Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 4 tuổi rối loạn phổ tự kỷ ở trường mầm non hòa nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.58 KB, 15 trang )

BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 3-4 TUỔI RỐI LOẠN PHỔ
TỰ KỶ Ở TRƯỜNG MẦM NON HÒA NHẬP
Nghiên cứu được thực hiện với 40 giáo viên đang dạy tại các trường mầm non hòa
nhập trên địa bàn Hà Nội nhằm đánh giá thực trạng mức độ sử dụng và hiệu quả
phát triển vốn từ của trẻ 3 – 4 tuổi rối loạn phổ tự kỷ, được thực hiện bởi sau đó
giáo viên đề xuất một số biện pháp có thể trên cơ sở đó. Kết quả cho thấy giáo viên
thiếu linh hoạt trong việc sử dụng các biện pháp, đặc biệt là việc phối hợp các biện
pháp; các biện pháp chưa chú trọng phát triển vốn từ mà thiên về nhận thức. Từ
thực tế, nghiên cứu đề xuất 7 biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi rối loạn
phổ tự kỷ tập trung vào trị chơi, đưa ra tình huống có ý nghĩa, tăng cường giao tiếp
qua tranh ảnh, khuyến khích sự tương tác của trẻ với bạn bè… Kết quả thực
nghiệm cho thấy trẻ có sự tiến bộ trong phát triển vốn từ về mọi mặt (1) khả năng
hiểu nghĩa của từ (2) khả năng vận dụng từ đúng vào tình huống (3) số lượng từ mà
trẻ có thể hiểu và nói được. Điều này chứng tỏ rằng các biện pháp đề xuất đã có tác
động tích cực đến trẻ em.
1. Giới thiệu
Phát triển vốn từ của trẻ là tăng số lượng từ, giúp trẻ hiểu nghĩa của từ và sử dụng
chúng trong các tình huống giao tiếp. 1 . Giai đoạn từ 3 – 4 tuổi là giai đoạn trẻ tiếp
thu và thể hiện ngôn ngữ qua ngôn từ mạnh mẽ, giai đoạn này trẻ rất tò mò, bắt đầu
đặt câu hỏi về thế giới xung quanh, về cơ bản trẻ đã có đủ phạm vi từ nhưng chủ
yếu là danh từ và động từ, được dùng như đặc điểm riêng, Nguyễn Ánh Tuyết
(2013)2 . Đối với trẻ rối loạn phổ tự kỷ (ASD), đây là mốc quan trọng để xem trẻ
có bị rối loạn phổ tự kỷ hay không, mức độ phát triển và đặc biệt là về vốn từ của
trẻ. Đây cũng là thời điểm quan trọng để các nhà giáo dục tiến hành phát triển kỹ
năng giao tiếp sớm cho trẻ, bởi trẻ càng lớn thì càng gặp nhiều khó khăn trong học
tập và giao tiếp.3 . Một số trẻ rối loạn phổ tự kỷ (ASD) hầu như không sử dụng
được các câu có cấu trúc phức tạp, trong khi những trẻ khác thể hiện được ngữ điệu
phức tạp ở mức độ phù hợp4 ,5 . Một số trẻ có thể phát triển ngơn ngữ tốt và vốn từ
khá rộng, thậm chí khá bình thường nhưng nó chỉ xuất hiện ở những trẻ được chẩn
đốn khơng q nặng hoặc chức năng cao.6 .
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tác động tích cực của can thiệp sớm sẽ giúp phát


triển ngôn ngữ cho hầu hết trẻ rối loạn phổ tự kỷ (Dawson & Osterling,
19977 ; Koegel & Koegel, 19888 ; Lovaas, 19879 ; Rogers & VISMARA,
200810 . Ngôn ngữ của trẻ sẽ được phát triển tích cực nếu được xử lý sớm và đúng
phương pháp vì hình thái ngơn ngữ nói là một trong những biến số quan trọng nhất


