp
đồng dân sự, mỗi bên đều có trách nhiệm nhất định, người cung cấp vác xin, cán bộ y tế thực
hiện tiêm chủng tự nguyện chỉ phải chịu trách nhiệm ở một mức độ giới hạn hẹp hơn so với
tiêm chủng bắt buộc. Vì vậy khơng nên áp dụng quy định này đối với trường hợp tiêm chủng
tự nguyện, nếu cần thiết nên thiết kế một điều riêng để quy định về vấn đề này.
4. Về kiểm dịch y tế biên giới (Chương III)
Uỷ ban chúng tôi nhất trí với các quy định như dự thảo Luật, tuy nhiên đề nghị ban
soạn thảo nghiên cứu bổ sung một số vấn đề như sau:
- Nên bổ sung các quy định để bảo đảm thực hiện được kiểm dịch trong trường hợp ở
một số địa phương mở thông quan trong nội địa đối với một số hàng nhập khẩu, hoặc hàng
hóa qua đường tiểu ngạch.
- Nên có quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, chính quyền cũng như
việc xử lý vi phạm nếu không khai báo, hoặc khai báo khơng đúng tình trạng bệnh dịch mà
gây hậu quả với xã hội.
5. Về quy định công bố dịch, ban bố tình trạng khấn cấp về dịch bệnh (Mục 1,
Chương IV)
Dự thảo Luật đã quy định chung cả về cơng bố dịch và ban bố tình trạng khẩn cấp tại
các điều của Mục 1, Chương IV.
Uỷ ban về CVĐXH cho rằng nên tách thành 2 loại: Công bố dịch; Ban bố tình trạng
khẩn cấp về dịch bệnh và thể hiện thành các mục, điều riêng thuộc Chương IV, bởi vì việc
ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch có thể hiểu được đó là tình trạng khẩn cấp (theo quy định
4
của pháp luật hiện hành về tình trạng khẩn cấp), cịn cơng bố dịch ở trong tình trạng pháp lý
khác.
Việc quy định các biện pháp phải làm sau khi công bố dịch, ban bố tình trạng khẩn
cấp về dịch như dự thảo là chưa đủ. Uỷ ban chúng tôi đề nghị nên quy định cụ thể về quyền
và nghĩa vụ của công dân, cơ quan y tế, cộng đồng dân cư phải làm gì, được làm gì, khơng
được làm gì sau khi cơ quan thẩm quyền công bố dịch, công bố hết dịch hay bãi bỏ tình
trạng khẩn cấp về dịch. Nội dung dự thảo Luật mới có các quy định về tổ chức cấp cứu,
khám bệnh, chữa bệnh.
Ví dụ với dịch bệnh đặc biệt nguy hiểm thuộc nhóm A, khi ban bố tình trạng khẩn cấp
có nghĩa là dịch bệnh đó đã lây lan trên quy mơ rộng, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe nhân dân và thậm chí liên quan đến an ninh quốc gia. Do đó, luật cần bổ sung quy
định cho phép áp dụng các biện pháp đặc biệt, kể cả hạn chế một số quyền của công dân như
bắt buộc chữa bệnh, hủy tài sản, tiêu hủy vật nuôi, buộc chuyển chỗ ở...
6. Về các biện pháp chống dịch (Mục 2 chương IV)
Các biện pháp chống dịch trong vùng có dịch đã được quy định tại mục 2, Chương IV
của dự thảo Luật, sau khi thảo luận, ủy ban chúng tôi cho rằng khi dịch xảy ra thì việc chống
dịch tại vùng có dịch là khâu quyết định, nhưng cũng cần bổ sung thêm một số điều quy định
về phòng, chống dịch trong vùng bị dịch uy hiếp và phòng, chống dịch trong vùng đệm
(vùng có nguy cơ dịch). Chỉ với những quy định đồng bộ như vậy chúng ta mới có thể dập ổ
dịch nhanh nhất và ngăn chặn dịch bùng phát, lan rộng.
