Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Giáo dục đạo đức tại nhà trường việt nam trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.78 KB, 22 trang )

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TẠI NHÀ TRƯỜNG VIỆT NAM TRONG XU THẾ
TỒN CẦU HĨA HIỆN NAY
Chúng ta hiện đang sống trong thời đại tồn cầu hóa đầy cạnh tranh và thay
đổi. Trong quá trình thay đổi này, cần nhận thức sâu sắc bản chất và tác động của
quá trình này để giúp chúng ta giảm thiểu rủi ro. Đồng thời, phải phát triển kinh tế
bền vững, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời ngăn ngừa các nguy cơ
suy thối đạo đức xã hội. Trong bối cảnh đó, việc giáo dục đạo đức, giá trị sống
cho học sinh càng trở nên cấp thiết và cần chú trọng những nội dung thiết thực.
1. Giới thiệu
Chúng ta đang sống trong một thế giới tồn cầu hóa đầy cạnh tranh và năng
động. Q trình tồn cầu hóa này làm gia tăng mạnh mẽ sự tương tác và phụ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trước
hết và chủ yếu là lĩnh vực kinh tế, sau đó là các lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo
dục..., tạo ra những biến đổi và mối quan hệ chung trên toàn thế giới. khối cầu. Nó
đã trở thành một xu thế khách quan, tác động đến mọi mặt của đời sống con người,
đồng thời chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực,
vừa có sự hợp tác, vừa có sự cạnh tranh. Dưới góc độ kinh tế, tồn cầu hóa chủ yếu
được dùng để chỉ các tác động thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay
“thương mại tự do” nói riêng. Dưới cùng một góc độ này,
Tuy nhiên, trong q trình tồn cầu hóa đầy cạnh tranh và năng động này cũng
tiềm ẩn những thách thức, thậm chí có thể trở thành rủi ro, nhất là đối với các nước
đang phát triển bởi các nước này chịu sự chi phối, “chỉ đạo” của các nước tư bản
phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản liên quốc gia. Theo Suzanne Berger
trong Tồn cầu hóa và Chính trị , các hoạt động tiếp thị và xuất khẩu văn hóa Mỹ
đã làm suy yếu các giá trị và truyền thống quốc gia 1 . Nguyễn Văn Huyên cũng
nhận thấy tồn cầu hóa có thể làm thay đổi sai nhiều giá trị trong lối sống theo lý
tưởng nhân văn cao đẹp mà cha ông chúng ta đã vun đắp hàng ngàn năm qua, từ đó
làm suy thối các giá trị xã hội. 2 . Đồng quan điểm, Nguyễn Thị Thanh Huyền,
trong bài viết “ Tồn cầu hóa và nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống của người
Việt Nam hiện nay ” đã cảnh báo về những nguy cơ của tồn cầu hóa đối với đạo
đức lối sống của người Việt Nam.3 .


Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về tồn cầu hóa nói chung nhưng chưa có
nhiều cơng trình nghiên cứu một cách hệ thống về tác động của tồn cầu hóa đối
với giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng. Có thể kể đến một số cơng trình tiêu
biểu như: Phạm Văn Đức (2006), Tồn cầu hóa và tác động của nó đối với Việt


Nam 4 ; Lê Ngọc Trà (2009), Một số vấn đề của giáo dục Việt Nam trong bối
cảnh7 ; Trần Lê Bảo (2010), Đối thoại giữa các nền văn hóa trong xu thế tồn cầu
hóa 8 ; Phan Thanh Long (2015), Giáo dục đa văn hóa trong bối cảnh hội nhập và
tồn cầu hóa 9 …
Trong q trình hồn tồn năng động này, việc nghiên cứu cơ hội và nguy cơ nói
chung và giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng là rất cần thiết và có ý nghĩa
quan trọng. Học sinh đại diện cho một tầng lớp xã hội đặc biệt với trình độ văn hóa
nhất định. Các em nhạy bén, năng động tiếp thu tri thức mới, khẳng định giá trị
mới nhưng sự phát triển chưa hoàn thiện. Họ có hạn chế là tuổi đời cịn trẻ, dễ bị
tác động bởi những mặt tiêu cực của toàn cầu hóa, làm suy thối đạo đức, lối
sống. Vì vậy, trên cơ sở phân tích một số tác động của tồn cầu hóa đối với đạo
đức xã hội Việt Nam nói chung, bài viết đề xuất một số nội dung giáo dục đạo đức
cho sinh viên hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Những Tác Động Hai Mặt Của Tồn Cầu Hóa Đến Đạo Đức Xã Hội Việt
Nam
2.1.1. Hiệu quả tích cực
Tồn cầu hóa mang lại sự đa dạng và giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới, về
những giá trị do con người tạo ra trong quá khứ và hiện tại. Sự bùng nổ về nguồn
thông tin, phát triển du lịch, tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ văn hóa, giáo dục
tồn cầu sẽ góp phần khắc phục những hạn chế lịch sử của Việt Nam, một quốc gia
có nguồn gốc nông nghiệp. Những giá trị truyền thống sẽ được soi chiếu lại trong
q trình kế thừa có chọn lọc, những gì lỗi thời sẽ được lọc bỏ và thay thế bằng
cách tiếp thu và phát triển những giá trị tiến bộ. Khi tồn cầu hóa diễn ra ngày càng

mạnh mẽ, quá trình này sẽ càng được thúc đẩy. Thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên, là
chủ thể tiếp thu nhanh nhất các giá trị và tạo ra những sáng tạo, thay đổi.
Tồn cầu hóa tạo cơ hội tiếp cận những giá trị mới, đồng thời vai trò cá nhân sẽ
được đặc biệt chú trọng và nâng cao tương đối. Tồn cầu hóa sẽ mang lại cho
nguồn nhân lực Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, nhiều cơ hội việc làm với mức
lương cao trong nước cũng như nước ngoài tùy theo năng lực của mỗi cá
nhân. Thông qua việc tham gia thị trường lao động quốc tế, chúng ta sẽ tiếp thu
được các tiêu chuẩn giao tiếp toàn cầu, giúp chúng ta thu hẹp khoảng cách giữa các
đặc điểm quốc gia và quốc tế. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, giải trí tiếp thu
từ nước ngồi sẽ góp phần làm cho nền văn hóa nói chung và đời sống tinh thần
nói riêng của chúng ta ngày càng đa dạng, phong phú. Thế hệ trẻ nói chung và sinh


viên nói riêng sẽ được sống trong một mơi trường văn hóa sơi động, mang tính trí
tuệ, thẩm mỹ cao và được tiếp thu bởi công nghệ hiện đại. Đây là điều kiện tốt để
phát triển tối ưu khả năng nhận thức, đánh giá, ý thức, tình cảm của con người theo
tiêu chí của xã hội hiện đại, là cơ hội để con người Việt Nam phát triển tinh thần,
thể chất, trí tuệ và tình cảm.
Đối với một đất nước vốn mang nhiều dấu ấn văn hóa nơng nghiệp như Việt Nam,
lối sống, cách làm việc kiểu tiểu nông sẽ bị đổi mới và dần thay thế bằng lối sống
công nghiệp, khơng khí lối sống quốc tế. Con người sẽ bị cuốn vào nhịp sống của
kinh tế thị trường, kinh tế tri thức và khoa học công nghệ. Thế hệ trẻ, đặc biệt là
học sinh, sinh viên có thể sẽ bị cuốn vào tốc độ tiếp thu tri thức không ngừng tăng
cao. Phong cách lao động và làm việc công nghiệp hiện đại sẽ tạo ra những thay
đổi rõ rệt trong lối sống của người Việt Nam, nơi sẽ không cịn chỗ cho sự trì hỗn,
ỷ lại mà thay vào đó là sự năng động, nhạy bén và nắm bắt cơ hội.
Phong cách giao tiếp truyền thống của tiếng Việt sẽ nhanh chóng bị biến đổi theo
hướng nội địa hóa. Trong tồn cầu hóa, giao tiếp khơng chỉ giới hạn trong hành vi
ứng xử của con người mà liên quan đến mọi lĩnh vực hoạt động phổ biến của con
người. Truyền thơng đáp ứng nhu cầu kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và nhất là

