-1-
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sử dụng chất gây hại, đặc biệt là nghiện rượu gây nên những hậu quả
nghiêm trọng không những cho cá nhân mà cịn cho cả gia đình và xã hội.
Nghiện rượu mạn tính thường gây nên những hậu quả nặng nề về cơ thể và
tâm thần người nghiện.
Loạn thần do rượu là một trong các hậu quả nặng nề về tâm thần ở các
bệnh nhân nghiện rượu mạn tính. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới
năm 1990, loạn thần do rượu có ở 10% những người nghiện rượu mạn tính.
Loạn thần do rượu bao gồm sảng rượu, ảo giác do rượu, hoang tưởng do
rượu và bệnh não do rượu.
Trong cơ cấu giường bệnh ở các khu điều trị bệnh nhân tâm thần nội
trú, giường bệnh dành cho bệnh nhân loạn thần do rượu chiếm tỷ lệ khá cao.
Theo báo cáo của Viện Sức khỏe Tâm thần (1994), số lượng bệnh nhân loạn
thần do rượu vào điều trị nội trú ngày càng gia tăng, từ 0,31% năm 1990 đến
6,91% năm 1994 [15].
Ảo giác do rượu là một trong những loạn thần do rượu thường gặp sau
sảng rượu. Ảo giác do rượu dao động từ 5,6% (Katraep - 1973) cho tới
28,8% (Khokhnop - 1974) trong các trường hợp loạn thần do rượu.
Ở Việt Nam, một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người lạm dụng rượu từ
6,3% đến 16,78% và người nghiện rượu từ 1,17% đến 3,61% dân số [29];
Loại rượu thường dùng chủ yếu là rượu sản xuất thủ công; 30 đến 90%
số người được hỏi cho rằng uống rượu là một tập quán bình thường và
đơi khi có tác dụng bồi bổ cơ thể. Hiện nay đã có một số nghiên cứu về
-2-
loạn thần do rượu khác về các chủ đề như suy giảm nhận thức do rượu,
hoang tưởng do rượu…Tuy nhiên cho tới nay, chúng ta chưa có nghiên
cứu sâu nào về đặc điểm ảo giác trong loạn thần do rượu. Do vậy chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của ảo
giác trong loạn thần do rượu” với mục tiêu: “Mô tả đặc điểm lâm sàng
của ảo giác trong loạn thần do rượu”
-3-
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1. Ảo giác
1.1.1.1. Khái niệm ảo giác
Ảo giác (AG) là cảm giác, tri giác như có thật về một sự thật, một hiện
tượng khơng hề có trong thực tại khách quan. Ảo giác xuất hiện và mất đi
không phụ thuộc vào ý muốn của bệnh nhân. AG có thể kèm theo hay khơng
kèm theo rối loạn ý thức (mê sảng, mê mộng) hoặc rối loạn tư duy. Bệnh
nhân mất khả năng phê phán về tri giác sai lầm của mình. AG có thể xuất
hiện đồng thời với các rối loạn khác hay xuất hiện riêng lẻ [30].
Đối với người bệnh, AG là một tri giác như có thật, khơng phải là một
điều gì tưởng tượng. Trong trạng thái AG, người bệnh nghe thấy, nhìn thấy,
ngửi thấy ..như thật. Ở người có AG, cảm giác chi phối càng trở nên như có
thật, y như những cảm giác bắt nguồn từ thế giới khách quan. AG là một tri
giác xuất hiện, mà khơng có một kích thích nào của ngoại cảnh phù hợp với
nó [18].
Người thầy thuốc khi khám một bệnh nhân có AG phải dựa vào hành
vi và hình dạng bên ngồi của họ để xác định. Khi có ảo thanh, người bệnh
lắng nghe, quay đầu về phía tiếng nói, đột ngột ngừng nói, bịt tai, trùm chăn,
lẩn trốn. .. Nếu có ảo thị, cái nhìn của người bệnh trở nên lúc thì chăm chú
say mê, lúc thì lo lắng sợ hãi, tìm đường thốt. Trong trường hợp có ảo khứu,
người bệnh bịt mũi, đi tìm các vật có mùi tương tự mùi mà bệnh nhân ngửi.
Nếu là ảo giác xúc giác, người bệnh sẽ làm các động tác như gỡ côn trùng
-4-
tưởng tượng ra khỏi người mình, xoa tay vào vùng mà bệnh nhân có ảo giác
xúc giác.. [30],
Ảo giác khơng xuất hiện đơn độc, mà thường đi cùng với những triệu
chứng tâm thần khác, thành những hội chứng như: hội chứng ảo giác –
Paranoid...
1.1.1.2. Phân loại ảo giác
Có rất nhiều cách phân loại AG khác nhau, nhìn chung có các cách sau:
Phân loại theo hình tượng và kết cấu của AG:
Ảo giác thơ sơ: Là AG chưa hình thành, khơng có hình thái và kết cấu
rõ rệt. Ví dụ thấy một ánh hào quang, một đám khói, nghe tiếng rì rào, tiếng
động khác thường;
Ảo giác phức tạp: Là ảo giác có hình tượng rõ ràng, sinh động, có vị
trí nhất định trong không gian như thấy người đem dây đến trói mình, nghe
tiếng nói ra lệnh.
Phân loại AG theo các giác quan: Theo cách phân loại này thì ứng
với mỗi giác quan có một loại AG: ảo thanh (AG thính giác), ảo thị (AG thị
giác), ảo khứu (AG khứu giác), ảo vị (AG vị giác) và ảo giác xúc giác. Ngồi
ra cịn có cả ảo giác nội tạng và AG sơ đồ cơ thể.
