VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
***********
NGUYỄN THANH TÙNG
CƠ CHẾ GIÁM SÁT HIẾN PHÁP Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 60 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Vũ Thư
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu,
trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được cơng bố trong bất cứ cơng trình nào.
TÊN TÁC GIẢ
NGUYỄN THANH TÙNG
MỤC LỤC
MỤC LỤC..............................................................................................................................3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT........................................................................................4
MỞ ĐẦU................................................................................................................................1
Chương 1................................................................................................................................7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT HIẾN PHÁP...............................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của cơ chế giám sát Hiến pháp..........................................7
1.1.1. Khái niệm cơ chế giám sát Hiến pháp..........................................................................7
1.1.2. Đặc điểm của cơ chế giám sát Hiến pháp..................................................................14
1.1.3. Vai trò của các cơ chế giám sát Hiến pháp.................................................................16
1.2. Các cơ chế giám sát Hiến pháp.....................................................................................18
1.2.1. Mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung (Decetrallised Constitutional control) –
hay cịn gọi là mơ hình bảo hiến kiểu Mỹ............................................................................18
1.2.2. Mơ hình giám sát Hiến pháp tập trung.......................................................................19
1.2.3. Mơ hình giám sát Hiến pháp hỗn hợp (Mơ hình bảo hiến hỗn hợp kiểu Âu – Mỹ)...20
1.2.4. Mơ hình cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan giám sát Hiến pháp.........................21
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát Hiến pháp..............................................22
Chương 2..............................................................................................................................29
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ GIÁM SÁT HIẾN PHÁP Ở VIỆT NAM...................................29
2.1. Các cơ chế giám sát Hiến pháp ở Việt Nam.......................................................................29
2.1.1. Hoạt động giám sát Hiến pháp của Quốc hội.............................................................29
2.1.2. Giám sát Hiến pháp của Hội đồng nhân dân các cấp.................................................35
2.1.3. Giám sát Hiến pháp của hệ thống các cơ quan hành pháp.........................................37
2.1.4. Giám sát Hiến pháp của các cơ quan tư pháp............................................................38
2.1.5. Giám sát của các Tổ chức chính trị xã hội và các thiết chế khác...............................39
2.2. Thực tiễn vận hành của các cơ chế giám sát Hiến pháp................................................42
2.2.1. Giám sát của Quốc hội...............................................................................................42
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để ngăn ngừa những khả năng vi phạm các quyền và tự do của công
dân và trật tự Hiến pháp, tức là để cho những địi hỏi của chế độ Hiến pháp
được tơn trọng và bảo đảm trong thực tế, trong các lý thuyết chính trị và trong
thực tễn sử dụng quyền lực ở các nước trên thế giới đã hình thành những cơ
chế bảo vệ và khôi phục trật tự hiến định, trong đó có cơ chế giám Hiến pháp.
Trong bối cảnh xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và xã hội dân sự ở nước ta hiện nay, quyền con người và các quyền công dân
luôn được đặt ở vị trí trung tâm và đồng thời là giới hạn cho sự can thiệp của
Nhà nước. Tuy nhiên, việc bảo vệ các quyền nói trên ở nước ta vẫn cịn gặp
phải những khó khăn về mặt pháp lý như:
Trong một trật tự nhà nước pháp quyền, tất cả các cành quyền lực đều
được kiểm soát để bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Tuy nhiên
giám sát đối với hoạt động của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất vẫn còn đang bị bỏ ngỏ;
Còn thiếu những tiền đề cần thiết bảo đảm hiệu lực các cơ chế giám sát
Hiến pháp một cách hiệu quả;
Vẫn chưa hình thành được một thiết chế giám sát Hiến pháp độc lập,
chuyên trách hoạt động giám sát Hiến pháp. Giám sát Hiến pháp vẫn thực
hiện theo lối “giám sát tràn lan”, rất nhiều chủ thể tham gia việc giám sát thực
thi Hiến pháp;
Việc xây dựng các cơ chế giám sát Hiến pháp hiện tại vẫn chưa có sự
phân biệt giữa giám sát ở tầm Hiến pháp với giám sát thực thi pháp luật nói
chung;
Xuất hiện nguy cơ thiếu đồng bộ của Hiến pháp và các đạo luật có liên
quan đến các quyền cơng dân khi việc giải thích Hiến pháp chưa được tiến
1
hành một cách thường xuyên. Đặc biệt, khi quyền giải thích Hiến pháp chưa
quy định rõ đối với các chủ thể tham gia giám sát.
Bên cạnh đó, cũng cần chỉ ra rằng, mối quan hệ giữa các thiết chế nhà
nước cao nhất như Quốc hội, Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao, mối quan hệ giữa Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh, theo Hiến pháp trong nhiều trường hợp cũng cần có sự giải thích cụ thể
để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng đã khẳng định phải “xây dựng, hồn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và
quyết định của các cơ quan công quyền” và “xây dựng cơ chế phán quyết về
những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp” [4,
tr.126-127].
Như vậy, có thể khẳng định rằng, yêu cầu bảo hiến đã trở thành một
yêu cầu cấp bách trong đời sống pháp lý của chúng ta. Trong những năm qua,
việc bảo hiến trong cơ chế thực thi quyền lực ở nước ta đã được thực hiện
thơng qua sự lãnh đạo tồn diện của Đảng, cơ chế giám sát tối cao của Quốc
hội, cơ chế thẩm định kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế thanh
tra và giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân. Tuy nhiên, hiệu quả của việc
bảo vệ trật tự Hiến pháp thông qua các cơ chế này còn rất nhiều hạn chế.
Nguyên nhân cơ bản là chưa có sự nhận thức đúng, đầy đủ và nhất quán về
các yêu cầu của Hiến pháp do thiếu vắng sự giải thích chính thức Hiến pháp
một cách thường xuyên.