đáp ứng các mối quan hệ tình cảm, ý chí, hiểu biết và hỗ trợ nhau cùng tiến
bộ. Khái niệm “Thế giới phẳng” của tồn cầu hóa sẽ từng bước mở rộng quan điểm
của người Việt Nam về giao tiếp. Các phương tiện khoa học, kỹ thuật và cơng nghệ
sẽ thúc đẩy tồn cầu hóa và trở thành phương tiện hữu hiệu để trao đổi và đồng hóa
các giá trị giữa con người với con người trong mơi trường tồn cầu mở.
2.1.2. Tác động tiêu cực
Tồn cầu hóa mang đến lối sống phương Tây cho đất nước chúng ta, và có thể thúc
đẩy một cách không đáng kể lối sống thực dụng, đánh giá cao các giá trị vật chất
và kinh tế thuần túy. Con người chạy theo lối sống thực dụng, vị kỷ đang làm tổn
hại đến đạo đức xã hội. Trong nhiều trường hợp, vì đồng tiền mà những giá trị gia
đình, tình thầy trị, giữa những người chúc tụng và đồng nghiệp bị chà đạp. Lối
sống thực dụng, vị kỷ đang dẫn đến sự vô cảm, vô cảm đối với những người xung
quanh, làm suy yếu mối liên hệ giữa cá nhân và cộng đồng.
Trong một xã hội như Việt Nam, nền kinh tế còn nghèo nàn, lối sống tiêu dùng dễ
dẫn đến những ngộ nhận trong đánh giá giá trị con người. Lối sống “sính ngoại” sẽ
trở thành lối nghĩ, lối sống của một bộ phận trong xã hội, dẫn đến hiện tượng chạy
theo tiện nghi vật chất dưới nhiều hình thức, kể cả những cách khơng lành mạnh,


trái pháp luật. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến phát sinh các tệ nạn
xã hội như: ma tuý, mại dâm, trác táng... Lối sống không lành mạnh dễ dẫn đến tư
tưởng coi thường thuần phong mỹ tục, thậm chí coi thường phẩm giá con người,
coi mọi thứ đều có thể trở thành hàng hố. Sự tác động này sẽ dẫn đến sự méo mó,
hủy hoại các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ xã hội, các trạng thái tinh thần truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta và đặc biệt là lý tưởng sống của mỗi cá nhân.
“Ô nhiễm” mơi trường văn hóa do Internet gây ra ngày càng đáng báo động. Hiện
tượng nghiện game online, Internet, sống trong thế giới ảo thay vì thế giới thực…
dẫn đến những hành vi coi thường chuẩn mực đạo đức, pháp luật để thỏa mãn “cái
tôi”. Chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích to lớn mà mạng tồn cầu đã và
đang mang lại trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, chúng ta không thể

không nhận thấy rằng, Internet cũng là con đường ngắn nhất, nhanh nhất tham gia
làm cho đạo đức, lối sống trở nên mất trật tự, suy thối. Trong khi đó, cơng tác
quản lý của chính quyền đối với lĩnh vực này cịn tuần hoàn, chưa phù hợp. Nhiều
phim ảnh, tin tức, ấn phẩm bạo lực, khơng phù hợp với văn hóa dân tộc, thậm chí
đi ngược lại lợi ích quốc gia,
2.2. Giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa
2.2.1. Giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh trong bối cảnh tồn
cầu
hóa
hiện
nay
2.2.1.1. giáo dục đạo đức
Ở phương Đông, từ rất sớm Khổng Khâu (551-479 TCN) đã đặc biệt coi trọng việc
giáo dục đạo đức. Mặc dù có tham vọng lớn về chính trị, nhưng con đường của ông
là giáo dục đạo đức, đề cao nhân, nghĩa, trung và hiếu (đức trị). Sau khi loại bỏ
những hạn chế, “tu thân” là tư tưởng xuyên suốt trong triết lý giáo dục của ông.
Ở phương Tây, triết gia Socrates (470-399 TCN) cho rằng đạo đức và tri thức quy
định lẫn nhau, nghĩa là đạo đức của con người là do tri thức mà ra, con người có tri
thức mới có đạo đức.
Aristotle (384 -322 TCN) tin rằng Chúa khơng bắt buộc phải có những cơng dân
hồn tồn có đạo đức, mà chính việc khám phá ra những nhu cầu trên trái đất đã
tạo nên một con người hoàn chỉnh trong các mối quan hệ đạo đức.
Petxtalodi (1746 - 1827), một trong những nhà giáo dục tiêu biểu của thế kỷ XIX,
đã đánh giá rất cao vai trị của giáo dục đạo đức. Ơng cho rằng vai trò trung tâm
của giáo dục là giáo dục đạo đức cho trẻ em, lấy tình yêu thương con người làm cơ
sở chung nhất. Tình yêu này bắt nguồn từ gia đình, trước hết là tình yêu thương


dành cho cha mẹ, anh chị em, thứ hai là tình yêu thương bạn bè và mọi người trong
xã hội.

C.Mác (1818-1883), người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, cho rằng: mục tiêu
giáo dục của chủ nghĩa xã hội là phát triển toàn diện con người. Con người phát
triển toàn diện là con người phát triển đầy đủ và phát huy tối đa tiềm năng của
mình về mọi mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, tình cảm, nhận thức, hiệu quả, thẩm mỹ,
có khả năng cảm nhận mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội xung quanh
Kế thừa truyền thống của tổ tiên, Đảng ta, với Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lãnh
đạo, ln quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho thanh niên bởi như Chủ tịch
nước thường nói: “ Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Trên thực tế,
nước ta giàu hay nghèo, mạnh hay yếu phần lớn đều phụ thuộc vào thanh
niên”, trong khi sinh viên chiếm một tỷ lệ rất lớn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản ta tiếp tục khẳng định vai trò, tầm quan
trọng của giáo dục và đào tạo. Đồng thời, Đảng đặc biệt coi trọng việc rèn luyện
đạo đức, phát triển nhân cách cho học sinh, sinh viên, hướng dẫn các em gắn việc
rèn luyện bản thân, lập nghiệp với tương lai của cộng đồng, dân tộc, bồi dưỡng
năng lực, phẩm chất, lối sống cho các em. của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại.
Có thể hiểu giáo dục đạo đức là q trình chủ thể giáo dục tác động đến đối tượng
giáo dục có mục đích, có hệ thống, có kế hoạch nhằm giúp đối tượng giáo dục
hình thành ý thức, tình cảm, niềm tin, thói quen đạo đức và cách ứng xử phù hợp
với xã hội. yêu cầu.
Giáo dục đạo đức không chỉ nâng cao trình độ nhận thức đạo đức mà còn bảo tồn
các giá trị, chuẩn mực đạo đức đã được thiết lập từ bao đời nay. Nó cũng tham gia
vào việc tạo ra những giá trị đạo đức mới và xây dựng những quan điểm, phẩm
chất đạo đức mới, tính tích cực nhận thức cho từng đối tượng giáo dục. Đồng thời,
giáo dục đạo đức cịn góp phần tích cực khắc phục những quan điểm đạo đức lạc
hậu, những giá trị nhân cách lệch chuẩn, đấu tranh với những hiện tượng phi đạo
đức đang đầu độc môi trường xã hội, xây dựng cơ chế bảo vệ chống lại sự suy
giảm các giá trị đạo đức, văn hóa trong nhân cách của mỗi cá nhân.
2.2.1.2. Giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa
hiện nay
* Giáo dục đạo đức phải hướng tới các giá trị truyền thống và hiện đại



Xã hội và kinh tế tri thức đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với việc tu
dưỡng đạo đức nhân văn. Trong nền kinh tế tri thức, hoạt động tạo ra tri thức và sử
dụng tri thức để tạo ra giá trị là trọng tâm và được coi trọng nhất. Lực lượng sản
xuất của xã hội loài người dần dần phụ thuộc chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con
người. Mặt khác, cuộc cách mạng thông tin cũng góp phần thay đổi tư duy con
người để bắt kịp thời đại mới. Trong khi công nghệ thông tin thâm nhập vào các
lĩnh vực kinh tế để tạo ra những công nghệ tiên tiến cho các lĩnh vực này, nó cũng
hỗ trợ và thúc đẩy q trình đổi mới tư duy, thay đổi quan điểm và cách tiếp
cận. Nó đòi hỏi con người phải đổi mới cách nghĩ, cách làm, thích ứng, làm chủ để
phát triển bản thân cũng như phát triển xã hội. Điều này một mặt tiếp tục giải
phóng sức lao động của con người, và địi hỏi sự kết nối, hợp tác, ứng biến, sáng
tạo và trao đổi với môi trường quốc tế để đạt đến một mức độ mới về mật độ và
cường độ. Mặt khác, nó cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với con người trong
các lĩnh vực giá trị đạo đức, tình cảm, thiện chí, trách nhiệm và ý thức tự nguyện.
Tuy nhiên, kinh tế tri thức dễ dẫn đến con người mù quáng theo đuổi những
phương tiện duy lý mà qn đi mục đích của nó. Chẳng hạn trong giáo dục hiện
nay, nội dung giáo dục tuy phong phú nhưng dường như mục tiêu giáo dục con
người, giáo dục nhân cách đạo đức chưa đạt được kết quả như mong đợi. Trong
q trình hội nhập với văn hóa phương Tây, một bộ phận thanh niên hiểu biết về
văn hóa truyền thống còn hạn chế. Họ hầu như chạy theo danh lợi, tiền bạc mà ít
quan tâm đến những yếu tố, giá trị tinh thần khiến họ dần dần mất đi sự đồng cảm,
lòng trắc ẩn và tủi hổ. Ngày nay, ngày càng có nhiều học sinh khơng tn thủ nội
quy, bng thả, ngỗ nghịch, học hành cẩu thả, thậm chí vi phạm pháp luật. Mặt
khác, do xu hướng tự phát của xã hội là cực kỳ coi trọng các quyền và tự do cá
nhân, sinh viên nghĩ rằng họ có quyền tự do và khơng ai có thể chỉ trích hay quản
lý họ. Sự tự do quá mức này dẫn đến những biểu hiện suy thoái về chuẩn mực đạo
đức trong các mối quan hệ xã hội giữa trò với thầy, giữa cha mẹ và con cái..., học
sinh thiếu lễ độ với thầy cô giáo, con cái bất hiếu, hiếu kính với cha mẹ, ơng