Phân loại theo nhận thức và thái độ của bệnh nhân đối với AG:
Ảo giác thật: là AG có màu sắc, hình thái, đường nét, âm thanh rõ ràng
và có vị trí xác định trong khơng gian. Bệnh nhân tiếp nhận AG như những
sự vật hiện tượng trong thực tại, khơng nghi ngờ về tính có thực của ảo giác,
không phân biệt AG với sự thật, không nghĩ rằng có ai làm ra AG bắt mình
phải tiếp thu. AG thật có thể là ảo thanh, ảo thị, ảo khứu, ảo vị, ảo giác xúc
giác và ảo giác nội tạng.
-5-
Ảo giác giả: Ảo giác giả thường ít gặp hơn trong loạn thần do rượu so
với ảo giác thật. AG có thể có đủ các loại như AG thật nhưng với tính chất
khác hẳn với AG thật là : Cảm giác bị chi phối (do người khác làm ra); Bệnh
nhân cảm thấy trong tư duy và trí tưởng tượng của mình nhiều hơn là thực tại
khách quan; Bệnh nhân cảm thấy như những biểu tượng hay những hình ảnh
mơ hồ khó mơ tả cụ thể, rõ rệt, tiếp nhận qua giác quan. Ảo giác giả thường
gặp là ảo thanh, ảo thị, ảo giác vận động [6], [30], [32],[9] .
1.1.1.3. Cơ chế bệnh sinh của ảo giác
Chưa có giả thuyết nào làm sáng tỏ cơ chế bệnh sinh của ảo giác.
Dưới đây là một số giả thuyết về cơ chế bệnh sinh của AG
Giả thuyết về cơ chế sinh lý học thần kinh cao cấp: Trên quan điểm
sinh lý học, các AG phát sinh do sự hình thành các ổ hưng phấn ì bệnh lý ở
vỏ não. Sự hưng phấn các tế bào ở vỏ não có thể đạt tới cường độ tương ứng
vói sự hưng phấn do các tác nhân kích thích thực sự. Sự tâp trung những ổ
hưng phấn ì trong các tế bào trực tiếp thu nhận những kích thích từ các tác
nhân bên ngồi hoặc bên trong (hệ thống tín hiệu thứ nhất) gây ra những AG
về thị giác, xúc giác, nội tạng, cũng như những ảo thanh thơ sơ. Sự phát sinh
các AG lời nói được cắt nghĩa bằng sự tập trung những ổ tương tự trong hệ
thống tín hiệu thứ hai [18].
Giả thuyết về rối loạn chuyển hoá não: Rối loạn hoạt động thần
kinh cao cấp phát sinh AG, cũng như các triệu chứng tâm thần khác còn
được quan niệm là do rối loạn chuyển hoá não gây ra. Điều này được xác
minh qua sự phát sinh AG do tác dụng của một số chất đặc biệt, ví dụ
adrenocrom và bufotenin. Có giả thiết cho rằng các chất này hình thành ở
não trong điều kiện sinh lý; chất thứ nhất do phân huỷ adrenalin, chất thứ hai
do phân huỷ serotonin. Nhiều tác giả thấy rằng, ở một số người bệnh, sự ứ
-6-
đọng nitơ cũng xảy ra cùng lúc với các thời kỳ thuyên giảm, còn sự tăng tiết
nitơ cùng lúc với thời kỳ tăng các rối loạn tâm thần. Ở một số bệnh nhân
khác lại có những mối tương quan ngược lại: tương ứng thời kỳ thuyên giảm
là hội chứng tăng tiết nitơ và với thời kỳ rối loạn tâm thần là hội chứng ứ
đọng nitơ. Tuy nhiên, những sản phẩm của sự chuyển hố nitơ ngưng đọng
trong cơ thể cịn chưa biết rõ [57] ,[60].
Giả thuyết về stress: Theo Kaplan và Sadock, ảo giác cũng có thể
xuất hiện ở những thời điểm stress đặc biệt đối với cá nhân người bệnh [44].
Giả thuyết về sự nhiễm độc: Cancro và Grebb thấy rằng, cảm giác
kiến bị, cơn trùng trườn trên da hoặc dưới da gặp nhiều trong nhiễm độc
cocain, trạng thái ảo giác do rượu. Cảm giác ròi bò trong xương là đặc trưng
phổ biến ở bệnh nhân cai nghiện các chất ma tuý dạng thuốc phiện[34].
Các chất gây ảo giác: Hai chất gây AG tự nhiên được nhiều người
biết đến nhất là psilocybin và mescalin. Ngày nay các nhà khoa học đã tổng
hợp được hàng trăm loại chất gây AG. Chất được tổng hợp đầu tiên là
lysergic acid diethylamin 25 (LSD). LSD, psilocybin và mescalin làm người
sử dụng tri giác về môi trường xung quanh, đặc biệt bằng các khuếch đại các
hình dạng và màu sắc. Các chất trên có cấu trúc rất gần với một số chất dẫn
truyền thần kinh ở não. Mescalin có cấu trúc rất gần với noadrenalin được
lấy từ nụ củ cây trứng sống . LSD có những cấu trúc giống serotonin, ngăn
chặn serotonin tác động lên các vị trí nhận cảm bằng cách chiếm chỗ của nó.