Việc giám sát Hiến pháp ở nước ta rõ ràng cần phải có sự nghiên cứu
quy mơ, nghiêm túc và cẩn trọng vì nó địi hỏi phải nhận thức lại về cơ chế
thực thi quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
Chính vì vậy, ở giới hạn đề tài này, tác giả nhận thấy cần có sự tập trung
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về
giám sát Hiến pháp và khả năng áp dụng tại Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
2
2. Tình hình nghiên cứu
Tuy có tầm nghiêm trọng như vậy, song giám sát Hiến pháp mới chỉ
được chính thức nghiên cứu ở nước ta trong thời gian gần đây và các kết quả
nghiên cứu thu được còn hết sức khiêm tốn. Phần lớn các cơng trình khoa học
về lĩnh vực này được cơng bố dưới hình thức các bài viết được đăng tải trên
các tạp chí khoa học chuyên ngành luật hoặc các tham luận trong các Hội thảo
khoa học quốc gia và quốc tế và Báo cáo công tác của các Đoàn Đại biểu
Quốc hội của Việt Nam làm việc tại nước ngoài. Quan trọng nhất trong số đó có
thể kể đến bài viết của PGS.TS.Nguyễn Như Phát, Mơ hình tài phán Hiến pháp ở
Cộng hịa Liên bang Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11,2004;
PGS.TS.Thái Vĩnh Thắng, Mơ hình cơ quan bảo hiến ở các nước trên thế giới,
Tạp chí Luật học, số 5,2004; GS.TSKH.Đào Trí Úc – Tài phán Hiến pháp và xây
dựng Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 10,2006; Báo cáo của Đoàn Ủy ban Pháp luật về kết quả nghiên cứu tại Cộng
hòa Liên bang Đức; Báo cáo kết quả của Đồn cơng tác của Ban cơng tác lập
pháp tại Cộng hịa Áo và Vương quốc Anh; Tài liệu Hội thảo về cơ chế bảo hiến
ở Việt Nam do Ban công tác lập pháp tổ chức tại thành phố Vinh, Nghệ An,
tháng 3, năm 2005…
Đáng chú ý là một số cơng trình được biên soạn dưới dạng sách tham
khảo về giám sát hiến pháp đã được công bố trong thời gian gần đây, song nội
dung của nó mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu và cung cấp những thông tin ban
đầu về kinh nghiệm điều chỉnh của pháp luật nước ngoài. Về loại cơng trình này,
có thể kể đến: TS.Nguyễn Sĩ Dũng (chủ biên), Quyền giám sát của Quốc hội –
Nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội,
2004; Ban công tác lập pháp – Đặng Văn Chiến (chủ biên), Cơ chế bảo hiến,
Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2005; GS.TS.KH.Đào Trí Úc – PGS.TS.Nguyễn
Như Phát, Tài phán Hiến pháp và vấn đề xây dựng mơ hình Tài phán Hiến pháp
ở Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; PGS.TS.Nguyễn
3
Như Phát, Tài phán Hiến pháp – Một số vấn đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm quốc
tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội,
2011 …
Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình khoa học nào đi sâu
nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống về vai trò của giám sát Hiến pháp đối
với việc duy trì và bảo vệ chế độ nhà nước và nền dân chủ, xu hướng phát triển
của chúng trong thế giới đương đại và đặc biệt là về mơ hình lý luận cho việc
xây dựng Cơ chế giám sát Hiến pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn cơ chế giám sát
Hiến pháp ở Việt Nam, tác giả luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về cơ chế giám sám Hiến pháp nói chung.
- Tìm hiểu thực tiễn vận hành của các cơ chế giám sát Hiến pháp ở Việt
Nam.
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện cơ chế giám sát Hiến pháp ở
Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận về cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến
pháp ở Việt Nam và sự vận hành của cơ chế này ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm tất cả các cơ chế giám sát Hiến
pháp hiện nay và khảo sát hiệu quả hoạt động của các cơ chế trong những năm
gần đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận thực hiện đề tài là chủ nghĩa Mác Lê-nin; tư
tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn
đề Hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được áp dụng trong luận văn là:
4
phương pháp hệ thống, phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích
tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đối với việc xây dựng đường lối, pháp luật, chính sách: Đề tài sẽ cung
cấp mơ hình lý luận cho việc xây dựng cơ quan giám sát chun trách và qua đó
góp phần hồn thiện cơ chế giám sát hiến pháp và tiến trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
- Đối với phát triển kinh tế - xã hội: Thông qua việc cung cấp cung cấp
mơ hình lý luận cho việc xây dựng cơ chế giám sát Hiến pháp, Đề tài đã góp phần
chỉ rõ thiết chế góp phần bảo vệ nền dân chủ nhân dân và phát triển xã hội dân sự
tại Việt Nam.
- Đối với phát triển lĩnh vực khoa học có liên quan: Đề tài sẽ bổ sung
những luận cứ khoa học quan trọng cho quá trình tìm kiếm phương thức và mơ
hình giám sát Hiến pháp thích hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Đối với công tác đào tạo: Sản phẩm của đề tài này có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu, học tập liên quan đến
vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân và vấn đề kiểm soát quyền lực
nhà nước trong các trường đại học, các viện nghiên cứu...