để chúng ta dự đốn kết quả ngơn ngữ của trẻ trong thời thơ ấu và trưởng thành
(Gillberg & Steffenburg, 198711 , Howlin và cộng sự, 200412 ; Venter A, Lord C,
Schopler E, 199213 . Các kỹ năng nhận thức xã hội, chẳng hạn như hiểu tâm trí và
cảm xúc của người khác, ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp của trẻ trong các tình
huống thực tế. Ngồi rối loạn phổ tự kỷ (ASD), ngày càng có nhiều kiến thức cho
rằng trẻ em bị suy giảm ngôn ngữ cụ thể (SLI) cũng thể hiện những khó khăn trong
khả năng nhận thức xã hội của chúng14 ; Nghiên cứu của Taylor LJ, Maybery MT,
Grayndler L, Whitehouse AJ, Kết quả chỉ ra rằng trẻ mắc ALI và trẻ mắc SLI đều
có chung các khiếm khuyết về nhận dạng cảm xúc, điều này có thể là do khả năng
ngơn ngữ kém của hai nhóm này15 .
Trên thực tế, việc phát triển vốn từ cho trẻ tự kỷ ở Việt Nam vẫn chưa được chú
trọng trong mơi trường hịa nhập. Do số lượng trẻ đông nên giáo viên không thể
quan tâm đến từng trẻ, các biện pháp phát triển vốn từ được áp dụng chung cho cả
lớp, trẻ tự kỷ ít có cơ hội áp dụng các biện pháp phù hợp với đặc điểm, khả năng
của bản thân. vì vậy nó hạn chế khả năng đạt được vốn từ vựng. Trong bài viết này,
chúng tôi báo cáo kết quả nghiên cứu thực nghiệm và áp dụng các giải pháp vào
phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi mắc rối loạn tự kỷ ở trường mầm non hòa nhập.
2. Nội dung
2.1. Thực trạng sử dụng các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi mắc
chứng tự kỷ
Nghiên cứu được thực hiện trên 40 giáo viên đang dạy tại các trường mầm non hòa
nhập trên địa bàn Hà Nội nhằm đánh giá tần suất sử dụng thực tế và mức độ hiệu
quả của các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 - 4 tuổi rối loạn tự kỷ mà giáo
viên đã thực hiện, từ đó đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ hiệu quả

hơn. Kết quả khảo sát được đánh giá cả về định lượng và định tính: (1) về định
lượng: kết quả được tính tốn và xử lý bằng thống kê tốn học. Số liệu điều tra
chính được đánh giá theo điểm trung bình, tỷ lệ phần trăm, thứ bậc, độ lệch và
được thể hiện dưới dạng bảng, biểu đồ tổng hợp; (2) Về định tính: tập trung phân
tích để làm rõ các biện pháp giáo viên sử dụng. Quá trình thực hiện sử dụng các
phương pháp như:
Mức độ sử dụng các biện pháp phát triển vốn từ của giáo viên: tần suất sử dụng các
biện pháp là khác nhau. Đặc biệt, các biện pháp được sử dụng nhiều hơn (xếp thứ 1
đến 4) là: đàm thoại đặt câu hỏi kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan (M =
2,6); thường xuyên đọc sách, thơ, kể chuyện theo tranh để tạo cơ hội cho trẻ sử
dụng và phát triển vốn từ (M = 2,57); luôn dùng đồ chơi để giao tiếp với trẻ


(M=2,52); sử dụng trò chơi để tạo hứng thú học từ mới cho trẻ (M=2,50), sử dụng
đa dạng các hình thức học tập nhằm nâng cao khả năng giải nghĩa và sử dụng từ
(M=2,45). Qua trao đổi ý kiến các giáo viên cũng cho biết đây là những biện pháp
được các cô thường xuyên sử dụng trong giờ học cũng như giờ ra chơi.16 .
Một số biện pháp ít được sử dụng: “tăng cường giao tiếp với trẻ trong cuộc sống
hàng ngày” (M= 2,42); “kết hợp giữa quan sát và miêu tả sự vật, hiện tượng” (M=
2,37); “tạo tình huống có vấn đề khi chơi, học để kích thích trẻ giao tiếp”
(M=1,80).
Kết quả điều tra cũng cho thấy tần suất sử dụng các biện pháp của giáo viên chênh
lệch không nhiều và khơng có biện pháp nào khơng được sử dụng. Tuy nhiên, thực
tế qua điều tra, phỏng vấn giáo viên cho thấy, trong quá trình sử dụng các biện
pháp trên, giáo viên chú ý cung cấp vốn từ nhưng chưa chú ý đến việc hiểu và sử
dụng từ đúng của trẻ. Giáo viên chưa đưa ra hệ thống câu hỏi rõ ràng, tập trung vào
phát triển vốn từ cho trẻ dẫn đến việc phát triển vốn từ của trẻ cịn hạn chế. Thay
vào đó, giáo viên nên đưa ra những câu hỏi bắt trẻ phải dùng từ để giải thích, nhằm
kích thích tính tích cực hình thành vốn từ của trẻ.
Mức độ hiệu quả của các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 - 4 tuổi TTK: Kết