bà. Nhà trường nhiều khi chỉ quản lý những lĩnh vực liên quan đến kiến thức, kỹ
năng mà ít chú ý đào tạo con người kỷ luật, nhân phẩm. Nguy cơ một bộ phận
thanh niên, học sinh hiện nay lầm tưởng về các giá trị, coi thường các quy tắc,
chuẩn mực đã trở thành vấn đề nhức nhối đối với các bậc phụ huynh, các nhà giáo
dục và cán bộ quản lý giáo dục. và không ai có thể chỉ trích hay quản lý họ. Sự tự
do quá mức này dẫn đến những biểu hiện suy thoái về chuẩn mực đạo đức trong
các mối quan hệ xã hội giữa trò với thầy, giữa cha mẹ và con cái..., học sinh thiếu
lễ độ với thầy cô giáo, con cái bất hiếu, hiếu kính với cha mẹ, ơng bà. Nhà trường
nhiều khi chỉ quản lý những lĩnh vực liên quan đến kiến thức, kỹ năng mà ít chú ý


đào tạo con người kỷ luật, nhân phẩm. Nguy cơ một bộ phận thanh niên, học sinh
hiện nay lầm tưởng về các giá trị, coi thường các quy tắc, chuẩn mực đã trở thành
vấn đề nhức nhối đối với các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục và cán bộ quản lý
giáo dục. và khơng ai có thể chỉ trích hay quản lý họ. Sự tự do quá mức này dẫn
đến những biểu hiện suy thoái về chuẩn mực đạo đức trong các mối quan hệ xã hội
giữa trò với thầy, giữa cha mẹ và con cái..., học sinh thiếu lễ độ với thầy cô giáo,
con cái bất hiếu, hiếu kính với cha mẹ, ơng bà. Nhà trường nhiều khi chỉ quản lý
những lĩnh vực liên quan đến kiến thức, kỹ năng mà ít chú ý đào tạo con người kỷ
luật, nhân phẩm. Nguy cơ một bộ phận thanh niên, học sinh hiện nay lầm tưởng về
các giá trị, coi thường các quy tắc, chuẩn mực đã trở thành vấn đề nhức nhối đối
với các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục và cán bộ quản lý giáo dục. nơi học sinh
thiếu tôn trọng thầy cô giáo, con cái bất hiếu với ông bà cha mẹ. Nhà trường nhiều
khi chỉ quản lý những lĩnh vực liên quan đến kiến thức, kỹ năng mà ít chú ý đào
tạo con người kỷ luật, nhân phẩm. Nguy cơ một bộ phận thanh niên, học sinh hiện
nay lầm tưởng về các giá trị, coi thường các quy tắc, chuẩn mực đã trở thành vấn
đề nhức nhối đối với các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục và cán bộ quản lý giáo
dục. nơi học sinh thiếu tôn trọng thầy cô giáo, con cái bất hiếu với ông bà cha
mẹ. Nhà trường nhiều khi chỉ quản lý những lĩnh vực liên quan đến kiến thức, kỹ
năng mà ít chú ý đào tạo con người kỷ luật, nhân phẩm. Nguy cơ một bộ phận

thanh niên, học sinh hiện nay lầm tưởng về các giá trị, coi thường các quy tắc,
chuẩn mực đã trở thành vấn đề nhức nhối đối với các bậc phụ huynh, các nhà giáo
dục và cán bộ quản lý giáo dục.
Trong bối cảnh đó, xã hội tri thức và nền kinh tế tri thức rất cần tinh thần nhân văn
và lý tưởng giá trị. Hệ tư tưởng truyền thống tuy thiếu yếu tố dân chủ và khoa học
so với hiện đại, nhưng nếu chỉ lấy dân chủ và khoa học để đánh giá tài ngun văn
hóa dân tộc thì sẽ là phiến diện. Về lý luận truyền thống có cái gì đó về giá trị và
định hướng liên quan đến đạo đức, mỹ học, triết học. Ngồi ra, cịn có những quan
niệm về sự phát triển bản thân của con người, con người sử dụng lý trí để đối mặt
với thất bại, đánh giá cao ý nghĩa của hạnh phúc và thành công, cũng như trau dồi
nhân cách, các giá trị tinh thần và trân trọng cuộc sống. Chúng ta có thể phát triển
người Việt Nam về năng lực văn hóa, kinh nghiệm cá nhân với người khác, cũng
như khả năng vượt qua nghịch cảnh, làm cho mọi người có cái nhìn thấu đáo về
các giá trị nhân văn, tinh thần và sự tu dưỡng nhân cách. Những điều này không
chỉ mâu thuẫn với dân chủ và khoa học mà còn hỗ trợ cho sự phát triển của dân
chủ và khoa học. Những điều này rất phù hợp với sự phát triển của con người Việt
Nam mới, hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống mà người
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã rất thành công. Ở Xin-ga-po, từ những năm 80


của thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện xu hướng quay trở lại với truyền thống đạo đức
Nho giáo và cải biến nội dung các giá trị đạo đức Nho giáo (như Trung, Hiếu, Lễ,
Chính, Nghĩa...) trở thành nội dung hạt nhân. trong giáo dục đạo đức ở trường
học. Chính phủ Singapore gọi đó là “sự tùy biến Nho giáo của Singapore” [ Những
điều này không chỉ mâu thuẫn với dân chủ và khoa học mà còn hỗ trợ cho sự phát
triển của dân chủ và khoa học. Những điều này rất phù hợp với sự phát triển của
con người Việt Nam mới, hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa truyền
thống mà người Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã rất thành công. Ở Xin-ga-po,
từ những năm 80 của thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện xu hướng quay trở lại với
truyền thống đạo đức Nho giáo và cải biến nội dung các giá trị đạo đức Nho giáo

(như Trung, Hiếu, Lễ, Chính, Nghĩa...) trở thành nội dung hạt nhân. trong giáo dục
đạo đức ở trường học. Chính phủ Singapore gọi đó là “sự tùy biến Nho giáo của
Singapore” [ Những điều này không chỉ mâu thuẫn với dân chủ và khoa học mà
còn hỗ trợ cho sự phát triển của dân chủ và khoa học. Những điều này rất phù hợp
với sự phát triển của con người Việt Nam mới, hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản
sắc văn hóa truyền thống mà người Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã rất thành
công. Ở Xin-ga-po, từ những năm 80 của thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện xu hướng
quay trở lại với truyền thống đạo đức Nho giáo và cải biến nội dung các giá trị đạo
đức Nho giáo (như Trung, Hiếu, Lễ, Chính, Nghĩa...) trở thành nội dung hạt nhân.
trong giáo dục đạo đức ở trường học. Chính phủ Singapore gọi đó là “sự tùy biến
Nho giáo của Singapore” [ Những điều này rất phù hợp với sự phát triển của con
người Việt Nam mới, hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống
mà người Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã rất thành công. Ở Xin-ga-po, từ
những năm 80 của thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện xu hướng quay trở lại với truyền
thống đạo đức Nho giáo và cải biến nội dung các giá trị đạo đức Nho giáo (như
Trung, Hiếu, Lễ, Chính, Nghĩa...) trở thành nội dung hạt nhân. trong giáo dục đạo
đức ở trường học. Chính phủ Singapore gọi đó là “sự tùy biến Nho giáo của
Singapore” [ Những điều này rất phù hợp với sự phát triển của con người Việt Nam
mới, hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống mà người Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapore đã rất thành công. Ở Xin-ga-po, từ những năm 80 của
thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện xu hướng quay trở lại với truyền thống đạo đức Nho
giáo và cải biến nội dung các giá trị đạo đức Nho giáo (như Trung, Hiếu, Lễ,
Chính, Nghĩa...) trở thành nội dung hạt nhân. trong giáo dục đạo đức ở trường
học. Chính phủ Singapore gọi đó là “sự tùy biến Nho giáo của Singapore” [ nó bắt
đầu từ xu hướng quay trở lại với truyền thống đạo đức Nho giáo và điều chỉnh nội
dung các giá trị đạo đức Nho giáo (như Trung, Hiếu, Lễ, Nghĩa, v.v.) để trở thành
nội dung hạt nhân trong giáo dục đạo đức ở nhà trường. Chính phủ Singapore gọi