Uỷ ban chúng tôi cũng đề nghị ban soạn thảo tính đến biện pháp chống dịch nhóm A
khác với biện pháp chống dịch nhóm B, C và bổ sung các quy định để tạo cơ sở pháp lý cho
chính quyền, cơ quan chun mơn thực hiện chống dịch có hiệu quả, ví dụ:
- Bắt buộc điều trị, cách ly với bên ngoài;
- Bắt buộc tiêu hủy vật trung gian truyền bệnh như vừa qua chúng ta đã phải tiêu hủy
vịt, gà, bò;
- Quy định việc Nhà nước tạo điều kiện và hỗ trợ thiệt hại cho nhân dân vì phải tiêu
hủy gia cầm.
7. Một số vấn đề khác
a. Về giải thích từ ngữ (Điều 2):
+ Bổ sung giải thích khái niệm như: Tiêm chủng mở rộng, vùng bị dịch uy hiếp và
vùng đệm, bệnh phẩm, hoạt động y tế dự phịng.
+ Nên bỏ giải thích khái niệm “cửa khẩu” vì cụm từ này q thơng dụng.
+ Nên sử dụng tiếng Việt thay cho từ rickettsia,
+ Thống nhất sử dụng cụm từ người bệnh thay cho cụm từ bệnh nhân trong toàn bộ
nội dung Dự án Luật.
b. Về nguyên tắc chòng, chống bênh truyền nhiễm (Điều 4)
- Nên đưa quan điểm phòng bệnh hơn chữa bệnh thành khoản 1.
5
- Nên bổ sung vào khoản 2 về nội dung bảo đảm sự kết hợp giữa biện pháp hành
chính với biện pháp phối hợp liên ngành.
- Cần thêm cụm từ “thường xuyên” vào khoản 4 và chuyển thành khoản 2.
c. Về những hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8):
- Quy định tại khoản 2 Điều 8 về việc cấm người mắc bệnh truyền nhiễm, nghi ngờ
mắc bệnh truyền nhiễm và người mang mầm bệnh truyền nhiễm làm các công việc dễ lây lan
tác nhân gây bệnh truyền nhiễm, đối tượng bị cấm như vậy sẽ rất rộng, vì có hàng trăm bệnh
thuộc 3 nhóm bệnh truyền nhiễm và đối tượng là người mang mầm bệnh, nghi ngờ mắc
bệnh, mắc bệnh truyền nhiễm sẽ rất nhiều. Vì vậy chỉ nên cấm đối một số bệnh và một số
ngành nghề.
- Nên bổ sung quy định “Cấm khai báo dịch khống hoặc khai báo dịch khơng đúng
sự thật; cấm cản trở phịng, chống dịch”.
- Bỏ khoản 6, Điều 8, quy định cấm các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định
của pháp luật, vì quy định như vậy sẽ tạo ra tùy tiện.
d. Cần nhấn mạnh quy định Nhà nước có chính sách để khuyến khích các tổ chức, cá
nhân tham gia vệ sinh phịng bệnh (nhất là vệ sinh mơi trường xóm, làng, khối phố, vệ sinh
an tồn thực phẩm...) và khuyến khích thành lập khoa truyền nhiễm trong các bệnh viện tư
nhân.
đ. Nên bổ sung thẩm quyền công bố dịch thuộc nhóm C để đảm bảo việc cơng bố và
dập dịch nhóm C khi chúng xuất hiện, ví dụ: lao phổi, đau mắt hột...
e. Quy định đưa tin về tình hình dịch tại Điều 41 cần xem xét thêm trường hợp mặc
dù đang có dịch bệnh truyền nhiễm, nhưng cơ quan chức năng cố tình che dấu, thì cơ quan
thơng tin đại chúng có quyền đưa tin về tình hình dịch. Đồng thời, cũng nên có quy định
thơng tin về sự thành cơng trong phịng, chống dịch cũng như cảnh báo khả năng dịch có thể
quay lại.