quả cho thấy, nhìn chung hầu hết các biện pháp đều đạt điểm khá cao cho thấy tính
hiệu quả trong quá trình áp dụng. Biện pháp được đánh giá cao về hiệu quả sử
dụng là: tăng cường giao tiếp với trẻ trong cuộc sống hàng ngày được xếp thứ 1
(M=2,60), thể hiện rõ đây là biện pháp được giáo viên đánh giá là hiệu quả
nhất. Xếp thứ 2 là hội thoại có câu hỏi liên quan đến sử dụng tiện ích trực quan
(M=2,47). Xếp thứ 3 là sử dụng trò chơi tạo hứng thú học từ mới cho trẻ
(M=2,37). Xếp thứ 4 là tạo tình huống có vấn đề khi chơi, học để kích thích trẻ
giao tiếp (M=2,32).
Các biện pháp được đánh giá kém hiệu quả là: sử dụng đa dạng các hình thức học
tập nhằm nâng cao khả năng diễn giải và sử dụng từ (M=2,30); luôn dùng đồ chơi
để giao tiếp với trẻ (M=2,05); thường xuyên đọc sách, thơ, kể chuyện theo tranh để
tạo cơ hội cho trẻ sử dụng và phát triển vốn từ (M=1,95); kết hợp giữa quan sát và
miêu tả sự vật, hiện tượng (M=0,75).
Các biện pháp mà giáo viên sử dụng đã có tác dụng nhất định trong việc phát triển
vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi TTK. Có sự khác nhau giữa mức độ sử dụng và mức độ
hiệu quả của các biện pháp này, cụ thể: ở biện pháp số 2: “luôn sử dụng đồ chơi để
giao tiếp với trẻ” , mức độ sử dụng xếp thứ 3 nhưng mức độ hiệu quả chỉ xếp thứ
6; ở biện pháp số 6 “thường xuyên đọc sách, thơ, kể chuyện theo tranh để tạo cơ


hội cho trẻ vận dụng và phát triển vốn từ”, mức độ vận dụng xếp thứ 2 nhưng mức
độ hiệu quả chỉ xếp thứ 7; biện pháp số 7 “tăng cường giao tiếp với trẻ trong cuộc
sống hàng ngày”được đánh giá cao về mức độ hiệu quả (xếp thứ 1) và mức độ sử
dụng xếp thứ nhất.
Qua nghiên cứu về những khó khăn của giáo viên khi sử dụng các biện pháp nhằm
phát triển vốn từ cho trẻ tự kỷ cho thấy: số trẻ trong một lớp đơng là khó khăn
chung của mỗi giáo viên ở các trường mẫu giáo và mẫu giáo hòa nhập
( M=1,85); Thiếu sự phối hợp giữa các lực lượng hỗ trợ (M=1,45). Theo các giáo
viên, để việc phát triển vốn từ cho trẻ 3 - 4 tuổi TTK có tiến bộ, ngồi việc học trên
lớp, cần có sự hỗ trợ, hợp tác từ phía gia đình, đặc biệt là sự thống nhất về phương