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cơ chế giám sát Hiến pháp
Chương 2: Thực trạng cơ chế giám sát Hiến pháp ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế giám sát Hiến pháp
ở Việt Nam
5
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ GIÁM SÁT HIẾN PHÁP
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của cơ chế giám sát Hiến pháp
1.1.1. Khái niệm cơ chế giám sát Hiến pháp
Trong Từ điển tiếng Việt, “giám sát” được hiểu là “sự theo dõi, xem
xét làm đúng hoặc làm sai những điều đã quy định” hoặc được hiểu là “theo
dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”.[30]
Theo Từ điển Luật học: Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động
mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các
biện pháp tích cực để buộc và hướng dẫn hoạt động của đối tượng chịu sự
giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được
xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh. [23,
tr.174]
Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có khác nhau
nhưng chúng đều có một số đặc điểm sau đây:
Giám sát luôn luôn gắn liền với một chủ thể nhất định, tức là phải trả
lời được câu hỏi: ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo
dõi, xem xét, kiểm tra và đưa ra những nhận định về một việc làm nào đó đã
được thực hiện đúng hoặcc sai những điều đã quy định. Đồng thời “giám sát”
cũng luôn luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời được câu hỏi:
giám sát ai, giám sát việc gì. Điều này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ, nó phân
biệt giữa “giám sát” và “kiểm tra”. “Kiểm tra” thì chủ thể hoạt động và đối
tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là
việc tự kiểm tra của chủ thể hoạt động. Nói một cách khác, chủ thể tự mình
xem xét, đánh giá tình trạng tốt, xấu của cơng việc mình đang làm. Nhưng
“giám sát” thì khơng thể tự mình giám sát hoạt động của chính mình. “Giám
sát” là hoạt động của chủ thể ngồi hệ thống đối với đối tượng thuộc hệ thống
7
khác, tức là giữa cơ quan giám sát và cơ quan chịu giám sát không nằm trong
cùng một hệ thống phụ thuộc nhau.
“Giám sát” phải được tiến hành trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ của
chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự giám sát. “Giám sát” cũng phải được
tiến hành trên những căn cứ nhất định, nếu như khơng có những quy định này
thì khơng có cơ sở để chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát, đưa ra những
nhận định về hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát.
Trong hoạt động giám sát, cả chủ thể giám sát, đối tượng bị giám sát và
nội dung tính chất hoạt động giám sát đều rất đa dạng. Từ giám sát hoạt động
của bộ máy nhà nước đến giám sát thi cơng một cơng trình, giám sát kỹ thuật,
giám sát một trận thi đấu thể thao .v.v… Trong đó, đối với hoạt động của các
cơ quan nhà nước đáng chú ý hai loại hình giám sát sau đây:
Giám sát mang tính chất quyền lực nhà nước:
Là loại hình giám sát được tiến hành bởi chủ thể là các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với một hay một số hệ thống các cơ quan nhà nước
khác theo những nguyên tắc nhất định về sự phân công quyền lực nhà nước.
Đó có thể là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội/ Nghị viện đối với
Chính phủ, Tòa án tối cao và Viện Kiểm sát tối cao; là hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân các cấp đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương như ở
các nước xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra có thể kể thêm hoạt động giám sát của
Tịa án đối với bộ máy nhà nước thông qua hoạt động xét xử. Các phương
pháp, cách thức mà loại hình giám sát này áp dụng ln ln mang tính
quyền lực nhà nước và nó trực tiếp mang lại những hậu quả pháp lý. Giám sát
có tính quyền lực nhà nước có trong các hình thức mà trong khoa học pháp lý
gọi là thanh tra, kiểm tra, kiểm sát…
Giám sát không mang tính quyền lực nhà nước:
Là loại hình giám sát được tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà nước. Đó
8
là hoạt động giám sát của các tổ chức đoàn thể, hội, nhóm, thuộc khu vực xã
hội dân sự với bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Giám sát này thường chỉ dừng lại ở việc theo dõi, đánh giá và đưa ra các kiến
nghị xử lý lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà thơi.
Cịn đối với giám sát Hiến pháp, thuật ngữ “giám sát Hiến pháp” lần
đầu tiên được đưa ra trong nghị lập hiến Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1787.
Những chính trị gia đầu tiên khởi xướng và cổ vũ cho tư tưởng giám sát Hiến
pháp là Wilson, Madison, Hamilton. Với mục đích nhằm kiềm chế quyền lập
pháp của Quốc hội liên bang, bảo đảm cho cho các nhánh quyền khác có
những quyền hạn tự bảo vệ khi cần thiết chính trị gia đề nghị trao cho Tịa án
quyền bãi bỏ dự luật do Quốc hội liên bang thông qua. Theo mơ hình của Mỹ,
giám sát Hiến pháp cịn có tên gọi khác là “giám sát tư pháp” (judical
review), được hiểu là thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét tính hợp
hiến của các đạo luật được ban hành bởi các cơ quan hoặc các cấp chính
quyền khác nhau. Ở Châu Âu, thuật ngữ “giám sát Hiến pháp” được sử dụng
phổ biến vào những năm đầu thế kỷ XX. Người đầu tiên khởi xướng tư tưởng
giám sát Hiến pháp là luật gia người Đức H.Keslen.
Giám sát Hiến pháp ở Châu Âu cịn có tên gọi là “giám sát” tính hợp
hiến” và được định nghĩa “Giám sát tính hợp hiến là ngun tắc theo đó Tịa
án có thể tun bố các đạo luật được thông qua bởi cơ quan lập pháp và cả cơ
quan hành pháp là vi phạm Hiến pháp. Tịa án có thể hủy bỏ các đạo luật vi
phạm đến quyền cơ bản của con người được quy định trong Hiến pháp”. Hiểu
theo mơ hình chủ yếu của Mỹ hay theo mơ hình của Châu Âu, thì hoạt động
giám sát Hiến pháp ln hướng tới mục đích cuối cùng là bảo vệ tính tối cao
của Hiến pháp.