Các sinap bị mất ức chế tự nhiên, sẽ cho qua mọi thông điệp và gây ra trạng
thái quá tăng hưng phấn, quá tải thông tin. Các chất acrylcyclohexylamine
cũng được xếp cùng loại với các chất gây AG gây nghiện. Chất
acrylcyclohexylamine đầu tiên được tổng hợp là phencyclidine. Các chất gây
AG và các chất acrylcyclohexylamine gây ra các triệu chứng giống loạn thần
như AG, mất tiếp xúc với thực tại và những biến đổi khác trong tư duy. Cảm
-7-
giác tri giác trở nên sâu sắc một cách bất thường: âm thanh trở nên du dương
hơn, màu sắc rực rỡ óng ánh hơn, căn phịng hình như bé lại hoặc ngược lại
to ra quá mức. Tuy nhiên, các tri giác sai lầm đó người sử dụng cịn kiểm
sốt được. Các AG chỉ xuất hiện khi dùng liều quá cao. Ví dụ người sử dụng
có thể cảm thấy mình biến thành chim và xử sự như chim. Khái niệm về thời
gian cũng thay đổi rõ rệt, nhanh lên hoặc chậm lại theo kiểu “du hành” của
người dùng ma tuý [5].Đạo đức y học không cho phép tiến hành các nghiên
cứu thực nghiệm trên người nhưng trên những người lạm dụng và sử dụng
các chất nói trên, các nhà khoa học đã phát hiện ra khá đầy đủ các tính chất
gây AG của chúng [46].
Giả thuyết về sự đối vận serotonin – dopamin: Các nhà khoa học đã
phát hiện được rất nhiều chất dẫn truyền thần kinh trong não: acetylcholine,
catecholamine, serotonin, GABA, glycene, các peptide hướng thần kinh.
Năm 1966 Sossium đã đưa ra giả thiết về sự phong tỏa các thụ thể
dopamine để giải thích cơ chế tác dụng của các thuốc an thần kinh mạnh, sự
hoạt động của hệ thống dopamine đi từ vùng trong não đến hồi viền sẽ dẫn
đến các triệu chứng dương tính như hoang tưởng, ảo giác, tăng vận động.
Hiệu quả lâm sàng của các thuốc an thần kinh có liên quan chặt chẽ với ái
lực của thụ thể dopamine D2 với thuốc. Thuốc an thần kinh ức chế thụ thể D2
càng mạnh thì hiệu quả lâm sàng càng lớn. Thuốc an thần kinh cổ điển như
Haloperidol sẽ phong toả sự gắn kết dopamine với D 2 của tế bào sau synap,
nên có tác dụng điều trị hoang tưởng và ảo giác [41]. Vấn đề về serotonine
đã được đề cập đến từ năm 1954, khi người ta thấy rằng những người sử
dụng LSD là chất đồng vận với serotonine (5-HT), thấy xuất hiện ảo giác.
Những nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ chức năng giữa hai chất trung
gian thần kinh serotonine và dopamine trong quá trình phát sinh AG [35],
[42], [10].
-8-
1.1.2. Các rối loạn tâm thần do rượu
1.1.2.1. Hấp thu và chuyển hoá rượu
Hấp thu: Sau khi uống, rượu được hấp thu nhanh qua đường tiêu hoá,
chủ yếu tại dạ dày và ruột, đạt được hàm lượng trong máu cao nhất 30-90
phút sau lần uống cuối cùng. Uống khi no sẽ làm chậm q trình tiêu hố ở
dạ dày và làm chậm sự hấp thu. Thức ăn giàu chất đạm và chất béo làm giảm
sự hấp thu rượu, nước uống làm tăng sự hấp thu rượu [17].
Chuyển hoá: Sau khi vào máu rượu được phân bố khắp cơ thể và qua
hàng rào máu não rất nhanh. Khoảng 80% chuyển hoá ở gan, 10 % ở dạ dày,
5% bài tiết nguyên dạng qua phổi, mồ hôi và nước tiểu. Tại gan rượu chuyển
hóa theo hai bước: dehydrozenaza rượu xúc tác quá trình oxy hố thành
acetaldehyd; aldehyd dehydrozenaza sẽ biến đổi
acetaldehyd thành acid
acetic, chất này bị phá huỷ thành cacbondioyd và nước. Một đơn vị uống
chuẩn chứa 10 gram cồn tuyệt đối làm tăng nồng độ rượu trong máu khoảng
15-20mg/100 ml (0,015 - 0,02g/100ml). Đây là ước lượng rượu chuyển hoá
trong một giờ ở một người có trọng lượng trung bình [17], [12].
Vandijk đã sơ đồ hoá các giai đoạn dẫn tới nghiện rượu. Ở mỗi giai
đoạn, việc sử dụng rượu có thể là gây hại, hai giai đoạn cuối được coi là
bệnh lý. Chỉ có một số nhỏ ở giai đoạn 3 tiến tới giai đoạn 4 và 5, 2 % đến
15% ở giai đoạn 5 trở lại giai đoạn 3[39]. (Xem ở dưới)
Tiếp xúc
1
Giai đoạn kinh nghiệm
Giai đoạn đồng hóa
2
3
Giai đoạn phụ thuộc
4
Giai đoạn thái quá
5
-9-
1.1.2.2. Say rượu thông thường và say rượu bệnh lý
Say rượu thơng thường: Say rượu thơng thường, cịn gọi là say rượu
cấp diễn là hậu quả của nhiễm độc nhất thời do rượu, thường xảy ra ở những
người lạm dụng rượu uống quá ngưỡng dung nạp. Say rượu dẫn đến những
thay đổi hành vi, cảm xúc trong trạng thái ý thức mù mờ. Bệnh nhân còn khả
năng nhận biết xung quanh trừ trường hợp nhiễm độc nặng. Nhiều nghiên
cứu chỉ ra rằng, rượu gây suy giảm cả hai quá trình hưng phấn và ức chế.
Song, tác động vào quá trình ức chế mạnh hơn nhất là ở vỏ não, làm mất cân
bằng giữa hai q trình và thốt ức chế trung tâm dưới vỏ, cuối cùng làm cho
người say rượu biểu hiện lâm sàng bằng tình trạng hưng phấn với những
hành vi tác phong bất thường, dễ xâm phạm thô bạo… Tùy theo lượng rượu
uống và khả năng dung nạp của từng cá thể, say rượu có thể được thể hiện
dưới ba mức độ:
Say rượu mức độ nhẹ: Say rượu nhẹ có đặc tính làm chậm q trình
liên tưởng, tư duy nông cạn, giảm tốc độ và chất lượng lao động trí óc.