pháp, biện pháp, kế hoạch cụ thể trong phát triển vốn từ; Những khó khăn khác là:
cơ sở vật chất chưa thuận lợi, thiếu sách và tài liệu. Tuy nhiên,16 .
2.2. Các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 TUỔI bị rối loạn tự kỷ ở
trường mầm non hòa nhập Hà Nội
Các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ RLPTK là những biện pháp cụ thể để giải
quyết những vấn đề khó khăn cịn tồn tại trong q trình phát triển lời nói cho trẻ
RLPTK nhằm nâng cao vốn từ hiện có của trẻ.16 .
Biện pháp 1: Tăng cường sử dụng trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập cho trẻ:
Trò chơi dùng để tạo hứng thú, kích thích trẻ học từ mới. Sử dụng các trị chơi sẽ
tạo ra khơng khí hoạt động vui vẻ hơn, giảm căng thẳng và khuyến khích trẻ học từ
mới, giúp xây dựng vốn từ vựng cho trẻ. Các trò chơi phải đảm bảo đa dạng về
mục tiêu, mức độ mà trẻ đạt được khi chơi, phát huy được thế mạnh, khả năng của
trẻ tự kỷ, nhằm giúp trẻ thành công và an toàn. Trong giờ chơi giáo viên cần tạo
cho trẻ khơng khí thoải mái, hứng thú. Các trị chơi được sử dụng và phù hợp với
trẻ trong giai đoạn này bao gồm: trò chơi phát triển vốn từ, trò chơi phát triển ngơn
ngữ, trị chơi luyện phát âm, trị chơi đóng vai, trị chơi học tập… như: chơi gọi
tên, đố vui đố đáp, phân biệt biển báo. thông qua các đặc điểm của chúng. Ở
trường mầm non, hoạt động học luôn gắn liền với hoạt động chơi, trẻ vừa học vừa
chơi mà ngược lại, vì vậy trị chơi được sử dụng như một cơng cụ bổ ích. Khi tổ
chức trò chơi giáo viên phải xác định: mục tiêu yêu cầu, nội dung trò chơi nhằm
phát triển vốn từ cho trẻ từ đó giúp trẻ sửa lỗi sai. Ngồi ra, giáo viên cũng sẽ giúp
trẻ phát triển các giác quan khi phát triển vốn từ như: gọi tên, chỉ ra đặc điểm của
sự vật, hiện tượng. Khi sử dụng biện pháp này, giáo viên cần linh hoạt, sáng tạo
trong việc tạo ra nhiều trò chơi phong phú, hấp dẫn. mục tiêu, nội dung yêu cầu
của trò chơi nhằm phát triển vốn từ cho trẻ từ đó giúp trẻ sửa lỗi sai. Ngoài ra, giáo


viên cũng sẽ giúp trẻ phát triển các giác quan khi phát triển vốn từ như: gọi tên, chỉ
ra đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Khi sử dụng biện pháp này, giáo viên cần linh
hoạt, sáng tạo trong việc tạo ra nhiều trò chơi phong phú, hấp dẫn. mục tiêu, nội

dung yêu cầu của trò chơi nhằm phát triển vốn từ cho trẻ từ đó giúp trẻ sửa lỗi
sai. Ngoài ra, giáo viên cũng sẽ giúp trẻ phát triển các giác quan khi phát triển vốn
từ như: gọi tên, chỉ ra đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Khi sử dụng biện pháp này,
giáo viên cần linh hoạt, sáng tạo trong việc tạo ra nhiều trò chơi phong phú, hấp
dẫn.
Biện pháp 2: Cung cấp từ mới cho trẻ trong các tình huống có ý nghĩa
“Những tình huống có ý nghĩa đối với trẻ tự kỷ là những tình huống gắn liền với
thực tế và thơng qua đó, trẻ có thể học được từ mới”. Sử dụng các tình huống có ý
nghĩa giúp trẻ học được nhiều từ mới, mở rộng vốn từ, hình thành vốn từ cho trẻ
một cách tích cực. Các tình huống phải đảm bảo có ý nghĩa đối với trẻ, kích thích
trẻ sử dụng từ, mở rộng phạm vi của từ. Cung cấp từ mới cho trẻ thơng qua các
tình huống ý nghĩa xảy ra hàng ngày, xung quanh trẻ. Tận dụng những thứ mà trẻ
quan tâm để tạo ra những tình huống có ý nghĩa cho trẻ và bắt đầu dạy trẻ những từ
mới, chẳng hạn dạy trẻ nói “khơng” khi trẻ khơng muốn một thứ gì đó hoặc khi trẻ
cất đồ chơi sang một bên rồi nói “khơng”. ” để trẻ hiểu thế nào là “khơng” hoặc khi
khát nói “nước”, giáo viên nên thêm nhiều từ hơn bằng cách nói “uống nước”. Mở
rộng vốn từ vựng giúp trẻ có khả năng kết hợp từ và học cách nói tốt hơn. Tuy
nhiên, khơng nên cung cấp nhiều từ cho trẻ khiến trẻ không tiếp thu được, từ đó trẻ
cảm thấy nhàm chán, khơng hiểu được.
Biện pháp 3: Đàm thoại đặt câu hỏi kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan để tăng
cơ hội cho trẻ học từ mới
Tạo cơ hội cho trẻ học từ mới, học phát âm và xây dựng vốn từ một cách tích
cực. Chú ý đưa ra các câu hỏi phù hợp với lứa tuổi của trẻ, nhận thức của từng cá
nhân, chủ đề bài học. Để đàm thoại có năng suất giáo viên phải có óc quan sát
tốt. Khi sử dụng hệ thống câu hỏi, các câu hỏi này phải ngắn gọn, dễ hiểu và các
câu hỏi này phải xuất phát từ đối tượng quan sát và mục đích quan sát. Đồ dùng
trực quan được chia làm hai loại: Vật thật và tranh ảnh. Việc sử dụng đồ dùng trực
quan đòi hỏi sự tham gia tối đa của các giác quan. Đồ dùng trực quan cần có kích
thước phù hợp để dễ quan sát. Sử dụng đồ dùng trực quan như vật thật, tranh ảnh…
để giới thiệu từ ngữ, giải thích nghĩa của từ và vận dụng từ vào quan sát để trả lời