Tóm lại, có thể hiểu thuật ngữ giám sát Hiến pháp như sau: “Giám sát
Hiến pháp” là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra
các văn bản do các cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền ban hành hoặc
9
hành vi của các quan chức nhà nước cao cấp có phù hợp với Hiến pháp hay
khơng nhằm bảo đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật
và trong đời sống xã hội. Ngoài thuật ngữ “giám sát Hiến pháp” còn tồn tại
nhiều thuật ngữ khác nhau: bảo hiến, bảo vệ Hiến pháp, tài phán Hiến pháp…
Thuật ngữ “giám sát Hiến pháp” còn được gọi là “kiểm tra Hiến pháp
bằng tòa án” tức là cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp. Cơ quan
giám sát thông qua hoạt động tố tụng Hiến pháp sẽ đưa ra những bản án,
những quyết định có giá trị như đạo luật trong việc xem xét tính hợp hiến của
các văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành và hành vi được thực hiện
trên cơ sở những văn bản vi hiến xâm phạm đến các quyền và tự do hiến định
của công dân.
Trong một trật tự nhà nước pháp quyền, người ta thường hay đồng nhất
hai thuật ngữ “Bảo hiến” và “giám sát Hiến pháp”.
“Bảo hiến” hay còn gọi là “bảo vệ Hiến pháp” và được hiểu theo hai
nghĩa khác nhau:
Theo nghĩa rộng: Bảo hiến có thể hiểu là toàn bộ những yếu tố, cách
thức, biện pháp nhằm bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và chống lại mọi
sự vi phạm Hiến pháp. Bất kỳ hoạt động nào, do ai thực hiện nhằm phòng
ngừa, phát hiện hoặc xử lý vi hiến được xem là bảo vệ Hiến pháp.
Theo nghĩa hẹp: Bảo hiến là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền ra
quyết định về tính hợp hiến hoặc bất hợp hiến và áp dụng chế tài đối với các
cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền do có văn bản pháp luật hay hành
vi vi hiến. Bảo hiến theo nghĩa hẹp thường gắn với việc cơ quan có thẩm
quyền xem xét và ra quyết định về sự phù hợp với Hiến pháp của các đạo luật
do cơ quan lập pháp, hành pháp ban hành, đồng thời xét xử các hành vi vi
phạm Hiến pháp của các cá nhân được Hiến pháp quy định các quyền và
nghĩa vụ.
10
Việc dùng các thuật ngữ được sử dụng để diễn đạt cho hoạt động bảo
đảm tính tối cao của Hiến pháp không chứa đụng hàm ý mâu thuẫn, phủ định
lẫn nhau. Tuy nhiên sử dụng thuật ngữ “giám sát Hiến pháp” sẽ chính xác và
mang tính khái qt hơn. Vì giám sát Hiến pháp ngoài việc thực hiện những
nhiệm vụ của bảo hiến cịn có chức năng xây dựng cơ quan giám sát, hoàn
thiện cơ quan giám sát, thay đổi bộ máy cơ cấu, hoạt động của cơ quan giám
sát sao cho cơ quan đó thực hiện hoạt động giám sát một cách có hiệu quả
nhất. Cho nên ở một mức độ nhất định việc sử dụng thuật ngữ “giám sát Hiến
pháp” để bao hàm các thuật ngữ còn lại.
* Cơ chế giám sát Hiến pháp
Khái niệm “Cơ chế” là chuyển ngữ của từ “mécanisme” trong tiếng Pháp.
Từ điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa “mécanisme” là “cách thức hoạt
động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau”. Cịn Từ điển Tiếng Việt
(Viện Ngơn ngữ học 1996) giảng nghĩa cơ chế là “cách thức theo đó một q
trình thực hiện”.
Có thể hiểu Cơ chế giám sát Hiến pháp ở đây được hiểu là cách thức
hoạt động của các chủ thể giám sát Hiến pháp dựa trên nền tảng thể chế cho
phép và các yếu tố bảo đảm hiệu lực của việc giám sát . Cơ chế giám sát Hiến
pháp là hệ thống các chức năng, thẩm quyền và thủ tục kiểm tra, giám sát
việc tuân theo và thi hành Hiến pháp, pháp luật nhằm bảo đảm cho việc thực
hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Hiến
pháp với tính chất là đạo luật tối cao về tổ chức bộ máy nhà nước, ghi nhận và
bảo vệ quyền công dân, rất cần có một cơ chế bảo vệ. Sẽ đầy đủ và bao quát
nếu gọi đúng tên của cơ chế bảo vệ văn bản này là “Cơ chế giám sát Hiến
pháp”.
Trong lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, tư tưởng giám sát Hiến
pháp được hình thành ở Anh vào cuối thế kỷ XVII gắn liền với hoạt động của
Hội đồng cơ mật với thẩm quyền tuyên bố văn bản do cơ quan lập pháp của
11
các thuộc địa của Anh ban hành trái với luật của Nghị viện Anh hay pháp luật
nói chung. Hiến pháp theo nghĩa hiện hành được đề cập tại Hội nghị lập hiến
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1787. Sau đó, các nước Brazin (1891), Urugoay
(1917) lần lượt thiết lập cơ chế giám sát Hiến pháp dưới những mơ hình khác
nhau.
Ở nước ta, tại đại hội X, Đảng ta đã khẳng định “xây dựng, hoàn thiện
cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong xây dựng các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền” và “xây dựng cơ chế phán
quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp”.
Sự xuất hiện của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền chỉ là yếu tố
cần nhưng chưa đủ nếu các cơ quan nhà nước vượt quyền, lạm quyền. Nên
Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền phải là văn bản có hiệu lực tối cao làm
cơ sở cho việc tổ chức quyền lực, để các cơ quan nhà nước không thể vượt
qua giới hạn quyền lực mà Hiến pháp quy định. Làm được nhiệm vụ này,
Hiến pháp phải được thừa nhận là văn bản có hiệu lực pháp lý tối cao. Và để
Hiến pháp được tôn trọng và bảo đảm trong thực tế cần phải có cơ chế hữu
hiệu bảo vệ và khơi phục trật tự hiến định - đó là cơ chế giám sát Hiến pháp.