g. Nên có auv đinh về nhiệm vu cảnh báo nhanh loại dịch có thể xảy ra trong phần
giám sát bệnh truyền nhiễm.
h. Một số ý kiến băn khoăn về việc thành lập quỹ hỗ trợ phòng, chống dịch (Điều 57),
dự thảo Luật đã quy định dự trữ quốc gia về phòng, chống dịch, do đó cần cân nhắc thêm về
quy định thành lập và quản lý quỹ hỗ trợ phòng, chống dịch. Tuy nhiên muốn xây dựng quỹ
để tạo điều kiện tiếp nhận các nguồn hỗ trợ thì nên bổ sung quy định trong dự thảo Luật là
khơng bắt buộc nhân dân đóng góp vào quỹ này.
g. Nên có quy định về phí y tế dự phòng liên quan đến phòng, chống bệnh truyền
nhiễm và cần cân nhắc để thể hiện quan điểm miễn phí trong phịng, chống bệnh lao, phong,
sốt rét mà hiện nay chúng ta đang làm.
k. Cần bổ sung thêm quy định về nghiên cứu khoa học trong phòng, chống bệnh
truyền nhiễm, đây là vấn đề quan trọng, nhất là với những dịch bệnh truyền nhiễm mới xuất
hiện.
Ngoài ra, một số ý kiến cho rằng trong dự thảo Luật còn nhiều quy định chung cần
được cụ thể hoá, nhiều nội dung giao Bộ Y tế hoặc Chính phủ hướng dẫn thực hiện.
6
III. VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN THEO TỜ TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ
1. Về quy định ngân sách để phịng, chống bệnh truyền nhiễm (Điều 55)
Có 2 loại ý kiến khác nhau về vấn đề này như sau:
- Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị quy định cụ thể tỷ lệ phần trăm tối thiểu ngân sách để
phục vụ hoạt động y tế dự phòng trong tổng ngân sách y tế. Bởi vì thực tế hiện nay ở các
tỉnh, tỷ lệ ngân sách dành cho hoạt động phòng bệnh rất khác nhau, bình quân chung là từ
10-15% trong tổng ngân sách y tế. Đặc biệt có những tỉnh chỉ dành 3-4% ngân sách y tế để
chi cho hoạt động phịng bệnh, trong khi đó để đảm bảo cho các hoạt động trong lĩnh vực y
tế dự phòng hoạt động bình thường và hiệu quả Tổ chức Y tế thế giới khuyến nghị phải ở
mức là 25-30%. Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến yếu kém của hoạt
động y tế dự phòng. Tại nhiều địa phương, do vấn đề phịng bệnh khơng mang tính cấp bách,
“chết người” nên thường bị coi nhẹ, chủ quan, không có đủ thiết bị cần thiết và cán bộ để
thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình bệnh tật do đó đến khi bùng phát bệnh mới lo tập
trung nguồn lực nên rất bị động, lúng túng, tốn kém và khơng hiệu quả.
- Loại ý kiến thứ hai: nhất trí với quy định tại khoản 2, Điều 55 của dự thảo Luật là
hàng năm Nhà nước bảo đảm đủ ngân sách cho các hoạt động phòng, chống bệnh truyền
nhiễm. Quy định như vậy phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước, bảo đảm cho Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện thực tế tại địa phương để quyết định tỷ lệ phần trăm
kinh phí phù hợp nhất dành cho cơng tác y tế dự phịng, trong đó có phịng, chống bệnh
truyền nhiễm.