đó là “sự tùy biến Nho giáo của Singapore” [ nó bắt đầu từ xu hướng quay trở lại

với truyền thống đạo đức Nho giáo và điều chỉnh nội dung các giá trị đạo đức Nho
giáo (như Trung, Hiếu, Lễ, Nghĩa, v.v.) để trở thành nội dung hạt nhân trong giáo
dục đạo đức ở nhà trường. Chính phủ Singapore gọi đó là “sự tùy biến Nho giáo
của Singapore” [10 ; 103]. Ở đây cũng nói thêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất
chú trọng đổi mới thực chất các giá trị đạo đức Nho giáo để giáo dục đạo đức. Sự
giáo dục của ông về Trung, Hiếu, Cần, Kiệm, Khiêm tốn, Trung thực v.v.. ít nhiều
có nguồn gốc từ Nho giáo.
* Giáo dục đạo đức hướng đến các giá trị cơng dân tồn cầu
Trong nền kinh tế tồn cầu hóa, khơng thể khơng tồn tại văn hóa dân tộc và sự kế
thừa, sáng tạo văn hóa dân tộc tạo nên những thành tựu mới cho dân tộc và nhân
loại. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, việc phát huy văn hóa truyền thống góp phần
phát triển trong hội nhập là rất quan trọng. Thứ nhất, phải khắc phục, bài trừ những
ảnh hưởng tiêu cực của truyền thống văn hóa Nho giáo cịn sót lại. Nếu chúng ta
khơng tham gia với tư thế mới, hiện đại vào q trình tồn cầu hóa thì sẽ tự tạo cho
mình hình ảnh xấu, có những hành vi không phù hợp với thông lệ, chuẩn mực
chung của quốc tế, làm mất đi diện mạo phù hợp của con người Việt Nam trong
quá trình xây dựng xã hội hiện đại. Thói gia trưởng phong kiến, quan điểm giai cấp
xã hội, thói lệ thuộc, thói tơi tớ, thói coi thường pháp luật, tâm lý bảo thủ, và thiếu
tính độc lập v.v... đang cản trở sự phát triển và là chất độc đối với cơ thể của những
công dân Việt Nam hiện đại. Cần dựa vào sự xây dựng và phát triển các tiêu chuẩn
mới và giáo dục từ nhà trường và toàn xã hội để loại bỏ những mặt tiêu cực này
(tồn cầu hóa cũng sẽ giúp loại bỏ những mặt tiêu cực này). Những điều này phải
từng bước được khắc phục trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa.
cần tiếp thu và phát huy những ưu điểm của truyền thống văn hóa nước ta trong
q trình tồn cầu hóa để thế giới hiểu và đồng cảm với văn hóa nước ta. Chúng tơi
khơng chỉ đồng hóa văn hóa của chúng tơi mà cịn chuyển giao văn hóa của chúng
tơi. Sự tự tin của chúng ta sẽ được tạo ra khi truyền thống văn hóa đặc sắc của dân
tộc ta được phát huy và giới thiệu rộng rãi trên thế giới. Vấn đề hiện nay là làm sao
để tinh hoa truyền thống trở thành nguồn tri thức, trí tuệ thấm sâu vào giáo dục,
giúp lớp trẻ hiểu biết rộng về nội dung văn hóa dân tộc, thúc đẩy họ trở thành

những sứ giả văn hóa tự tin đối thoại, giao lưu với các nền văn hóa phương Tây ,
trong sự đồng hóa với văn hóa cổ truyền Việt Nam. Chúng tơi khơng chỉ đồng hóa
văn hóa của chúng tơi mà cịn chuyển giao văn hóa của chúng tôi. Sự tự tin của
chúng ta sẽ được tạo ra khi truyền thống văn hóa đặc sắc của dân tộc ta được phát
huy và giới thiệu rộng rãi trên thế giới. Vấn đề hiện nay là làm sao để tinh hoa


truyền thống trở thành nguồn tri thức, trí tuệ thấm sâu vào giáo dục, giúp lớp trẻ
hiểu biết rộng về nội dung văn hóa dân tộc, thúc đẩy họ trở thành những sứ giả văn
hóa tự tin đối thoại, giao lưu với các nền văn hóa phương Tây , trong sự đồng hóa
với văn hóa cổ truyền Việt Nam. Chúng tơi khơng chỉ đồng hóa văn hóa của chúng
tơi mà cịn chuyển giao văn hóa của chúng tơi. Sự tự tin của chúng ta sẽ được tạo
ra khi truyền thống văn hóa đặc sắc của dân tộc ta được phát huy và giới thiệu rộng
rãi trên thế giới. Vấn đề hiện nay là làm sao để tinh hoa truyền thống trở thành
nguồn tri thức, trí tuệ thấm sâu vào giáo dục, giúp lớp trẻ hiểu biết rộng về nội
dung văn hóa dân tộc, thúc đẩy họ trở thành những sứ giả văn hóa tự tin đối thoại,
giao lưu với các nền văn hóa phương Tây , trong sự đồng hóa với văn hóa cổ
truyền Việt Nam.
Trong q trình đổi mới giáo dục, chúng ta phải sửa chữa những sai lầm trước đây
từ truyền thống văn hóa của chúng ta. Cần phê phán những cái chưa được phê phán
triệt để và kế thừa, phát triển những cái chưa kế thừa, phát triển. Và ngược lại,
chúng ta phải khắc phục sự yếu kém về nhận thức lịch sử của thế hệ trẻ, nhất là khi
còn một số bộ phận học sinh hiểu biết về lịch sử dân tộc một cách hời hợt. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này, trong đó có nguyên nhân từ giáo dục và
giảng dạy bộ môn lịch sử. Một số người, trong đó có học sinh, sinh viên chưa quan
tâm đến việc học tập, tìm tịi, nghiên cứu về lịch sử dân tộc. Đối với họ, biết bao sự
kiện lịch sử trọng đại đã xa vời và vì thế, chúng chẳng có ý nghĩa gì đối với họ
cả. Điều này dẫn đến một bộ phận chúng ta không tôn trọng các anh hùng vĩ đại
của dân tộc cũng như các nhà tư tưởng, nhà văn hóa, nhà giáo dục nổi tiếng trong
lịch sử nước ta. Nhìn sang nước Mỹ, chúng ta thấy họ luôn trân trọng lịch sử hơn

300 năm của mình. Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều cách thức và phương tiện khác nhau
để giáo dục giới trẻ hiểu biết tốt về lịch sử ngắn ngủi của họ. Chúng ta cần hành
động quyết liệt như họ. Chúng ta cần thay đổi toàn diện mục tiêu, nội dung,
phương pháp, hình thức dạy học lịch sử, trong đó bên cạnh việc giáo dục các giá trị
thời đại, giá trị thế giới, cần phải nâng cao giáo dục lịch sử với những giá trị và
niềm tự hào của dân tộc mình. dân tộc riêng. chúng tơi thấy rằng họ luôn trân trọng
lịch sử hơn 300 năm của họ. Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều cách thức và phương tiện
khác nhau để giáo dục giới trẻ hiểu biết tốt về lịch sử ngắn ngủi của họ. Chúng ta
cần hành động quyết liệt như họ. Chúng ta cần thay đổi toàn diện mục tiêu, nội
dung, phương pháp, hình thức dạy học lịch sử, trong đó bên cạnh việc giáo dục các
giá trị thời đại, giá trị thế giới, cần phải nâng cao giáo dục lịch sử với những giá trị
và niềm tự hào của dân tộc mình. dân tộc riêng. chúng tôi thấy rằng họ luôn trân
trọng lịch sử hơn 300 năm của họ. Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều cách thức và phương
tiện khác nhau để giáo dục giới trẻ hiểu biết tốt về lịch sử ngắn ngủi của họ. Chúng


ta cần hành động quyết liệt như họ. Chúng ta cần thay đổi toàn diện mục tiêu, nội
dung, phương pháp, hình thức dạy học lịch sử, trong đó bên cạnh việc giáo dục các
giá trị thời đại, giá trị thế giới, cần phải nâng cao giáo dục lịch sử với những giá trị
và niềm tự hào của dân tộc mình. dân tộc riêng.
2.2.2. Nội dung giáo dục đạo đức cơ bản
2.2.2.1. Giáo dục lòng yêu nước, hiếu thảo cho cha mẹ

cho

học

sinh

Thứ nhất, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc. Giáo dục lòng yêu nước, ý