Việc hình thành cơ chế giám sát Hiến pháp ở nghĩa này nhằm hướng tới hai
mục tiêu cơ bản sau:
Thứ nhất, đảm bảo cho Hiến pháp thực sự là văn bản ghi nhận sự phân
chia quyền lực nhà nước nhằm mục đích hạn chế quyền lực nhà nước.
Theo quy luật phát triển, lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự ra đời
của chế độ tư hữu và xã hội phân chia thành các giai cấp, các giai cấp này trở
nên đối kháng và mâu thuẫn nhau. Để dung hòa mâu thuẫn giữa các giai cấp
này thì Nhà nước ra đời nhưng khi có trong tay quyền lực, Nhà nước dần dần
trở thành tổ chức độc tài, chuyên chế có xu hướng lạm quyền, xâm phạm đến
quyền lợi của cá nhân. Để khắc phục tình trạng này cần phải giới hạn quyền
12
lực nhà nước bằng cách phân quyền. Việc phân quyền này được thể hiện rõ
trong lý thuyết phân quyền của nhà triết học Anh J.Locke và đặc biệt được kết
tinh trong thuyết phân quyền của Mongtesquieu. Mongtesquie chia quyền lực
nhà nước thành ba nhánh: lập pháp – hành pháp – tư pháp, ba quyền này sẽ
được giao cho những cơ quan khác nhau. Quyền lập pháp được trao cho Nghị
viện, quyền tư pháp được giao cho Tòa án và quyền hành pháp được giao cho
Chính phủ. Mỗi cơ quan thực hiện một quyền khác nhau nhưng khơng hồn
tồn tách biệt mà có sự đan xen, kiềm chế và buộc phải dựa vào nhau. Lập
pháp ban hành ra luật cần có hành pháp để thực thi, cần có tư pháp được áp
dụng trong hoạt động xét xử. Đến lượt mình, hành pháp cần có lập pháp ban
hành ra luật để vận hành bộ máy nhà nước và tư pháp cần có luật để tiến hành
xét xử.
Đây chính là sự đan xen trong phân cơng quyền lực, trong q trình
thực hiện các cơ quan này có sự kiềm chế đối trọng lẫn nhau: hành pháp được
quyền phủ quyết các dự án luật mà Quốc hội đã thông qua, lập pháp được phê
chuẩn các quyết định bổ nhiệm của Tổng thống và các Bộ trưởng, tư pháp
được quyền phán xét các hành vi của lập pháp và hành pháp, được quyền bổ
nhiệm các thẩm phán của Tòa án tối cao, được quyền xét xử các đạo luật vi
hiến. Sự kiềm chế này đã hạn chế khả năng lạm quyền, độc tài, chuyên chế
của các cơ quan nhà nước. Thuyết phân quyền của chuyên chế của các cơ
quan nhà nước. Thuyết phân quyền của Mongtesquie chính là sự quan sát thực
tế và có ý nghĩa lớn lao của thời đại. Và trong một môi trường pháp quyền, thì
cơ chế giám sát Hiến pháp hình thành chính là để phục vụ việc kiểm sốt lẫn
nhau giữa các nhánh quyền lực.
Thứ hai, đảm bảo cho Hiến pháp thực sự là văn bản ghi nhận quyền con
người nhằm bảo đảm quyền con người.
Mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước được hình thành từ khi xã hội
có nhà nước và ln chiếm một vị trí trung tâm trong lịch sử các học thuyết
13
chính trị - pháp lý. Quyền con người vừa là mục tiêu cao cả, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Khơng thể có một cộng đồng tốt nếu khơng
phải là vì các quyền vốn có của con người. Cộng đồng xã hội chỉ tốt và ln
hướng đến mục tiêu vì con người khi quyền con người được Hiến pháp ghi
nhận và mọi cá nhân trong cộng đồng đều tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Có thể nói, lý do hình thành cơ chế giám sát Hiến pháp chính là hướng
tới bảo đảm các quyền con người ghi nhận trong Hiến pháp được tôn trọng, và
bảo vệ trên thực tế.
1.1.2. Đặc điểm của cơ chế giám sát Hiến pháp
1.1.2.1. Chủ thể giám sát Hiến pháp
Tùy theo quy định của Hiến pháp, chủ thể giám sát Hiến pháp có thể là
cơ quan dân cử hoặc là các Tịa án, có thẩm quyền chung hoặc là cơ quan
chun mơn như Tịa án Hiến pháp, Hội đồng bảo hiến. Vậy chủ thể giám sát
Hiến pháp có thể khái quát như sau:
Chủ thể giám sát Hiến pháp vào thời kỳ đầu của nền lập hiến là những
cơ quan dân cử. Thẩm quyền giám sát Hiến pháp có thể được trao cho một
Hội nghị dân cử, một Ủy ban của Quốc hội (ở Pháp, theo Hiến pháp 1799 và
năm 1852, Thượng viện là cơ quan thực hiện quyền giám sát Hiến pháp, theo
Hiến pháp 1946, chủ thể giám sát Hiến pháp là một Ủy ban giám sát Hiến
Pháp). Ở những nước trao quyền giám sát Hiến pháp cho cơ quan dân cử
thường có sự phân biệt quyền lập hiến, quyền lập pháp và chủ thể giám sát
Hiến pháp chính là cơ quan lập hiến. Vậy cơ quan làm ra Hiến pháp được
quan niệm là có vị trí thuận lợi nhất để giải thích Hiến pháp, biết được khi nào
Hiến pháp bị xâm hại, từ đó bảo vệ Hiến pháp một cách tốt nhất.