Người say rượu dễ sai sót trong vận động, khó thao tác những động tác địi
hỏi chính xác, khéo léo. Tình trạng rối loạn vận động tùy thuộc lượng rượu
uống. Trên nền tảng khí sắc tăng nhẹ, người say rượu nhẹ có cảm giác vơ tư,
khối cảm thơ lỗ, hài hước khơng phù hợp với hồn cảnh. Người bệnh
thường tự phụ, khốc lác, khoe khoang về mình, dễ dẫn đến gây gổ, tấn
cơng. Tăng tính chấp nhặt, hay gây sự kiếm chuyện càng làm tăng khả năng
xung đột với người xung quanh. Say rượu nhẹ có thể có giải tỏa bản năng
tình dục, dễ dẫn đến hành vi thô bạo đối với người khác giới.
Say rượu mức độ trung bình: Liên tưởng có đặc tính hỗn độn, cảm
xúc không kiềm chế, dễ tức giận, nổi khùng bởi những kích thích khơng
- 10 -
đáng kể. Trong trạng thái này, người bệnh thường trở nên mất tế nhị, dẫn đến
thơ bạo, khó thực hiện các động tác đòi hỏi khéo léo, đi đứng xiêu vẹo.
Say rượu mức độ nặng: Người bệnh thường có biểu hiện nơn nhiều,
vã mồ hơi, rối loạn thực vật nội tạng, tăng tiết nước bọt, tiểu tiện ra quần.
Nếu lượng rượu uống nhiều, người say có thể hơn mê, mạch nhanh, thở
nơng, hạ huyết áp, có thể tử vong nếu không được cấp cứu. Về tiến triển, các
trường hợp ngộ độc rượu cấp nhẹ, sau giai đoạn ngủ sâu, người bệnh tự hồi
phục nhưng có quên từng mảng. Trong những trường hợp ngộ độc rượu cấp
nặng, phải thực hiện cấp cứu tại các trung tâm cấp cứu gần nhất, và phải có
chế độ theo dõi, chăm sóc tồn diện, thích hợp [50].
Say rượu bệnh lý: Say rượu bệnh lý là một trạng thái ngộ độc rượu
cấp rất đặc biệt, hiếm gặp, có thể xảy ra ở những người uống lượng rượu
khơng lớn. Say rượu bệnh lý có nhiều tên gọi khác: “say rượu loạn thần”;
“say rượu biến chứng” hay “say rượu dạng động kinh”. Theo Korsacof, say
rượu bệnh lý là tình trạng loạn thần cấp, diễn ra trong một thời gian ngắn với
những triệu chứng rối loạn ý thức sâu sắc kiểu mù mờ, kèm theo trạng thái
căng thẳng cảm xúc do hoang tưởng và ảo giác chi phối dẫn đến những tác
phong sai phạm, nguy hiểm. Về lâm sàng, say rượu bệnh lý dễ xảy ra trong
các điều kiện như mệt nhọc, thiếu ngủ, đói ăn, suy kiệt, nóng quá mức, khát
quá mức, có bệnh nhiễm trùng, lo âu, sợ sệt và căng thẳng. Sau một chuyến
đi dài, trong điều kiện tầu xe không thuận lợi, đường xấu, có sự lắc lư. Say
rượu bệnh lý phát sinh không phụ thuộc nhiều vào số lượng và loại rượu
uống, có khi chỉ một lượng nhỏ rượu vang, cũng có khi là lượng lớn rượu
mạnh. Say rượu bệnh lý thường khởi phát nhanh từ vài phút đến một giờ.
Người bệnh lâm ngay vào rối loạn ý thức trầm trọng, mất định hướng, khơng
duy trì được sự tiếp xúc với những người xung quanh, thường là rối loạn ý
thức kiểu hoàng hôn. Người say rượu bệnh lý thường phát sinh cảm giác bất
- 11 -
an, lo âu, hoảng sợ tới mức khủng khiếp; cảm xúc không thoải mái về quá
khứ, ấn tượng đã trải nghiệm, các hồi tưởng được chế biến một cách bệnh lý.
Chúng tạo nên một cảm giác bị đe dọa, nguy hiểm sắp xảy ra, đặc biệt từ
những người xung quanh. Điều đó dẫn đến những nhận định mang tính
hoang tưởng, kèm theo tri giác hoang tưởng và nhiều ảo tưởng, ảo giác rùng
rợn, khiếp sợ, và bệnh nhân thường có những hành vi tấn cơng nguy hiểm
đối với xung quanh. Phân biệt với say rượu thông thường, trong say rượu
bệnh lý, sự phối hợp vận động còn tốt, vẫn duy trì được thăng bằng, cịn khả
năng di chuyển nhanh gây ấn tượng như là người bệnh khơng cịn bị ảnh
hưởng của rượu. Trạng thái say rượu bệnh lý thường kéo dài khoảng một giờ,
đôi khi vài giờ và kết thúc bằng ngủ sâu. [19].
1.1.2.3. Nghiện rượu
Lạm dụng rượu lâu ngày thường đưa đến chứng nghiện rượu. Nghiện
rượu đã được nghiên cứu từ giữa thế kỷ thứ XIX, và cho tới nay vẫn là vấn
đề thời sự vì số người nghiện rượu ngày càng gia tăng. Nghiện rượu là một
bệnh lý nghiện chất, có các triệu chứng cơ bản đặc trưng cho nhóm bệnh này
là [8], [52], [48]:
Hội chứng nghiện: Chẩn đốn xác định nghiện rượu khi có từ ba trở
lên các đặc điểm sau:
1) Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng rượu.
2) Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử dụng rượu về mặt thời
gian bắt đầu, kết thúc hoặc mức sử dụng rượu.
3) Một trạng thái cai sinh lý (xem phần hội chứng cai) khi việc sử
dụng rượu bị ngừng lại hay bị giảm bớt.
4) Có hiện tượng tăng dung nạp rượu (Người nghiện rượu có thể dùng
hàng ngày những lượng rượu lớn đủ để làm say hoặc gây ngộ độc nguy hiểm
cho những người không nghiện rượu).
- 12 -
5) Dần dần sao nhãng các thú vui trước đây để đi tìm và sử dụng rượu,
dành thời gian ngày càng nhiều hơn để tìm kiếm hay sử dụng rượu.
6) Tiếp tục sử dụng rượu mặc dù đã có hậu quả có hại đối với gan và
nhiều cơ quan khác do uống rượu. Có các trạng thái khí sắc trầm tiếp theo
sau những thời kỳ sử dụng rượu nặng, hoặc suy giảm nhận thức do tác hại
của rượu.
Hội chứng cai: Hội chứng cai là biểu hiện chủ yếu của chứng nghiện
rượu, hội chứng này xuất hiện khi bệnh nhân giảm hoặc ngừng uống rượu.
Người bệnh có khí sắc trầm, bồn chồn, bứt rứt, khó chịu, đứng ngồi khơng
n; lo âu, sợ hãi một cách mơ hồ, các ý tưởng liên hệ thô sơ; Rối loạn giấc
ngủ như ngủ nơng, dễ giật mình, dễ thức giấc, hoặc ác mộng, có khi mất ngủ
hồn tồn; Run, rối loạn thần kinh thực vật như vã mồ hôi, tim đập nhanh,…
Trong hội chứng cai rượu nặng, người bệnh có thể có cơn co giật động kinh,
cũng như các ảo giác về thị giác, thính giác, đặc biệt về chiều và đêm. Đặc
trưng cho hội chứng cai rượu là những biểu hiện trên dịu đi hoặc biến mất
khi được uống rượu [54], [37].
Hội chứng cai rượu kéo dài từ vài giờ đến 3-4 tuần tùy mức độ nghiện
rượu nặng hay nhẹ:
Khả năng dung nạp rượu: Đồng thời với sự phát triển của hội chứng
cai rượu, ngưỡng dung nạp rượu của người bệnh cũng thay đổi. Ở giai đoạn
đầu, người nghiện uống lượng rượu ngày một tăng. Nhưng càng về sau,
lượng rượu ngày một giảm dần, có khi chỉ một lượng nhỏ rượu, người bệnh
đã say.
Rối loạn tâm thần: Thay đổi cảm xúc như rối loạn khí sắc, khối cảm
chiếm ưu thế, khoan khối dễ chịu, nói năng lun thun, khốc lác, hay
đùa cợt, sàm sỡ, hoặc cáu gắt, buồn rầu, sợ hãi, công kích dọa nạt, chửi bới,
- 13 -
tấn cơng người khác. Trạng thái khí sắc này có thể thay đổi trong ngày. Về
đêm, người nghiện thường thấy những mộng mị rời rạc hoặc những ảo giác
lẻ tẻ, thường là ảo thị như nhìn thấy rắn rết, sâu bọ, hổ báo … đang rượt đuổi
bệnh nhân, khiến bệnh nhân hốt hoảng, sợ hãi, la hét. Trí tuệ, trí nhớ, khả
năng sáng tạo, sáng kiến đều giảm, tư duy trở nên bảo thủ, người bệnh đi dần
vào sa sút tâm thần.
Biến đổi nhân cách do rượu:
Đối với gia đình: Người bệnh ngày càng mất đi những thích thú cũ, trở
nên ích kỷ, lãnh đạm với người thân, địi hỏi có tính chất vị kỷ. Khơng tơn
trọng tình cảm đạo đức, khơng quan tâm đến gia đình, tiêu xài tất cả tiền
lương để mua rượu, suốt ngày chăm lo đến việc làm thế nào để có rượu
uống. Người bệnh khơng cảm thấy xấu hổ vì đã phải ăn bám vợ con. Hơn
nữa, người bệnh cũng chẳng ân hận khi lấy cắp tiền của người thân để uống
rượu, thậm chí cịn bán cả những vật dụng cần thiết của gia đình. Cuộc sống
tạm bợ, bê tha, hay nói dối, cuộc sống buông thả, nợ nần chồng chất, hứa
hão, bịa ra đủ thứ lý do để vòi tiền. Những cá tính tinh tế bị mất đi, do giảm
khả năng nắm bắt thực tại và ứng xử các tình huống. Khả năng phê phán
giảm rõ rệt. Bệnh nhân ngày càng thiếu lịch sự và hành động q khích, thơ
bạo. Bệnh nhân thường phủ nhận là mình đã dùng rượu quá mức. Người
bệnh thường hứa bỏ rượu, cam đoan rằng điều đó đối với họ chẳng khó khăn
gì, song thực tế bệnh nhân khơng đủ ý chí để từ chối những lời mời của các
bạn rượu. Trong nghiện rượu mạn tính, thời kỳ đầu người bệnh chỉ dùng
rượu từng lúc, về sau thường cảm thấy cồn cào vào buổi sáng và cả buổi
chiều. Lúc đầu chỉ uống vào những ngày nghỉ, ngày lễ khoảng 1-2 lần trong
tuần hoặc gặp thì uống, sau đó là tình trạng uống và say liên miên. Khi uống
rượu, người bệnh trở nên dễ bực dọc, hay gây sự, vô cớ cãi cọ, tục tằn,
thường tấn công, đập phá đồ đạc, đánh đập người thân, đe dọa tính mạng
- 14 -
người thân khiến cả gia đình ln trong tình trạng hoảng loạn. Giai đoạn
nghiện rượu kéo dài về sau, khả năng dung nạp bắt đầu giảm xuống. Trong
vài năm liền đang uống hàng ly rượu lớn, người bệnh buộc phải giảm liều
hoặc phải ngừng uống rượu hẳn vì các rối loạn toàn thân nặng. Cứ như vậy
lúc tăng, lúc giảm, lúc buộc phải ngừng rồi lại uống lại,.. Cuối cùng, người
bệnh ngày càng suy nhược phải nằm tại giường (Theo nhận định của M.