câu hỏi. Giáo viên cần:


i) Giới thiệu từ: giáo viên dùng đồ dùng trực quan giới thiệu cho trẻ về từ cần dạy
và yêu cầu trẻ nhắc lại từ;
ii) Giải thích nghĩa của từ: giải thích nghĩa và định nghĩa của từ một cách chi tiết,
khơng tập trung giải thích từng từ mà chỉ giải thích những từ khó. Những từ khó
đối với trẻ tự kỷ là những từ trừu tượng. Khi giải nghĩa từ, giáo viên cần sử dụng
lời kết hợp với đồ dùng trực quan (trẻ được quan sát các sự vật, hiện tượng qua vật
thật, tranh ảnh hoặc mơ hình giúp trẻ dễ hiểu từ);
iii) Thực hành sử dụng từ ngữ: trẻ vận dụng từ ngữ vào việc trả lời câu hỏi hoặc
diễn đạt ý tưởng khi hội thoại. Chú ý giúp trẻ chọn từ đúng khi sử dụng.
Biện pháp 4: Tạo tình huống có vấn đề khi chơi/học nhằm kích thích trẻ giao
tiếp
Biện pháp này tạo cơ hội tự nhiên giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ. Trong khi trẻ chơi,
giáo viên có thể tạo ra các tình huống buộc trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để học cách
chơi, cách lấy đồ chơi, cách tương tác với bạn và cô giáo hoặc khi học kích thích
trẻ đặt câu hỏi. Biện pháp này giúp trẻ tích cực hơn trong việc sử dụng từ đã học,
hiểu nghĩa của từ và dùng từ đúng, đồng thời cung cấp thêm vốn từ mới cho
trẻ. Khi sử dụng biện pháp này, giáo viên cần chú ý đến đặc điểm của từng trẻ và
số lượng trẻ trong nhóm để khuyến khích trẻ giao tiếp và tự tin hơn trong giao
tiếp. Giáo viên khơng chỉ khuyến khích trẻ giao tiếp mà còn quan tâm đến việc mở
rộng vốn từ, sửa lỗi phát âm, trật tự từ và ngữ pháp trong câu. Giáo viên cũng cần
tạo nhiều cơ hội, tình huống thú vị cho trẻ để trẻ học cách lắng nghe và học từ mới
thông qua việc đặt câu hỏi. Ngoài ra, sau khi trẻ làm quen với một từ mới, giáo
viên ln phải tạo ra những tình huống khác nhau để trẻ sử dụng từ mới mà trẻ mới
có cơ hội tiếp cận.
Biện pháp 5 : Thường xuyên đọc sách, thơ, kể chuyện theo tranh để tạo cơ hội
cho trẻ vận dụng và phát triển vốn từ
Đọc sách, thơ, truyện cho trẻ nghe là hoạt động không chỉ nhằm mở rộng vốn ngôn