Tuy nhiên, việc trao quyền giám sát Hiến pháp cho các chủ thể này đã
trở nên lỗi thời. Sự kiểm sốt tính hợp hiến của các đạo luật của cơ quan dân
cử thường mang tính chính trị (thiên về lợi ích, tính hợp thời và giá trị thực
tiễn của các đạo luật), trong khi đó nhiệm vụ này phải thuộc địa hạt của ngành
14
tư pháp.
Chủ thể giám sát Hiến pháp là cơ quan tư pháp. Với vai trò là người
bảo vệ pháp luật, việc trao cho cơ quan Tòa án quyền giám sát Hiến pháp vừa
phù hợp với tính chất quyền lực của ngành tư pháp – một ngành quyền lực
khác với ngành lập pháp, hành pháp và ít có nguy cơ lạm quyền, vừa mang lại
hiệu quả cao trong hoạt động giám sát. Trên thế giới hiện nay, có hai mơ hình
thực hiện quyền giám sát Hiến pháp mà chủ thể là các cơ quan tư pháp. Đó là
mơ hình Hoa Kỳ với chủ thể giám sát là các Tịa án có thẩm quyền chung và
mơ hình Châu Âu với chủ thể giám sát là Tòa án Hiến pháp (Ý, Đức, Ai
Cập…).
1.1.2.2. Đối tượng của giám sát Hiến pháp
Đối tượng của giám sát Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật có
giá trị pháp lý thấp hơn Hiến pháp. Các văn bản quy phạm pháp luật là đối
tượng giám sát của Hiến pháp gồm:
Các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý thấp hơn Hiến pháp:
các luật, các văn bản dưới luật (nghị định, chỉ thị, thông tư…), các bản án,
quyết định của cơ quan tư pháp;
Các văn bản của các tổ chức chính trị - xã hội được trao cho chức năng
quản lý nhà nước: điều lệ, nội quy…;
Điều nước quốc tế theo quy định của pháp luật nhiều quốc gia cũng là
đối tượng chịu sự giám sát của Hiến pháp.
Đối tượng của hoạt động giám sát hiến pháp còn là các hành vi vi phạm
Hiến pháp của những cá nhân có thẩm quyền. Khơng phải mọi hành vi vi hiến
đều là đối tượng của giám sát Hiến pháp mà chỉ những hành vi của những chủ
thể nhất định mới là đối tượng của giám sát Hiến pháp.
Tóm lại, việc xác định đối tượng giám sát Hiến pháp trong cơ chế giám
sát Hiến pháp phụ thuộc rất nhiều vào mơ hình tổ chức cơ quan tài phán trong
15
quan hệ giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp, các đặc điểm
chính trị - xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa…của mỗi quốc gia. Nhưng
tổng quát nhất, đối tượng giám sát Hiến pháp bao gồm: các văn bản pháp luật
có giá trị pháp lý thấp hơn Hiến pháp và hành vi của những cá nhân có thẩm
quyền được Hiến pháp ghi nhận quyền và nghĩa vụ.
1.1.3. Vai trò của các cơ chế giám sát Hiến pháp
Về mặt lý thuyết, cơ chế giám sát Hiến pháp ra đời khơng nằm ngồi
mục đích thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân quyền, giới hạn quyền lực nhà
nước mà Hiến pháp đã ghi nhận. Cơ chế giám sát Hiến pháp ra đời bổ sung
thêm phương tiện pháp lý bảo vệ các quyền con người đã được Hiến pháp ghi
nhận. Từ đó, chúng ta thấy được vai trị quan trọng của các cơ chế giám sát
Hiến pháp trên những phương diện sau:
Thứ nhất, Cơ chế giám sát Hiến pháp ra đời trước hết nhằm phát hiện
những hành vi vi hiến của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền.
Giám sát Hiến pháp là một quá trình theo dõi thường xun, liên tục
thơng qua các hình thức nhất định của các chủ thể giám sát (cơ quan có thẩm
quyền giám sát) đối với hoạt động thực tế của các cơ quan nhà nước và cá
nhân có thẩm quyền. Dĩ nhiên, không phải mọi chủ thể là cơ quan nhà nước,
hoặc cá nhân có thẩm quyền đều là đối tượng theo dõi của giám sát Hiến
pháp. Ở tầm Hiến pháp, thì đó chỉ là các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ở
Trung ương mà thơi.
Trong q trình hoạt động của mình, những hành vi vi hiến của các cơ
quan, cá nhân này bộc lộ ra ngồi. Bên cạnh đó, hoạt động ban hành văn bản
(hành vi ban hành) quy phạm pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền ban
hành cũng là đối tượng xem xét, theo dõi đánh giá của giám sát Hiến pháp. Và
nhiệm vụ của các cơ quan giám sát là thu thập thông tin, đánh giá về tính hợp
hiến của các hành vi này.
16
Trong một trật nhà nước pháp quyền, không cho phép nhánh quyền lực
nào được vượt lên trên, lấn sang các nhánh quyền khác. Bởi quyền lực khi tập
trung trong tay một cơ quan, một nhánh nào đó ln có xu hướng lạm quyền,
quyền lực khi đó bị tha hóa, có thể làm tổn hại đến các quyền cơ bản của con
người được ghi nhận trong Hiến pháp. Hiến pháp chính là văn bản giới hạn
quyền lực nhà nước, phân định giới hạn của các nhánh quyền lực ở trung
ương, giữa trung ương và địa phương nhằm bảo đảm quyền con người và
quyền công dân. Bảo vệ trật tự Hiến pháp cũng chính là bảo việc phân định
giới hạn của các nhánh quyền này. Và nhiệm cụ của các cơ quan giám sát
Hiến pháp cũng chính là phát hiện hành vi vi hiến của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền có nguy cơ phá vỡ tổ chức quyền lực nhà nước được
ghi nhận trong Hiến pháp.