Soyka, và cộng sự (2008)) [60].
Đối với công việc: Người bệnh nghỉ việc thường xuyên, hay xảy ra sự
cố trong công việc, trong quan hệ với đồng nghiệp, năng suất cơng việc giảm
sút, khơng hồn thành nhiệm vụ, … làm cho bệnh nhân dễ bị buộc thơi việc.
Cơng việc khơng có, tiền kiếm được ngày một giảm sút. Bệnh nhân chán
nản, uống rượu nhiều hơn, sinh hoạt càng bê tha, càng không kiếm được việc
làm,...
Đối với xã hội: Địa vị xã hội của người bệnh dần dần bị hạ thấp, mối
quan hệ xã hội bị thu hẹp dần, người bệnh mất dần những bạn bè thân thích,
đặc biệt những người bạn tốt muốn gần gũi khuyên can bệnh nhân từ bỏ
rượu, chỉ còn những bạn rượu chia sẻ thú uống rượu nhất thời. Phẩm chất xã
hội thối hóa dần, thường vi phạm pháp luật, dễ gây tai nạn giao thông.
1.1.2.4. Sảng rượu
Sảng rượu là một trạng thái loạn thần cấp tính và trầm trọng, xuất hiện
ở những người nghiện rượu nặng mạn tính ít nhất sau năm năm, khi cơ thể bị
suy yếu vì quá mệt nhọc hay vì một bệnh lý cơ thể nào đó như nhiễm khuẩn,
chấn thương, … Sảng rượu cũng thường khởi đầu sau khi cai rượu tương đối
hoặc tuyệt đối. Trong một số trường hợp, sảng rượu xuất hiện trong một giai
đoạn uống nhiều rượu. Sảng rượu cấp thường gặp ở lứa tuổi trên 30. Nam
gặp nhiều hơn nữ. Theo Sumski, sảng rượu chiếm 1/2-3/4 loạn thần do rượu
- 15 -
ở những người nghiện rượu trên năm năm. Biểu hiện của sảng rượu là [16],
[54], [43]:
Giai đoạn khởi phát:
Sảng rượu có thể khởi phát cấp tính hay từ từ. Giai đoạn khởi phát có
thể kéo dài vài ngày đến hàng tuần. Trong giai đoạn này, biểu hiện chủ yếu là
mệt mỏi, chán ăn, rối loạn giấc ngủ, ác mộng, rối loạn thần kinh thực vật, run
rẩy, chếnh choáng. Thay đổi cảm xúc biểu hiện bằng lo lắng hay trầm cảm.
Bệnh nhân vẫn còn khả năng phê phán, song có thể có rối loạn định hướng
thống qua về khơng gian, thời gian. Hoạt động mất linh hoạt. Chú ý kém tập
trung.
Giai đoạn toàn phát:
Tam chứng cổ điển bao gồm: ý thức mù mờ và lú lẫn, các ảo tưởng và
ảo giác sinh động ở bất kỳ giác quan nào, triệu chứng run nặng. Các triệu
chứng khác thường gặp như hoang tưởng, kích động, mất ngủ hoặc đảo lộn
nhịp thức ngủ, tăng mạnh hoạt động thần kinh tự trị.
Trong mê sảng nặng người bệnh có rối loạn năng lực định hướng thời
gian và không gian, định hướng xung quanh đôi lúc bị lệch lạc, còn giữ được
định hướng bản thân. Người bệnh nhận thức xung quanh như là ảo ảnh, hoàn
toàn mất khả năng phê phán. Rối loạn ý thức thường tăng về chiều tối. Đôi
khi do sự lôi cuốn chú ý, người bệnh có thể trả lời đúng câu hỏi nhưng trạng
thái này khơng duy trì được lâu [61].
Có nhiều loại ảo giác như ảo thị, ảo thanh, ảo giác xúc giác… Các ảo
giác chiếm vị trí chủ yếu và có nội dung làm người bệnh ghê sợ, hốt hoảng.
Các ảo thị là những hình người, những sinh vật có kích thước bị thu nhỏ lại.
Đơi khi người bệnh cảm thấy các cơn trùng đang bị trên cơ thể. Đôi khi
người ta gặp sảng nghề nghiệp: người bệnh thấy mình đang ở trong hồn
- 16 -
cảnh nghề nghiệp thông thường, đang tiến hành những thao tác cơng việc
của mình. Hành vi người bệnh phù hợp với nội dung của ảo giác: khi thì
chăm chú nhìn vào một chỗ nào đó, khi thì có tư thế bảo vệ, khi lẩn trốn, khi
đi tìm, nét mặt có khi sợ hãi, có khi ngạc nhiên, đăm chiêu. Các rối loạn
hành vi nặng lên về ban đêm và có thể có trạng thái kích động. Hoang tưởng
trong sảng rượu cấp bao giờ cũng có. Đó là hoang tưởng mang tính chất cảm
thụ, nội dung có liên quan đến nội dung và sự biến đổi của ảo giác.