thức dân tộc là một yếu tố đánh giá thang giá trị đạo đức của người Việt Nam. Giáo
dục lòng yêu nước giúp học sinh hình thành nhận thức đúng đắn, từ đó có hành
động thực tiễn sau này, giúp các em có định hướng đúng đắn cho công việc sau
này. Trong chiến tranh, chúng ta đã hy sinh rất nhiều, cả nhân lực và vật lực, nhưng
trong q trình đất nước hịa bình phát triển, chúng ta lại mất cảnh giác, lơ là, mất
cảnh giác, nhất là khi các thế lực thù địch liên tục chống phá Chính quyền bằng
nhiều thủ đoạn tinh vi.
Giáo dục lịng u nước phải đi đơi với giáo dục truyền thống và bản sắc văn hóa
dân tộc, dạy cho học sinh cách ứng xử phù hợp trước những vấn đề của xã hội và
tình hình hiện nay, giúp các em rèn luyện khả năng tự chủ trong hành động của
mình, đấu tranh với những biểu hiện lệch lạc. trong suy nghĩ. Tồn cầu hóa cùng
với thị trường rộng mở hiện nay và những thay đổi của đời sống quốc tế đang tác
động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống trong nước. Một mặt, tác động này làm cho
mỗi người trở nên chủ động, nhạy bén và thích ứng nhanh hơn trước những biến
động phức tạp của xã hội hiện đại. Mặt khác, nó cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến
tình cảm, ý thức dân tộc đối với một bộ phận sinh viên. Mọi biến động dù lớn hay
nhỏ trong đời sống kinh tế - chính trị hàng ngày, sẽ ảnh hưởng nhanh chóng và rõ
rệt đến lớp học sinh. Vì vậy, với sự nhạy cảm của học sinh, nếu không được định
hướng đúng đắn, các em rất dễ bị kích động, lơi kéo, có những hành động bộc phát,
dẫn đến hậu quả khó lường.
Giáo dục lịng u nước, tinh thần tự hào dân tộc còn khơi dậy cho học sinh thêm
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước ta trong
thời kỳ đổi mới của đất nước hiện nay. Qua đó cũng giúp các em học sinh có thêm
niềm tin, động lực để cố gắng học tập, rèn luyện bản thân tốt hơn để mai sau phụng
sự tốt hơn cho đất nước và nhân dân ta.
Giáo dục lòng hiếu thảo đối với cha mẹ . Hiếu thảo với cha mẹ là thể hiện lịng
kính trọng, u thương, sẵn sàng phụng dưỡng cha mẹ. Với trách nhiệm và bổn


phận của mình, con cái phải biết ơn cơng ơn sinh thành, dưỡng dục của cha

mẹ. Đây là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của một đứa trẻ và một con người.
Từ xưa đến nay, truyền thống Việt Nam luôn coi trọng chữ “hiếu”. Cùng với ảnh
hưởng của Nho giáo từ xa xưa, người Việt Nam đã coi chữ hiếu là đạo đức cơ bản
của con người. Mọi đức tính của con người đều bắt nguồn từ sự tu dưỡng, ứng xử
trong gia đình. Vì vậy, lịng hiếu thảo phải bắt đầu từ việc kính trọng những người
thân trong gia đình, trong đó có ơng bà, cha mẹ, rồi mới tiếp tục cư xử tốt với
những người xung quanh. Đối với bất kỳ cuộc đời con người nào cũng vậy, tất cả
đều bắt đầu từ mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, trước hết là với cha
mẹ. Nếu một người khơng ý thức được lịng hiếu thảo đối với cha mẹ thì làm sao
giải quyết tốt các mối quan hệ với anh chị em, bạn bè, thầy cô, đồng nghiệp, tập
thể, cộng đồng, quốc gia.
Để thực hiện tốt “đạo hiếu” thì bắt buộc phải thực hiện “sự kính trọng”. Tăng Tử
từng nói: Hiếu có ba bậc. Bậc nhất là hiếu kính cha mẹ, bậc thứ hai là không làm ô
danh cha mẹ, bậc thấp nhất chỉ là phụng dưỡng ( Lễ Thư). Thời xưa, chữ hiếu được
đề cao, trước hết là đối với cha mẹ. Đương nhiên, điều kiện chu cấp cho cha mẹ
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, dù giàu hay nghèo. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng
nhất vẫn là tư tưởng và tình cảm kính trọng, yêu thương của người con đối với cha
mẹ. Chỉ “cung cấp” cho cha mẹ thơi thì chưa đủ. Trong “Lễ kinh” cũng có nói, đứa
con có hiếu thì tình cảm sâu nặng, hịa thuận thì tất nhiên vui vẻ, niềm vui tất nhiên
sẽ đồng cảm. Một khía cạnh quan trọng của lòng hiếu thảo là nhấn mạnh rằng lịng
hiếu thảo phải xuất phát từ tình u thương cha mẹ sâu thẳm trong trái tim và khối
óc của người con.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể thấy rằng, ý nghĩa nhân
văn sâu sắc mà tư tưởng truyền thống hiếu thảo đề cao vẫn giữ nguyên giá trị tích
cực và hợp lý, đáng để chúng ta kế thừa và bổ sung thêm những ý nghĩa mới để nó
trở thành phẩm chất đạo đức cần thiết cho thế hệ trẻ Việt Nam. trau dồi và làm
theo.
Từ khi dựng nước, chúng ta đã kế thừa và phát huy hơn nữa đạo lý truyền thống
“hiếu thảo với cha mẹ”. Trong “ Luật hôn nhân và gia đình” có đề cập đến trách
nhiệm phụng dưỡng của con cái đối với cha mẹ. Phúc lợi xã hội công cộng cũng

xây dựng và phát triển các chuẩn mực hành vi như ưu tiên, tôn trọng người lớn
tuổi, tạo môi trường đạo đức xã hội lành mạnh, tốt đẹp.
Hiếu thảo với cha mẹ là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của đạo làm người. Thật
khó tưởng tượng một người không ý thức được chữ hiếu đối với cha mẹ lại có thể


trở thành một người yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Tuy nhiên, có hiện tượng một bộ
phận thanh niên sau khi tốt nghiệp, thành đạt trong sự nghiệp đã quên mất công ơn
nuôi dưỡng, giáo dục của cha mẹ, coi thường quê cha, mẹ xuất thân lao động, trình
độ văn hóa thấp. Thậm chí, có những đứa con bất hiếu, vô lương tâm, lừa gạt cha
mẹ hết tiền bạc, nhà cửa, đất đai rồi quay lưng đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão,
thậm chí có thể tiễn cha mẹ ra đường. Thực trạng đó đã đặt ra một vấn đề, đó là các
trường học từ phổ thơng đến đại học phải coi trọng việc giáo dục lòng hiếu thảo
đối với cha mẹ. Nói chung, tuổi trẻ tuy chưa có khả năng phụng dưỡng cha mẹ
nhưng cần xây dựng nhân sinh quan yêu thương, hiếu thảo đối với cha mẹ. Hành
động của các em phải thể hiện sự quan tâm, chăm sóc, kính trọng và u thương
cha mẹ.
2.2.2.2. Giáo dục tính siêng năng, yêu lao động và tiết kiệm
Siêng năng, yêu lao động, cần kiệm là những tính cách quan trọng cần thiết đối với
mỗi người. Siêng năng là nỗ lực lao động, làm việc, khơng từ chối cơng việc dù
khó khăn gian khổ, công sức tạo ra của cải. Tiết kiệm là ý thức được sự quý trọng
kết quả lao động. Trái ngược với cần cù, tiết kiệm là sự lười biếng, xa hoa.
Cần, kiệm, kiệm được ông cha ta đúc kết từ thực tiễn cuộc sống lâu đời, trở thành
một trong những truyền thống tiêu biểu, cơ bản của dân tộc Việt Nam. Trong kho
tàng ca dao, tục ngữ của chúng ta, có rất nhiều câu đúc kết về đức tính cần cù như
“Khơng khổ khơng cơng” hay “Xã hội trọng tài sản/ Không ai ưa kẻ vô công rỗi
nghề”. Nếu trong cộng đồng có kẻ lười biếng, cổ nhân sẽ phê bình để cảnh tỉnh họ:
“Đàn bà khơng biết chăn lợn là đàn bà lười/Đàn ông không biết buộc dây là đàn
ơng hư”. Nói về tính tiết kiệm, ông cha ta đã đúc kết như sau: “Được mùa chớ bỏ
ngơ bỏ khoai/Mất thất bát lấy gì mà ăn?” Trong cuộc sống hàng ngày, họ không

bao giờ “sống qua ngày” hay “sống q khả năng của mình” mà ln tâm niệm
phải cẩn thận, cẩn trọng. “Tiêu cơm xẻ áo”, “Đói thì tích cóp, rét thì tích áo”. Tiết
kiệm khơng có nghĩa là keo kiệt, mà là tiêu đủ để sống lâu, “tiết kiệm được một
xu”. Có thể khẳng định rằng ở bất kỳ thời đại nào, từ những người bình thường tiều
tụy cho đến những người giàu sang, quyền cao chức trọng, ăn ngon mặc đẹp…,
không ai phủ nhận rằng cần kiệm là một đức tính tốt, một trong những yếu tố quyết
định để đảm bảo kinh tế gia đình, và là phương tiện hữu hiệu để quản lý đất nước.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta hàng nghìn năm nay, có một quy luật phổ biến được coi
là “tiết kiệm là ích nước, xa hoa là hại nước”.