Thứ hai, Trong một số trường hợp phát sinh vấn đề tranh cãi nội dung
của Hiến pháp, thì Cơ chế giám sát Hiến pháp ln đem đến một sự giải thích
chính thức. Một sự thật hiển nhiên là Hiến pháp không bao giờ quy định cụ
thể xử sự của các chủ thể trong các tình huống cụ thể. Việc tuân thủ Hiến
pháp ở gốc độ này là tuân thủ tinh thần Hiến pháp. Nhiều khi các cơ quan nhà
nước, các cá nhân có thẩm quyền không hề cho rằng văn bản quy phạm pháp
luật do mình ban hành hoặc hành vi thực tế của mình vi phạm tinh thần của
Hiến pháp. Hoặc giả dụ trường hợp này còn đang gây tranh cãi trong dư luận
thì phán quyết, hay đánh giá của cơ quan giám sát rằng hành vi đó vi hiến
ln được xem là một sự giải thích chính thức, đồng thời giúp thống nhất hoạt
động thi hành Hiến pháp trong hệ thống các cơ quan nhà nước.
Thứ ba, Kết quả của giám sát Hiến pháp luôn cho ra những kiến nghị và
biện pháp xử lý đối với những hành vi vi hiến.
Kết thúc q trình theo dõi, thu nhận thơng tin, đối chiếu, đánh giá
hành vi của giám sát Hiến pháp sẽ cho ra kết quả cuối cùng rằng hành vi của
đối tượng giám sát vi hiến hay là không vi hiến. Tùy theo mơ hình giám sát
17
Hiến pháp của các nước, các cơ quan giám sát có thể được trao quyền phán
quyết, tuyên bố hủy bỏ văn bản vi hiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
hoặc xét xử nguyên thủ quốc gia. Nhưng đó chỉ là khâu cuối cùng, tiếp theo
của chu trình giám sát Hiến pháp. Bởi xét về bản chất, giám sát Hiến pháp vẫn
là theo dõi, kiểm tra xem đối tượng giám sát có thực hiện đúng quy định,
đúng tinh thần của Hiến pháp không mà thôi. Tuy vậy, cũng không thể phủ
nhận được vai trị vơ cùng quan trọng trong việc thúc đẩy đưa đến một phán
quyết cuối cùng đối với một hành vi vi hiến, xâm hại đến quyền con người,
quyền cơ bản của cơng dân.
Tóm lại, Nhà nước pháp quyền gắn với bản chất của nhà nước hợp
hiến. Nên cần phải có Hiến pháp và cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Sự ra đời của
cơ chế giám sát Hiến pháp là yêu cầu cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu của
Nhà nước pháp quyền – bảo đảm giá trị tối cao của Hiến pháp, góp phần thực
hiện có hiệu quả nguyên tắc phân quyền mà Hiến pháp đã ghi nhận nhằm giới
hạn quyền lực nhà nước và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.
1.2. Các cơ chế giám sát Hiến pháp
Tùy thuộc các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, các quốc gia trên thế
giới đều tự xây dựng các cơ chế giám sát Hiến pháp cho riêng mình. Hay nói
cách khác, các quốc gia đều thiết lập cho mình một mơ hình giám sát Hiến
pháp cho phù hợp.
Theo đó, có bốn mơ hình cơ chế giám sát Hiến pháp: Đó là mơ hình
giám sát Hiến pháp phi tập trung; mơ hình giám sát Hiến pháp tập trung; mơ
hình giám sát Hiến pháp hỗn hợp; mơ hình cơ quan bảo hiến đồng thời là cơ
quan giám sát Hiến pháp. Dưới đây là các mơ hình giám sát Hiến pháp:
1.2.1. Mơ hình giám sát Hiến pháp phi tập trung (Decetrallised
Constitutional control) – hay còn gọi là mơ hình bảo hiến kiểu Mỹ.
Đây là mơ hình mà Tòa án tối cao và tòa án các cấp đều có chức năng
18
và thẩm quyền giám sát tính hợp hiến được xây dựng trên cơ sở của thuyết
phân chia và kiềm chế đối tượng giữa các nhánh quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
Theo quan điểm của học thuyết này, hệ thống các cơ quan Tịa án
khơng những có chức năng xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của công dân
mà cịn có khả năng kiểm sốt, hạn chế quyền lực của các cơ quan lập pháp và
hành pháp. Các nước theo mơ hình này bao gồm: Mỹ. Mehico, Tây Ban Nha..
Tóm lại, mơ hình giám sát Hiến pháp phi tập trung, thẩm quyền giám
sát được trao cho hệ thống các cơ quan tư pháp. Với phương pháp giám sát cụ
thể gắn liền với sự việc đang tranh chấp nên q trình giám sát khơng ảnh
hưởng nhiều đến quy trình lập pháp của Nghị viện, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân được bảo vệ hữu hiệu và linh hoạt. Tuy nhiên, vì hoạt động
giám sát chỉ phát sinh sau khi văn bản đã được ban hành và có hiệu lực nên
hoạt động giám sát khơng có ý nghĩa trong việc thống nhất hệ thống pháp
luật; phạm vi tác động của phán quyết giám sát hẹp (chỉ các bên trong vụ
tranh chấp). Giao quyền bảo hiến cho tòa án các cấp nên thủ tục dài dòng, một
khi đạo luật được Tịa án xác định là trái Hiến pháp thì đạo luật đó khơng cịn
giá trị áp dụng và chỉ có hiệu lực bắt buộc đối với Tịa án cấp dưới (nếu là
phán quyết của Tịa án tối cao thì có giá trị bắt buộc đối với cả hệ thống tư
pháp). Nhược điểm này sẽ được khắc phục trong mô hình giám sát tập trung.