ngữ, khả năng giao tiếp cho trẻ mà còn làm tăng vốn từ của trẻ. Trong các hoạt
động này, trẻ sẽ có cơ hội lắng nghe, ghi nhớ tất cả các tình tiết của câu chuyện và
đặc biệt trẻ sẽ được làm quen với những từ mới và những câu chuyện thú vị. Đối
với trẻ 3 – 4 tuổi bị rối loạn tự kỷ, giáo viên nên chọn những câu chuyện: i) Phù
hợp với lứa tuổi và khả năng ngôn ngữ cũng như ngôn từ phù hợp của trẻ, ii) Chọn
những bài thơ ngắn, dễ hiểu, có nội dung đơn giản về thế giới xung quanh xung
quanh trẻ, thói quen hàng ngày của trẻ; iii) Sử dụng truyện kể có tranh ảnh minh


họa, yếu tố bất ngờ để thu hút sự chú ý, hứng thú của trẻ. Giáo viên nên khuyến
khích trẻ tham gia kể chuyện, chẳng hạn cho trẻ nói theo những đoạn dễ trong
truyện, nhắc đi nhắc lại để khuyến khích trẻ tự kể hoặc đọc truyện. Cơ giáo cùng
trẻ đọc truyện, thơ sau đó đàm thoại với trẻ về đặc điểm của các nhân vật: tên gọi,
đặc điểm, thích nhân vật nào, ghét nhân vật nào... qua các cuộc trò chuyện trẻ sẽ
học thêm được nhiều từ mới và hiểu biết thêm về câu chuyện . Đối với những câu
chuyện dài, giáo viên nên chuyển từ đơn giản thành những từ đơn giản hoặc cố
gắng tóm tắt sao cho ngắn gọn, dễ hiểu để trẻ đọc hoặc kể. cùng trẻ làm thơ sau đó
trị chuyện với trẻ về đặc điểm của các nhân vật: tên gọi, đặc điểm, thích nhân vật
nào, ghét nhân vật nào... qua các cuộc trò chuyện, trẻ sẽ học thêm được nhiều từ
mới và hiểu biết thêm về câu chuyện. Đối với những câu chuyện dài, giáo viên nên
chuyển từ đơn giản thành những từ đơn giản hoặc cố gắng tóm tắt sao cho ngắn
gọn, dễ hiểu để trẻ đọc hoặc kể. cùng trẻ làm thơ sau đó trị chuyện với trẻ về đặc
điểm của các nhân vật: tên gọi, đặc điểm, thích nhân vật nào, ghét nhân vật nào...
qua các cuộc trò chuyện, trẻ sẽ học thêm được nhiều từ mới và hiểu biết thêm về
câu chuyện. Đối với những câu chuyện dài, giáo viên nên chuyển từ đơn giản
thành những từ đơn giản hoặc cố gắng tóm tắt sao cho ngắn gọn, dễ hiểu để trẻ đọc
hoặc kể.
Biện pháp 6: Tăng cường giao tiếp với trẻ trong cuộc sống hàng ngày
“Tình huống hàng ngày” là các hoạt động diễn ra tại nhà (lớp học) như một phần
của thói quen hàng ngày, ví dụ như ăn, uống, chơi, học… Trị chuyện với trẻ về

thói quen hàng ngày của trẻ là một biện pháp hiệu quả để mở rộng vốn từ hoặc
phát triển vốn từ của trẻ. ngôn ngữ và giao tiếp của họ. Giáo viên cần: i) sử dụng
tình huống mà giáo viên đang tham gia cùng trẻ, thu hút sự chú ý của trẻ bằng cách
gọi tên và chạm vào trẻ khi nói chuyện với trẻ, ii) nói về những gì trẻ đang làm
bằng cách sử dụng các cụm từ đơn giản; iii) Sử dụng ngôn ngữ trong sáng, giản dị,
nhắc lại những từ ngữ quan trọng trong nội dung cụ thể, từ ngữ gắn với biểu cảm
khuôn mặt để tạo hứng thú, khen ngợi trẻ khi trẻ nỗ lực; iv) Trò chuyện với trẻ về
cuộc sống hàng ngày: chơi, ngủ, học: học ngôn ngữ và mở rộng vốn từ bằng cách
lắng nghe những người xung quanh nói chuyện hoặc giao tiếp về các hoạt động
trong cuộc sống hàng ngày rất tốt cho trẻ. Đối với trẻ tự kỷ, mặc dù còn hạn chế về
khả năng hiểu từ nhưng trẻ vẫn có thể phát triển ngôn ngữ thông qua việc nghe các
giao tiếp. Trước khi tiến hành giao tiếp với trẻ, giáo viên nên xem hoạt động nào
khiến trẻ hứng thú nhất để chọn đó là chủ đề thú vị để giao tiếp với trẻ. Trong q
trình trị chuyện giáo viên có thể đặt câu hỏi giúp trẻ mở rộng vốn từ cũng như
giúp trẻ học nói nhanh hơn. mặc dù cịn hạn chế về khả năng hiểu từ nhưng trẻ vẫn