Có thể nói, tiết kiệm là phương thức phổ biến rất cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, dân tộc và đất nước. Chính nhờ cần cù
lao động, sản xuất mà mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi quốc gia mới có được sản
phẩm, tài sản để tiêu xài trong đời. Đồng thời, nếu cần cù, chăm chỉ mà không đi
đôi với hạn chế chi tiêu, tiết kiệm thì dù làm ra nhiều tài sản cũng sẽ khơng
đủ. Mỗi gia đình một mặt phải lao động cần cù làm ra của cải, mặt khác phải biết
tiết kiệm, quý trọng của cải do lao động làm ra và phải biết “Đói thì tích cóp, rét thì
tích áo”. Có như vậy mới giữ cho gia đình sống có kế hoạch và khiến gia đình trở
nên sung túc, sung túc.
Trong quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo,
truyền thống đó càng được phát huy và trở thành một trong những nội dung tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người coi cần, kiệm là quy tắc đạo đức cơ bản
mà mỗi người, nhất là cán bộ nhà nước phải quán triệt và không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện.
Hoàn cảnh xã hội mà thanh niên, học sinh đang sống đang có nhiều thay đổi to lớn.
Các em là lực lượng chủ lực sau này sẽ trở thành chủ nhân của đất nước, các em
phải kế thừa và phát huy truyền thống cần, kiệm, liêm, chính. vun đắp những
truyền thống đó trở thành phẩm chất nền tảng đạo đức của chính mình. Tuy nhiên,
hiện nay đang có hiện tượng thế hệ trẻ chạy theo lối sống tiêu xài, xa xỉ khi còn

quá sớm. Hiện tượng này rất dễ dẫn đến những hậu quả không mong muốn. Lười
biếng, xa hoa, phóng đãng khơng làm việc là ngun nhân chính của mọi tội ác và
tệ nạn xã hội. Ngày xưa, nguyên nhân dẫn đến suy vong được khái quát là “lười
biếng, tham, giành, tham, nhũng”. Rất nhiều sự kiện đã chứng minh nền tảng của
sự khái quát hóa này. Thế hệ trẻ ngày nay là rường cột cơ bản của đất nước ta trong
thế kỷ XXI. Ngay từ bây giờ và ngay từ trong nhà trường, cần nghiêm khắc giáo
dục các em ngăn chặn ngay từ đầu những thói hư tật xấu dễ làm tha hóa con người,
xây dựng nhận thức về vinh quang của lao động và lối sống cần kiệm, lên án thói
lười biếng, xa hoa, tự giác tham gia lao động cơng ích trong và ngồi nhà trường,
tích cực giúp đỡ các cơng việc gia đình. Trong cuộc sống cá nhân, họ không nên
khoe khoang, mong muốn hư danh, so sánh với người khác và đố kỵ với người
khác. Các em cũng khơng nên địi hỏi cha mẹ những điều vượt quá điều kiện kinh
tế của gia đình. Các em cần thực hành tiết kiệm các nguồn lực từ gia đình, nhà
trường và xã hội, yêu quý và bảo vệ tài sản công cộng, đấu tranh chống các hành vi
tiêu dùng phơ trương lãng phí, hủy hoại tài sản cơng. Các em cần rèn luyện tư duy
và thói quen, phẩm chất tốt, cần cù, tiết kiệm, có ý chí vượt khó.


2.2.2.3. Giáo dục Truyền thống “tơn sư trọng đạo”, Đồn kết tương thân
tương ái
Trong thời đại hiện nay, tinh thần “ tôn sư trọng đạo” cũng cần được đề cao. Đó
khơng chỉ là nhu cầu của sự phát triển mà còn là biểu hiện của văn minh và tiến bộ
xã hội. Học sinh, sinh viên phải tự giác rèn luyện tinh thần tôn sư trọng đạo, tôn sư
trọng đạo. Cần xây dựng cho các em ý thức tôn sư trọng đạo, hiểu đạo lý, hiểu rằng
“tôn sư trọng đạo là làm cho nước nhà hưng thịnh”. Nghĩa là các em phải học theo
thầy dạy, chăm học, đền đáp công ơn thầy cơ bằng kết quả học tập, thành tích cơng
tác tốt.
Đoàn kết tương thân tương áilà truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta “Anh em như
thể tay chân/ Khó khăn thì đùm bọc nhau”, “Lá lành đùm lá rách”, “Tấm lụa đỏ
che gương, Đồng hương tương thân tương ái”. khác”... Trong thời đại đổi mới,

cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là trong q trình phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức và hành động về cạnh tranh đã
hình thành một phẩm chất đạo đức mới. Tuy nhiên, cạnh tranh phải dựa trên các
quy tắc đạo đức, nghĩa là cạnh tranh công bằng, cởi mở, thẳng thắn và phù hợp,
phản đối cạnh tranh khơng chính đáng, cạnh tranh khơng lành mạnh. Cạnh tranh,
thống nhất và yêu thương hỗ trợ lẫn nhau có thể cùng tồn tại. Mối quan hệ giữa
con người với nhau đoàn kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau khơng thể vì tranh
giành mà tổn hại được. Tương tự như vậy,
Thế hệ trẻ ngày nay cần có phẩm chất đạo đức là đoàn kết, tương thân tương ái,
nghĩa là phải tập quan tâm, đồn kết với người khác, khơng thể chỉ biết lo cho bản
thân mà khơng có tình cảm với những người xung quanh. Họ cũng nên có sự đồng
cảm với người khác và cung cấp hỗ trợ cho người khác. Đối với những người gặp
khó khăn trong sinh hoạt và trong học tập, nhất là người tàn tật, các em phải sẵn
sàng giúp đỡ, tôn trọng, tin tưởng, khơng kỳ thị, khinh miệt. Phải biết “tìm điểm
tương đồng và tôn trọng những điểm khác biệt của nhau”, phải khiêm tốn và độ
lượng. Họ cũng phải coi trọng sự thống nhất mà khơng tạo băng nhóm và gây chia
rẽ; kiên nhẫn, công bằng, thẳng thắn, hợp lý và hợp pháp trong cạnh tranh; hợp tác
và chống cạnh tranh bất hợp pháp, đồn kết đa số,
Cơng bằng mà nói, truyền thống văn hóa của dân tộc ta đã trải qua hơn một thế kỷ
giao thoa với văn hóa phương Tây, đặc biệt là trải qua những thách thức trong hội
nhập và tồn cầu hóa, đổi mới và mở cửa trong suốt 30 năm qua. Điều cần thiết là
chúng ta khơng đánh mất, mai một những giá trị của mình trong khi tiếp thu những


giá trị tốt đẹp của các dân tộc khác, phải dám nhìn thẳng vào những ưu điểm và
hạn chế của truyền thống văn hóa nước ta để khắc phục những hạn chế đó, và trong
q trình hiện đại hóa đất nước, chúng ta không coi nhẹ xây dựng con người mới
hiện đại mà vẫn giữ truyền thống. Có như vậy, truyền thống văn hóa của chúng ta
mới có chỗ để phát huy những giá trị tích cực của nó.
2.2.2.4. Giáo dục tính siêng năng trong học tập, khiêm tốn, lễ phép

Giáo dục ý chí chun cần trong học tập. Thơng qua mối liên hệ chặt chẽ giữa
“xây dựng ý chí” và “chuyên cần học tập”, có thể xác định mối quan hệ biện chứng
giữa phương hướng và đạo đức tích lũy tri thức để trở thành nhân tài. Một người
chỉ có thể có quyết tâm học tập chăm chỉ và siêng năng nếu anh ta có thể thiết lập ý
thức nhất quán về mục đích. Tương tự như vậy, một người chỉ có thể thực hiện ý
thức kiên định về mục đích của mình bằng sự nghiên cứu siêng năng và kiên nhẫn.
Để giáo dục ý chí chuyên cần trong học tập, trước hết là giáo dục tinh thần học tập
nghiêm túc, cẩn thận, xây dựng và phát huy văn hóa đọc, tinh thần học tập khơng
ngừng. Thứ hai, là giáo dục ý chí vượt khó khăn, nỗ lực cần cù, kiên trì học tập rèn
luyện để thành tài. Thứ ba, giáo dục ý chí lập thân, lập nghiệp, trước hết là lo cho
bản thân, sau là báo đáp công ơn cha mẹ, thầy cơ, đóng góp cho cộng đồng, xã hội
và đất nước.
Học tập là con đường cơ bản để lĩnh hội tri thức và cũng là yêu cầu quan trọng để
giáo dục con người trưởng thành, có ích. Học sinh, sinh viên ngày nay hãy kế thừa
và phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta đã được truyền lại hàng nghìn
năm. Chính trong q trình học tập và rèn luyện, con người mới khám phá và trau
dồi năng lực bản thân, ni dưỡng ước mơ, hồi bão, hình thành ý chí để biến ước
mơ, hồi bão thành hiện thực. Để làm được điều này, trong quá trình học tập cần
tìm cho mình một phương pháp học tập khoa học, biến việc học tập trở thành niềm
vui và đam mê. Cần biết cách quản lý thời gian hiệu quả để nâng cao hiệu quả học
tập. Ngoài ra, kiến thức phải gắn với hành, học đi đôi với hành, và việc học không
chỉ giới hạn trong sách vở mà còn bao gồm cả việc học từ thực tiễn của cuộc
sống. Chúng ta học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để khẳng
định mình.
Giáo dục tính khiêm tốn, lễ độ. Lời nói, hành động, cách ứng xử của con người
phải phù hợp với những chuẩn mực về tác phong nhất định, nhẹ nhàng, thân thiện,
lịch sự và khiêm tốn. Đó là việc tu dưỡng văn hóa, phẩm chất đạo đức cần thiết cho
học sinh, sinh viên hiện nay.