1.2.2. Mơ hình giám sát Hiến pháp tập trung
Khác với mơ hình Hoa Kỳ, các nước lục địa Châu Âu khơng trao cho
Tịa án tư pháp thực hiện chức năng giám sát Hiến pháp mà thành lập một cơ
quan đặc biệt để thực hiện chức năng bảo hiến, có vị trí độc lập, hành pháp và
tư pháp. Cơ quan này gọi là Tòa án Hiến pháp (Cositituional court) hoặc là
Hội đồng bảo hiến (Cositituional council). Các nước theo mơ hình này gồm:
Đức, Áo, Pháp, Miền nam Việt Nam…
19
Theo mơ hình này, Tịa án Hiến pháp có thẩm quyền như sau: xem xét
tính hợp hiến của các văn bản luật, các điều ước quốc tế mà Tổng thống, hoặc
Chính phủ đã hoặc sẽ tham gia ký kết, các sắc lệnh của Tổng thống, các Nghị
định của Chính phủ, có thể tuyên bố một văn bản luật, văn bản dưới luật là vi
hiến và làm vơ hiệu hóa văn bản đó; xem xét tính hợp hiến của các cuộc bầu
cử Tổng thống, bầu cử Nghị viện và trưng cầu dân ý; tư vấn về tổ chức bộ
máy nhà nước, về các vấn đề chính trị đối nội cũng như đối ngoại; giải quyết
các tranh chấp về thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp,
tư pháp, giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; giám sát
Hiến pháp về quyền con người và quyền công dân. Ngồi ra, một số Tịa án
Hiến pháp như của Italia cịn có thẩm quyền xét xử Tổng thống khi Tổng
thống vi phạm pháp luật.
Vậy, mơ hình giám sát Hiến pháp tập trung với việc thành lập cơ quan
giám sát Hiến pháp chuyên trách (Tòa án Hiến pháp, Hội đồng bảo hiến) với
phương pháp giám sát trừu tượng có ý nghĩa trong hoạt động thống nhất hệ
thống pháp luật, hiệu lực của phán quyết giám sát có phạm vi tác động rộng
đã khắc phục nhược điểm của mơ hình giám sát phi tập trung. Nhưng cơ chế
giám sát văn bản trước khi cơng bố vơ hình đã can thiệp q sâu vào hoạt
động của ngành lập pháp.
1.2.3. Mơ hình giám sát Hiến pháp hỗn hợp (Mơ hình bảo hiến hỗn
hợp kiểu Âu – Mỹ).
Đây là mơ hình kết hợp những yếu tố của cả hai mơ hình kiểu Châu Âu
và kiểu Mỹ được áp dụng ở một số nước như: Bồ Đào Nha, Thụy Sỹ,
Venezuela, Peru, Brazil…
Theo mơ hình này, thẩm quyền bảo hiến được trao cho cả cơ quan bảo
hiến chuyên trách như tòa Hiến pháp lẫn tất cả các tịa án thuộc hệ thống tư
pháp. Trong đó, thẩm quyền của tòa án tư pháp và tòa án tối cao đối với
những vụ việc cụ thể được quy định ngay trong Hiến pháp, các tòa án khác
20
khi giải quyết vụ việc cụ thể được quy định cụ thể có quyền xem xét tính hợp
hiến của các đạo luật và được quyền không áp dụng các đạo luật được cho là
khơng phù hợp với Hiến pháp.
Mơ hình giám sát này vừa khắc phục được những hạn chế, vừa phát huy
được những yếu tố tích cực của cả hai mơ hình giám sát Hiến pháp tập trung
và phi tập trung. Việc sử dụng hai phương pháp giám sát cụ thể và trừu tượng
đã mang lại kết quả trong việc bảo đảm tính thống nhất, tính hợp hiến của cả
hệ thống pháp luật, quyền khởi xướng giám sát Hiến pháp cũng được mở
rộng, việc giải quyết tranh hậu quả do văn bản vi hiến gây ra cũng được tiến
hành triệt để hơn nhờ việc áp dụng hiệu quả hiệu lực hồi tố trong phán quyết
giám sát của mơ hình phi tập trung. Chính sự kết hợp các yếu tố được xem là
tích cực của hai mơ hình mà ưu điểm nổi bật của mơ hình giám sát Hiến pháp
hỗn hợp là sự linh hoạt trong hoạt động giám sát Hiến pháp, thẩm quyền bảo
vệ Hiến pháp là phạm vi, đối tượng áp dụng thẩm quyền được mở rộng nên
hoạt động giám sát Hiến pháp theo mơ hình này thực sự có hiệu quả.
1.2.4. Mơ hình cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan
giám sát Hiến pháp
Hiện nay ở Trung quốc, Cu Ba và một số nước khác trên thế giới khơng
có cơ quan bảo hiến chun biệt. Các nước này đều có quan điểm chung là
Quốc hội (Nghị viện) là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, không những
là cơ quan lập hiến, lập pháp mà còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
Quốc hội phải tự quyết định tính hợp hiến của một đạo luật. Nếu Quốc hội
trao quyền này cho một cơ quan khác phán quyết Quốc hội thì Quốc hội
khơng cịn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nữa. Mơ hình này cũng có
hạt nhân hợp lý của nó. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng nếu một cơ quan
vừa lập pháp vừa tự mình phán quyết đạo luật của mình làm ra có vi hiến hay
khơng thì cũng rất khó. Cho nên khi xây dựng mơ hình giám sát Hiến pháp
các quốc gia cần cân nhắc lựa chọn và xây dựng mơ hình giám sát Hiến pháp
21