Các rối loạn toàn thân: a) Run chân tay, run lưỡi, và run tồn thân là
triệu chứng thường gặp. Do đó, sảng rượu cịn được gọi là sảng run. Đó là
run ở cuối chi, nhanh và lan truyền mà người ta cảm thấy nhiều hơn là trông
thấy. Sự run rẩy cũng có trên mặt và lưỡi làm cho bệnh nhân khó nói. b) Rối
loạn thực vật: người bệnh đổ mồ hơi đầm đìa, sốt nhẹ. Trong trường hợp
nặng hơn, có thể sốt cao, mạch nhanh, huyết áp cao. Trong nước tiểu thường
có albumin. Trong máu, tỷ lệ bilirubin tăng, tốc độ máu lắng tăng. Trường
hợp nặng, có thể tử vong do thiểu năng tim mạch hoặc mắc thêm bệnh viêm
phổi. Trong trường hợp nhẹ hơn, bệnh thường kéo dài không quá 3-8 ngày.
Các biểu hiện bệnh nhẹ dần, trước tiên vào buổi sáng và ban ngày. Khả năng
phê phán đôi khi khôi phục muộn hơn. Trong trường hợp hãn hữu, sảng rượu
cấp có thể chuyển thành loạn thần Korsakoff hoặc trạng thái ảo giác do rượu.
1.1.2.5. Loạn thần do rượu
Loạn thần xuất hiện và phát triển do hậu quả tác động trực tiếp và kéo
dài của rượu lên não. Loạn thần xuất hiện không những do nồng độ rượu cao
trong cơ thể mà ngay cả khi lượng rượu trong máu không có hoặc có rất
thấp. Loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường
gặp ở lứa tuổi 30-40, gặp ở nam nhiều hơn nữ (Tỷ lệ nam/nữ là 4/1). Loạn
thần do rượu thường gặp ở những người nghiện rượu mạn tính sau 10 năm
[13], [8].
- 17 -
Giai đoạn khởi phát:
Loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế có thể
khởi phát cấp tính hay từ từ. Giai đoạn tiền triệu ngắn với khí sắc hoang
tưởng, ảo tưởng lời nói và lo âu. Đa số các tác giả cho rằng, khởi phát cấp
tính đạt đến đỉnh cao của bệnh trong khoảng vài giờ đến vài ngày. 94,5% các
trường hợp khởi phát cấp tính trong khoảng vài ngày.
Giai đoạn tồn phát:
Ảo giác thường là những ảo giác thật, có thể có nhiều ảo giác trên một
bệnh nhân, có thể là ảo thanh, ảo thị, ảo giác xúc giác, ảo khứu, … Ảo thanh
là hay gặp nhất. Ảo thanh thường xuất hiện vào chiều tối và lúc thiêm thiếp
ngủ. Ảo thanh có thể là thơ sơ hay lời nói. Giọng nói có thể nói chuyện với
bệnh nhân hay nói chuyện với nhau. Cường độ của ảo thanh có thể là tiếng
kêu hay tiếng thì thầm. Giọng nói biến đổi nhưng thường có những chủ đề
liên quan với nhau. Ảo thanh thoái triển đột ngột sau một giấc nhủ sâu hay
giảm dần về cường độ và tần số. Ảo thị cũng thường gặp. Nội dung của ảo
thị thường phù hợp với nội dung của ảo thanh và hoang tưởng. Khi có sảng
thì bệnh nhân thấy những cơn trùng, động vật với kích thước thu nhỏ. Khi ý
thức u ám, bệnh nhân thấy những cảnh giống mộng nhưng chủ đề thường
khơng hồn chỉnh và mất tính thứ tự. Ảo xúc ít gặp hơn. Ảo xúc thường xuất
hiện cùng với ảo thị. Bệnh nhân cảm thấy những cơn trùng bị trên da thịt,
chuột gặm nhấm chân tay gây cảm giác khó chịu. Đơi khi, ảo xúc là cảm
giác những vật lạ trong miệng. Ảo khứu và ảo vị chỉ gặp ở 9% bệnh nhân
loạn thần do rượu với ảo giác chiếm ưu thế [10].
Hoang tưởng có thể chỉ có một hoang tưởng và thường là hoang tưởng
ghen tuông, được phát triển dần trên một nhân cách đã thối hóa do rượu
thường ở tuổi trung niên. Thoạt đầu, những ý tưởng ghen tng chỉ có trong
- 18 -
khi say, dần dần trở nên bền vững và xuất hiện ngay cả khi bệnh nhân không
uống rượu. Từ chỗ nghi ngờ đi đến khẳng định vợ mình khơng chung thủy.
Bệnh nhân rình mị, tra khảo, bắt vợ phải nhận lỗi. Bệnh nhân xác định
người yêu của vợ mình thường là người quen biết. Hoang tưởng ghen tng
gặp ở 40% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm
ưu thế. Có thể có nhiều hoang tưởng và được nhắc đến nhiều là hoang tưởng
bị theo dõi, hoang tưởng bị hại và các hoang tưởng cảm thụ. Hoang tưởng bị
theo dõi chi phối mãnh liệt cảm xúc, hành vi của bệnh nhân và thường có
kèm ảo tưởng lời nói và ảo thanh với nội dung đe dọa. Ít thấy các hoang
tưởng bị chi chi phối bằng yếu tố vật lý như trong tâm thần phân liệt. Hoang
tưởng bị hại có thể cùng xuất hiện với hoang tưởng bị theo dõi hoặc hoang
tưởng ghen tuông. Hoang tưởng bị hại gặp ở 71% bệnh nhân nhưng không
đặc hiệu cho loạn thần do rượu. Ngoài ra, bệnh nhân loạn thần do rượu cịn
có một số hoang tưởng khác như hoang tưởng liên hệ, hoang tưởng tự cao,
hoang tưởng nghi bệnh, … với tỷ lệ thấp.