Khiêm tốn là đức tính quan trọng của mỗi người. Nó trái ngược với sự kiêu ngạo,
tự cho mình là trung tâm và chủ nghĩa vị kỷ. Những người khiêm tốn có thể đối xử
với người khác một cách cơng bằng, chặt chẽ và họ cũng nhận thức được bản thân
và những người khác. Tầm quan trọng của khiêm tốn là tìm ra khuyết điểm của
mình và ưu điểm của người khác, lấy ưu điểm của mình để bù đắp khuyết
điểm. lịch sựđề cập đến những lời nói và cử chỉ khiêm tốn và tơn trọng. Nó mâu
thuẫn với sự thơ lỗ và phóng túng. Nó cũng bao gồm tình bạn và mức độ thân thiện
giữa con người với con người, lời nói và cử chỉ nhã nhặn, nét mặt dịu dàng, vui vẻ
và lịch sự. Điểm chính của phép lịch sự là tơn trọng người khác. Để có được những
phẩm chất này, con người cần phải rèn luyện từ thời thơ ấu để hình thành những
thói quen, giống như những phản ứng có điều kiện. Khi đã thành thói quen, sự tôn
trọng sẽ được thể hiện một cách tự nhiên như thể xuất phát từ trái tim, và sẽ chân
thành không chút miễn cưỡng.
Trong một số ý nghĩa khác, khiêm tốn là cơ sở của sự lịch sự. Lễ phép là biểu hiện
bên ngoài của sự khiêm tốn, nhún nhường. Đây là những liên quan chặt chẽ. Cơ sở
tư tưởng chung của chúng ta bắt nguồn từ sự tôn trọng người khác, nhận thức và
đánh giá chính xác về bản thân.
Khiêm tốn, lễ độ là điều kiện cần thiết để duy trì tình bạn, sự hài hịa trong quan hệ
giữa người với người trong cuộc sống. Cũng có thể nói, khiêm tốn, lễ phép phải trở
thành tiêu chí bản sắc thể hiện bộ mặt tinh thần, phẩm chất văn hóa của mỗi cá
nhân cũng như của tồn xã hội.
Học sinh hôm nay thực chất là lớp tri thức ngày mai, những người tiếp nhận nền
giáo dục mới, những người được kỳ vọng cao về sự khiêm tốn, lễ phép. Giữa con
người với nhau phải có quan hệ cơng bằng, sống thân thiện với nhau. Ở nơi công
cộng, học sinh phải có tác phong chuẩn mực, hịa nhã, văn minh, lịch sự. Đối với
người khác và trong khi diễn ra sự việc phải chủ động, nhiệt tình, đàng hồng. Đối
với người nước ngồi phải có cách cư xử lịch sự, khơng hạ thấp, khơng tự cao,
đồng thời thể hiện lịng hiếu khách và tinh thần văn hóa dân tộc.
2.2.2.5. Giáo dục kỷ luật, khoan dung, chân thành và đáng tin cậy
Tự giác là nghiêm khắc với bản thân trong việc áp dụng các chuẩn mực đạo đức,

chuẩn mực hành vi nhất định để giữ cho hành vi, thói quen của bản thân không bị
lệch chuẩn mực. Khoan dung với người khác thể hiện tấm lịng rộng mở, độ lượng
khơng thành kiến, và sự thân thiện, đoàn kết khi đối xử với người khác. Kỷ luật tự
giác là cơ sở của sự khoan dung đối với người khác. Khoan dung với người khác


cũng là một phần mở rộng của kỷ luật tự giác. Khoan dung với người khác khơng
có nghĩa là khơng nhất quán với các quy tắc, hoặc từ bỏ quan điểm của mình để
nhường chỗ cho những sai lầm khác để đạt được sự hài hịa. Nó có nghĩa là bảo vệ
lợi ích chung và tồn bộ và duy trì sự thân thiện, cảm thông, lịch sự và khiêm tốn
giữa các cá nhân.
Kỷ luật với bản thân và khoan dung với người khác là những phẩm chất tốt đẹp của
các bậc trí sĩ và nhà hiền triết trong lịch sử nước ta. Khổng Khâu cũng từng nói:
“Tự mình ngay thẳng, khơng cần mệnh lệnh thì người ta cũng theo; tự mình bất
chính, sai khiến người ta cũng khơng theo” 11 ; 257. Người cũng nhấn mạnh “có
người khơn thì ai cũng muốn được như người khôn, nếu người không khôn thì
mình phải xét lại mình xem mình có khơn bằng không” [ 11 ; 142]. Tất cả những
điều này là sự trình bày ngắn gọn về kỷ luật tự giác.
Trong cuộc sống thực tế, người ta thường thấy mâu thuẫn giữa con người với
nhau. Nó cũng phát sinh rằng mọi người hiểu lầm hoặc ghen tị với người khác. Do
đó, kỷ luật tự giác và lòng khoan dung đối với người khác rõ ràng là rất quan
trọng. Người ta thường nói “nhân hịa thì vạn vật thịnh”. Nếu mọi người có thể “tự
phê bình thay vì trách móc người khác, và khoan dung với người khác trước khi
tha thứ cho chính mình” thì sự chia ly có thể được thay thế bằng sự đoàn kết. Kỷ
luật tự giác và khoan dung với người khác có thể tối ưu hóa nhân cách của chúng
ta, nâng cao phẩm chất đạo đức của chúng ta, khiến chúng ta cảm thấy thoải mái và
dễ dàng, đồng thời thúc đẩy sự nghiệp thành công và thịnh vượng của chúng ta.
Để học sinh ngày nay, trong thực tế hay cuộc sống nói chung, rèn luyện, tu dưỡng
tính tự giác, bao dung với người khác, cần chú trọng những mặt sau:
Chúng ta phải biết tự xét mình.“Mỗi ngày tơi tự xét mình ba lần”. Phải biết tự đánh

giá lời nói và hành vi của mình, biết những khuyết điểm, hạn chế của mình để tìm
ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Chúng ta cần xây dựng một tư tưởng
tương thân tương ái, tuân thủ phép tắc đối nhân xử thế “nhân nghĩa, lễ nghĩa,
khiêm tốn và hịa hợp”, biết suy nghĩ ở vị trí của người khác, không nên gian dối,
nghi kỵ, thù hận, thành kiến. Chúng ta nên tích cực làm việc thiện và giúp đỡ
người khác, đầy lòng yêu thương và chân thành, nghiêm khắc kiểm điểm bản thân
và tìm ra nguyên nhân khách quan (biết lỗi của mình trước khi đổ lỗi cho người
khác) mỗi khi có xung đột, bất đồng với người khác. Chúng ta khơng nên “ép
người khác làm điều mình khơng muốn”, hãy mở rộng lịng mình, và khơng nên sợ
hãi, thù hận mỗi khi bị đố kỵ, hắt hủi mà phải bao dung, hòa giải. Chúng ta phải