có thể phát triển ngơn ngữ thơng qua nghe giao tiếp. Trước khi tiến hành giao tiếp
với trẻ, giáo viên nên xem hoạt động nào khiến trẻ hứng thú nhất để chọn đó là chủ
đề thú vị để giao tiếp với trẻ. Trong q trình trị chuyện giáo viên có thể đặt câu
hỏi giúp trẻ mở rộng vốn từ cũng như giúp trẻ học nói nhanh hơn. mặc dù cịn hạn
chế về khả năng hiểu từ nhưng trẻ vẫn có thể phát triển ngơn ngữ của mình thơng
qua việc nghe giao tiếp. Trước khi tiến hành giao tiếp với trẻ, giáo viên nên xem
hoạt động nào khiến trẻ hứng thú nhất để chọn đó là chủ đề thú vị để giao tiếp với
trẻ. Trong q trình trị chuyện giáo viên có thể đặt câu hỏi giúp trẻ mở rộng vốn từ
cũng như giúp trẻ học nói nhanh hơn.
Biện pháp 7: Khuyến khích trẻ tự kỷ giao tiếp, nói chuyện với thầy cơ, bạn bè
Một trong những khó khăn của trẻ tự kỷ là khiếm khuyết về giao tiếp gây cản trở
việc tiếp nhận từ mới từ những người xung quanh. Vì vậy, khuyến khích trẻ tự kỷ
giao tiếp với thầy cô, đặc biệt là các bạn cùng lớp không chỉ khiến trẻ trở nên tự tin

hơn mà còn giúp trẻ sử dụng các từ đã học một cách chủ động. Vì trẻ tự kỷ khá
nhút nhát và thụ động trong giao tiếp nên giáo viên phải quan tâm đến trẻ nhiều
hơn thì trẻ mới cảm thấy an tồn và sẵn sàng tham gia các hoạt động cũng như giao
tiếp với bạn bè. Khi động viên trẻ tự kỷ, giáo viên cần kiên nhẫn. Bên cạnh đó,
giáo viên cũng nên khuyến khích trẻ giao tiếp trong mọi hoạt động trên lớp để trẻ
có thể sử dụng lời nói. Sử dụng những hoạt động được trẻ yêu thích để khuyến
khích trẻ tham gia. Trước khi lớp học bắt đầu, giáo viên nên đón trẻ với tâm trạng
vui vẻ để trẻ cảm thấy vui vẻ, hào hứng… Sau đó đưa trẻ vào tình huống có vấn đề
để kích thích trẻ nói. Trong giờ học hàng ngày, giáo viên nên tạo cơ hội cho trẻ
tham gia trả lời câu hỏi, nhận xét góp ý của bạn bè để trẻ tự tin hơn trong quá trình
giao tiếp. Giáo viên cũng có thể tổ chức từ 1 đến 2 hoạt động nhóm để trẻ hợp tác
với nhau. giáo viên nên tạo cơ hội cho trẻ tham gia trả lời câu hỏi, nhận xét góp ý
của bạn bè để trẻ tự tin hơn trong quá trình giao tiếp. Giáo viên cũng có thể tổ chức
từ 1 đến 2 hoạt động nhóm để trẻ hợp tác với nhau. giáo viên nên tạo cơ hội cho trẻ
tham gia trả lời câu hỏi, nhận xét góp ý của bạn bè để trẻ tự tin hơn trong quá trình
giao tiếp. Giáo viên cũng có thể tổ chức từ 1 đến 2 hoạt động nhóm để trẻ hợp tác
với nhau.
2.3. Thử
nghiệm
các
2.3.1. Tổng quan về Thí nghiệm

biện

pháp

đề

xuất


một. Mục đích thực nghiệm : Kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp
đề xuất nhằm phát triển vốn từ cho trẻ tự kỷ.