Cảm xúc và hành vi: Hoang tưởng và ảo giác do rượu thường chi phối
mạnh mẽ cảm xúc và hành vi của bệnh nhân. Bệnh nhân lo âu, sợ hãi và
căng thẳng cao độ, đơi lúc khối cảm. Hành vi thường né tránh, chạy trốn
hoặc phản ứng tấn công người xung quanh. Trong những trường hợp mạn
tính, cảm xúc của bệnh nhân thường bị ức chế, đơi khi trở nên cau có, giận
dữ. Hành vi có khi thẫn thờ hoặc sững sờ, cảm giác khơng có lối thốt nhưng
cũng có khi trở nên độc ác, thô bạo với người thân.
Các bệnh cơ thể phối hợp: Bên cạnh các triệu chứng loạn thần còn
thấy các bệnh cơ thể phối hợp như viêm loét dạ dày, xơ gan, rối loạn huyết
áp và thần kinh thực vật. Nhiều bệnh nhân biểu hiện trạng thái suy kiệt do
nhiễm độc rượu lâu ngày [49].
- 19 -
1.2. ẢO GIÁC TRONG LOẠN THẦN DO RƯỢU
1.2.1. Phân loại ảo giác trong loạn thần do rượu
1.2.1.1. Phân loại cổ điển
Ảo giác được chia ra 3 loại:
Ảo giác cấp tính: là những AG tồn tại từ vài ngày đến một tháng.
Theo bệnh cảnh lâm sàng, AG lại được chia ra AG cấp điển hình và khơng
điển hình.
Ảo giác cấp điển hình có các thể sau: Ảo thanh lúc giở thức, giở ngủ
cấp tính; Ảo giác di chứng cấp tính; Ảo giác cấp tính với hoang tưởng nổi
bật; Ảo giác cấp tính phối hợp với sảng.
Ảo giác cấp khơng điển hình: Ảo giác với ý thức u ám; Ảo giác với
hiện tượng tâm thần tự động; Ảo giác với trầm cảm.
Ảo giác kéo dài là: AG tồn tại từ một tháng đến sáu tháng.
Ảo giác mạn tính: là những AG tồn tại trên sáu tháng có các thể: Ảo
thanh mạn tính khơng có hoang tưởng; Ảo thanh lời nói mạn tính với hoang
tưởng; Ảo thanh lời nói mạn tính với hiện tượng tâm thần tự đông và hoang
tưởng kỳ qi. Ngồi ra Gullamop cịn mơ tả 2 thể rất ngắn chỉ tồn tại có hai
ngày là AG giống thơi miên và AG nhất thời của người uống rượu.
1.2.1.2. Phân loại theo ICD 10
Ảo giác do rượu gặp ở mục F10.52 (Rối loạn loạn thần do rượu ảo
giác chiếm ưu thế). Ngồi ra, ảo giác do rượu cịn có thể gặp ở các mục
F10.0 (Nhiễm độc rượu); F10.3 ( Trạng thái cai rượu); F 10.4 (Sảng rượu);
F10.51 (LTDR hoang tưởng chiếm ưu thế); F10.53 (LTDR chủ yếu đa dạng);
F10.54 (LTDR các triệu chứng trầm cảm chiếm ưu thế); F10.54 (LTDR các
- 20 -
triệu chứng hưng cảm chiếm ưu thế); F10.56 (LTDR trạng thái hỗn hợp); …
[23].
1.2.1.3. Phân loại theo DSM IV
Rối loạn loạn thần do rượu được xếp vào mục 291. Ảo giác do rượu
chủ yếu gặp ở mục 291.3 (Ảo giác chiếm ưu thế).
1.2.2. Tình hình nghiên cứu về ảo giác do rượu
1.2.2.1. Nghiên cứu về ảo giác trong loạn thần do rượu
Ảo giác do rượu thường gặp nhất, gặp ở 5,6 - 22,5% các trường hợp
loạn thần do rượu. Ảo giác thường là AG thật và hay có nhiều AG trên cùng
một bệnh nhân. AG có thể là ảo thanh, ảo thị, ảo giác xúc giác, ảo vị, ít gặp
ảo khứu [1]
Ảo thanh: là triệu chứng hay gặp nhất trong loạn thần do rượu. Một
số nghiên cứu [15], [7] cho thấy ảo thanh dao động từ 62,50% đến 82,50%
trên bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng và AG chiếm ưu thế. Ảo
thanh có thể là ảo thanh thơ sơ nhưng cũng có thể là ảo thanh phức tạp. Ảo
thanh có thể là những âm thanh giống như tiếng kêu, tiếng thét hoặc tiếng
nổ, kết hợp với ảo thị là các cảnh đánh nhau, chém giết khủng khiếp. Ảo
thanh dạng lời nói có thể là một hay nhiều giọng nói có nội dung đe dọa
bệnh nhân hoặc nói xấu bệnh nhân. Đơi khi, ảo thanh lại có nội dung bình
phẩm hoặc ra lệnh cho bệnh nhân, làm cho bệnh cảnh lâm sàng giống với
bệnh tâm thần phân liệt, rất khó khăn cho việc chẩn đốn lúc bênh nhân mới
nhập viện.
Ảo thị: Trần Viết Nghị (1994) gặp ảo thị ở 34,4% trong số các
trường hợp AG do rượu [15]. O’ Connor; Patrich. G và cs [55] thấy 43 %
bệnh nhân AG do rượu có ảo thị. Ảo thị trong bệnh nhân loạn thần do rượu
với hoang tưởng và AG chiếm ưu thế có thể gặp ở 40 % số bệnh nhân [7].
Hoàng Văn Trọng (2004) gặp ảo thị ở 55,1% bệnh nhân loạn thần do rượu