đồng lịng, đồn kết và cùng làm việc với những người bất đồng quan điểm, theo
triết lý “tìm điểm tương đồng và tôn trọng sự khác biệt”.
Trung thực và đáng tin cậy có nghĩa là lời nói và hành động của chúng ta phải đi
đôi với suy nghĩ của chúng ta, không ngụy trang và lừa dối, và chúng ta phải coi
trọng sự tín nhiệm trong hành động của mình. Trung thực và đáng tin cậy có liên
quan mật thiết với nhau. Trung thực là tư tưởng cơ bản của việc giữ chữ tín. Giữ
chữ tín là biểu hiện bên ngồi của sự trung thực. Chúng ta chỉ có thể có được sự tin
tưởng khi chúng ta trung thực trong trái tim mình, trung thực với người khác và
chân thành trong cơng việc của mình.
Ngày xưa dân tộc ta đề cao chữ tín là một phẩm chất tốt đẹp của chủ nghĩa nhân
văn. Kong Qiu cũng nói “nếu một người khơng đáng tin cậy, thì khơng chắc anh ta
có thể làm được gì” 11 ; 120. Xã hội của chúng ta cũng coi trọng niềm tin và sự tự
phát triển. Zeng Zi, một học trị của Kong Qiu, từng nói rằng “Hàng ngày, tơi tự xét
mình trong ba lĩnh vực: Tơi đã làm hết sức mình khi làm việc gì cho người khác
chưa? Tơi có đáng tin cậy trong giao dịch với bạn bè không? Tôi đã áp dụng những
bài học mà tôi đã được dạy vào thực tế chưa?” 11 ; 103. Những phẩm chất tốt đẹp
được Nho giáo từ thời Khổng Khâu nhấn mạnh bao gồm: “Lời nói phải tin cậy,
hành động phải có kết quả. Lời nói phải suy nghĩ có cân nhắc, hành động phải dứt

khốt”.
Tục ngữ của ơng cha ta cũng nói người thơng minh nhất là người trung thực. Đó là
bởi vì chỉ những người trung thực mới có thể vượt qua các khảo nghiệm của sự
thật và lịch sử. Những câu nói nổi tiếng được truyền lại từ xa xưa cho chúng ta biết
rằng trung thực và đáng tin cậy là những phẩm chất cơ bản và tối thiểu nhất của
con người.
Học sinh ngày nay thực sự cần phải xây dựng vững chắc nhận thức về chân và
chính, và hết lịng tìm cầu chân lý “lời nói phải đáng tin cậy, nếu khơng đáng tin
cậy, thì khơng thể thực hiện được”. Họ cần tự nguyện ngăn chặn tác động của
những suy nghĩ sai lầm như “Người thật thà là bất lợi, khơng nói láo thì khơng
thành cơng”. Các em cũng cần tự giác rèn luyện những thói quen, tác phong tốt
nhất, lời nói hành động, tính tự giác nghiêm khắc, tấm lịng chân thành, thẳng thắn,
không bao che lỗi lầm, dũng cảm nhận lỗi và nghiêm túc sửa chữa. Những thói
quen và hành vi này cịn bao gồm tính ngay thẳng, khơng bắt chước người khác,
khơng nói điều trái tim, cúi mình trước người khác và tinh thần “lời nói buộc
người”. Trong các mối quan hệ với người khác, cần có chữ tín và đáng tin cậy, quý
thời gian như vàng bạc, hành xử theo tinh thần “lời nói quý như vàng”. Họ nên


đúng giờ và giữ các cuộc hẹn. Khi được mời, có hẹn khơng được đến muộn cuộc
họp, cơng việc và các hoạt động khác.
2.2.2.6. Giáo dục tinh thần dũng cảm, tận tụy, công bằng, vô tư
Dũng cảm và cống hiến có nghĩa là khơng ngừng phấn đấu cho một lý tưởng, sự
nghiệp, chân lý hay sự nghiệp nào đó, khơng sợ hãi và bất chấp bất cứ giá nào, và
cống hiến tất cả, thậm chí cả tính mạng của mình.
Tinh thần dũng cảm cống hiến đã có từ ngàn xưa. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử
và điều kiện xã hội khác nhau, nguyên nhân, mục đích và tác dụng chủ quan của
tinh thần cống hiến của con người lại hồn tồn khác nhau.
Đã có biết bao tấm gương bất chấp tính mạng, sự an nguy của mình hiến dâng tất
cả sức lực, trí tuệ, thậm chí cả tính mạng, thể hiện tình cảm đạo đức cao cả đối với

chủ nghĩa cộng sản. Tinh thần quả cảm, cống hiến ấy phải trở thành sức mạnh tinh
thần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước của chúng ta trong thời kỳ cách
mạng mới. Điều cần thiết nữa là tinh thần này phải trở nên phổ biến trong xã hội,
nhất là đối với thế hệ trẻ.
Tinh thần dũng cảm, cống hiến không chỉ cần thiết trong chiến tranh, dựng nước
mà còn cần thiết trong học tập, nghiên cứu khoa học. Học sinh có thể học hỏi
khơng chỉ từ những tấm gương lịch sử về sự cống hiến và hy sinh, mà còn từ
những người hiện tại và cùng thế hệ. Họ cần tự giác sửa chữa những lệch lạc trong
suy nghĩ không phù hợp với thực tế, mâu thuẫn với lợi ích và nguyện vọng của con
người, xây dựng lý tưởng cao đẹp đáng phấn đấu và phụng sự. Họ phải dám đi
theo, kiên định với và thực hiện lý tưởng của mình, khơng màng lợi lộc, khơng lùi
bước trước khó khăn, thử thách. Họ cũng phải dám đấu tranh, phê phán những hiện
tượng tiêu cực, tích cực làm việc thiện, đồng cảm và đùm bọc với những người
xung quanh,
Công bằng, vô tư là phẩm chất đạo đức của cách ứng xử cơng bằng, phù hợp, vì
người ngay thẳng sẽ không thiên vị, tư lợi.
Nghĩa của công bằng là hành động theo lẽ công bằng, trung thực, thẳng thắn, công
tâm, vô tư, không thiên vị, tư lợi. Chúng ta không nên làm điều xấu vì tư lợi hay
cậy quyền thế để tư lợi. Công bằng, vô tư trái ngược với thiên vị, vụ lợi làm triệt
tiêu tính chủ quan. Trong mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi
ích, có thể có người thiên vị, thậm chí gian dối, lợi dụng cơng ích để tư lợi, làm
thiệt hại cơng ích để tư lợi, lợi dụng quyền lực để tư lợi. .


Trong quá trình xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội ngày nay, nhất là trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường, do tác động từ những mặt trái của kinh tế thị
trường, chắc chắn trong xã hội chúng ta nảy sinh một số suy nghĩ tiêu cực, không
lành mạnh, bao gồm: đến nay, coi trọng lợi mà coi thường lẽ phải, thấy lợi thì quên
ngay lẽ phải, thậm chí có xu hướng tơn sùng đồng tiền, hưởng thụ, cá nhân chủ
nghĩa... Trước tình hình đó, phải coi trọng và ưu tiên giáo dục những người làm

công tác nhà nước cũng như thế hệ trẻ, tương lai của đất nước. dân tộc ta với
những đức tính tốt đẹp như chính trực, cơng bằng, chí cơng vơ tư, khơng màng lợi
ích cá nhân vì lợi ích chung, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân, v.v.
Theo đường lối giáo dục mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, thế hệ trẻ, những người
sau này sẽ kế thừa sự nghiệp dựng nước và làm chủ đất nước của chúng ta, phải
được tu dưỡng để có lý tưởng, đạo đức, văn hóa và kỷ luật. Một bộ phận của thế hệ
này sẽ trở thành những nhà quản lý, lãnh đạo ở các cấp khác nhau của Đảng và
Nhà nước ta. Họ không chỉ cần đầy đủ những phẩm chất đạo đức nêu trên mà còn
phải đạt mức cao nhất của các tiêu chuẩn liên quan. Chỉ khi đạt được những điều
này, họ mới có thể nhận thức đúng đắn và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ từ
cá nhân đến tập thể, xã hội và quốc gia; tôn trọng, yêu thương, quan tâm đến nhân
dân; xây dựng ý thức phục vụ nhân dân; khi đối mặt với một vấn đề, họ có thể tách
biệt giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân. Trong đời sống hằng ngày, họ có thể tự
giác trau dồi những phẩm chất cơng bằng, vơ tư và có đạo đức. Các em phải trở
thành người ngay thẳng, đàng hồng, chí cơng vơ tư, không tư lợi, chống làm việc
xấu, lợi dụng chức quyền để tư lợi.
3. Kết luận
Nhân loại đã trải qua gần hai thế kỷ của Thiên niên kỷ thứ ba với nhiều thay đổi
quan trọng, trong khi tồn cầu hóa là một trong nhiều quá trình trực tiếp hoặc gián
tiếp gây ra những thay đổi đó. Đây là một quá trình hai mặt, khơng chỉ tạo ra cơ
hội mà cịn mang đến những thách thức, rủi ro cho các quốc gia, nhất là đối với
một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Rõ ràng, Việt Nam không thể tự loại
mình khỏi quá trình này. Tuy nhiên, nhận thức sâu sắc về bản chất và tác động của
tồn cầu hóa sẽ giúp chúng ta giảm thiểu rủi ro, đặc biệt là rủi ro từ những tác động
tiêu cực mà chúng ta khơng ngờ tới. Vì vậy, cần giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa
tính tất yếu chủ quan của tồn cầu hóa với những tác động khách quan của chúng
ta thông qua quan điểm, đường lối và quản lý đúng đắn.
Con người luôn là yếu tố quyết định sự thành bại của bất kỳ chiến lược, chính sách
nào. Vì vậy, phải có một chiến lược giáo dục con người khoa học, hợp lý, công



bằng. Trong khi đó, giáo dục đạo đức phải được chú trọng đúng mức, nhằm giáo
dục và đào tạo thành cơng những con người có phẩm cách, lịng u nước kiên
định, ý chí quật cường và nhận thức giá trị đúng đắn. Đó là chìa khóa đảm bảo
thành cơng cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.



×