Sau khi thảo luận, Uỷ ban cho rằng việc không quan tâm đến đầu tư cho y tế dự
phòng là 1 trong 5 lý do cần thiết để ban hành Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Tuy
nhiên khi thể hiện một quy định pháp lý để giải quyết nguyên nhân này thì lại quy định một
cách rất chung chung như từ trước tới nay vẫn làm. Do đó, Uỷ ban chúng tơi đồng ý với loại
ý kiến thứ nhất đó là quy định tỷ lệ chi cho y tế dự phịng ít nhất là 20% trong tổng chi
ngân sách y tế. Quy định như vậy sẽ tạo cơ sở pháp lý để Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quan
tâm thực sự đến y tế dự phòng khi phân bổ ngân sách và tránh sự tùy tiện xin cho. Mặt khác,
dù có quy định tỷ lệ phần trăm tối thiểu ngân sách y tế dự phòng trong tổng số ngân sách y tế
cũng không trái với quy định của Luật ngân sách nhà nước, không làm mất đi tính chủ động
của các địa phương.
Tuy nhiên trong Uỷ ban, cũng có một số ít ý kiến băn khoăn khi nội dung luật quy
đinh cụ thể tỷ lệ phần trăm, e rằng sẽ làm mất đi sự vận dụng linh hoạt của các địa phương.
2. Về phân loại bệnh truyền nhiễm (Điều 3)
Đa số các ý kiến đều thống nhất chia làm 3 nhóm bệnh truyền nhiễm, tuy nhiên, việc
quy định chi tiết tên của từng bệnh truyền nhiễm vào nội dung dự thảo Luật vẫn cịn có ba
loại ý kiến khác nhau:
- Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị chỉ quy định tên 3 nhóm bệnh truyền nhiễm A, B, C,
không cần kể rõ tên từng bệnh trong dự thảo Luật, tuy nhiên cần bổ sung quy định về
ngun tắc, các tiêu chí phân loại theo 3 nhóm A, B, C và giao Chính phủ ban hành danh
mục cụ thể. Quy định như vậy là vì một số loại bệnh có thể thay đổi và chuyển đổi vị trí giữa
các nhóm, e rằng quy định cụ thể trong Luật sau này sẽ khó điều chỉnh khi cần thiết.
7
- Loại ý kiến thứ hai: đề nghị trong nội dung Luật, phải quy định cụ thể tên của các
bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm thuộc nhóm A, vì nguy cơ lan rộng cũng như gây hậu
quả rất nghiêm trọng trong thời gian ngắn nếu xảy ra dịch; vì thực tế, ngay cả một số cán bộ
y tế cũng khơng biết nhóm A gồm những bệnh nào huống chi là người dân. Hơn nữa, các
bệnh thuộc nhóm này liên quan đến việc ban bố tình trạng khẩn cấp, an ninh quốc gia và có
thể phải thực hiện hạn chế một số quyền của công dân, cũng như giao quyền đặc biệt cho
một số cá nhân, tổ chức. Trong trường hợp cần bổ sung danh mục bệnh mới vào nhóm A, có
thể giao quyền cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Đối với các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm
B, C nên giao Chính phủ quy định cụ thể.
- Loại ý kiến thứ ba: đề nghị ghi cụ thể tên tất cả các bệnh truyền nhiễm thuộc các
nhóm A, B, C trong dự thảo Luật, như vậy sẽ tránh tình trạng luật khung.
Sau khi thảo luận, nhiều ý kiến trong Uỷ ban chúng tơi nhất trí với loại ý kiến thứ
nhất với những lý giải như trên.
Tuy nhiên có một số ý kiến nhất trí với loại ý kiến thứ 2, vì vậy Uỷ ban chúng tơi đề
nghị Ban soạn thảo nên giải trình thêm về vấn đề này.
Trên đây là Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban về các vấn đề xã hội về dự án Luật phòng,
chống bệnh truyền nhiễm, kính trình Quốc hội cho ý kiến
T/M UỶ BAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Nơi nhận:
Chủ nhiệm
- Như trên;
(đã ký)
Nguyễn Thị Hoài Thu
- Ban soạn thảo Luật;
- Thành viên Uỷ ban về CVĐXH;
- Lưu VT, Vụ CVĐXH
8