b. Đối tượng thực nghiệm: đối tượng thực nghiệm mà chúng tôi lựa chọn là trẻ 3 –
4 tuổi bị rối loạn tự kỷ đang học tại trường mẫu giáo hòa nhập.
Phạm Nhật N là cậu bé 3,5 tuổi sinh ra tại Hà Nội. Bé được chẩn đoán mắc chứng
tự kỷ tại bệnh viện nhi trung ương khi bé 2,5 tuổi với mức độ nhẹ và hạn chế về
ngôn ngữ. N có sự phát triển khơng đồng đều ở mọi kỹ năng. Bé có thể cầm bát,
cầm bút chì màu nhưng khơng khéo lắm. Bé gặp khó khăn khi làm việc với các đồ
vật nhỏ, như xâu chuỗi hạt… Bé có thể di chuyển tốt và khơng có hành vi bất
thường nhưng cử động cịn vụng về, phối hợp tồn thân chưa tốt. Nhận thức, N có
thể nhận biết và gọi tên các con số. Khả năng nhận biết các sự vật, hiện tượng xung
quanh của trẻ còn hạn chế; về ngơn ngữ: vốn từ của em cịn ít hơn, chủ yếu là về
những điều quen thuộc xung quanh em. Cháu phát âm cịn nhỏ, chưa rõ, nói ngọng
“l”, “n” hay gọi “mịa, mịa” thay vì “mẹ”. Anh ta khơng có tiếng vang. Sự tương
tác xã hội: anh ấy có thể sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ niềm vui của mình. Đơi khi
anh ấy vẫn khơng kiểm sốt được mức độ của các biểu hiện như: Ôm hoặc nắm tay
người khác quá chặt. Anh ấy chưa kịp nói lời cảm ơn, xin lỗi. Giao tiếp: cháu chủ
động trong giao tiếp bằng lời nói, chủ yếu là giao tiếp bằng cử chỉ, ví dụ khi ai đó
nhờ N mượn bút, xách hộ đồ cho cháu thì cháu có thể hiểu và làm được nhưng
khơng nói gì. Hành vi: khả năng duy trì chú ý tốt nhưng chỉ trong thời gian ngắn,
khơng bị tăng động. Anh ấy thích chơi với ơ tô; khả năng tuân theo các quy tắc của
lớp không tốt và thường đi xung quanh lớp mà không xin phép. Đơi khi anh ấy vẫn
khơng kiểm sốt được mức độ của các biểu hiện như: Ôm hoặc nắm tay người
khác quá chặt. Anh ấy chưa kịp nói lời cảm ơn, xin lỗi. Giao tiếp: cháu chủ động
trong giao tiếp bằng lời nói, chủ yếu là giao tiếp bằng cử chỉ, ví dụ khi ai đó nhờ N
mượn bút, xách hộ đồ cho cháu thì cháu có thể hiểu và làm được nhưng khơng nói
gì. Hành vi: khả năng duy trì chú ý tốt nhưng chỉ trong thời gian ngắn, khơng bị
tăng động. Anh ấy thích chơi với ơ tơ; khả năng tuân theo các quy tắc của lớp

không tốt và thường đi xung quanh lớp mà không xin phép. Đơi khi anh ấy vẫn
khơng kiểm sốt được mức độ của các biểu hiện như: Ôm hoặc nắm tay người
khác quá chặt. Anh ấy chưa kịp nói lời cảm ơn, xin lỗi. Giao tiếp: cháu chủ động
trong giao tiếp bằng lời nói, chủ yếu là giao tiếp bằng cử chỉ, ví dụ khi ai đó nhờ N
mượn bút, xách hộ đồ cho cháu thì cháu có thể hiểu và làm được nhưng khơng nói
gì. Hành vi: khả năng duy trì chú ý tốt nhưng chỉ trong thời gian ngắn, không bị
tăng động. Anh ấy thích chơi với ơ tơ; khả năng tuân theo các quy tắc của lớp
không tốt và thường đi xung quanh lớp mà không xin phép. chẳng hạn khi ai đó
nhờ N mượn bút, xách hộ đồ cho mình, N có thể hiểu và làm theo nhưng khơng nói
gì. Hành vi: khả năng duy trì chú ý tốt nhưng chỉ trong thời gian ngắn, không bị
tăng động. Anh ấy thích chơi với ơ tơ; khả năng tn theo các quy tắc của lớp


không tốt và thường đi xung quanh lớp mà không xin phép. chẳng hạn khi ai đó
nhờ N mượn bút hay xách hộ đồ cho mình, N có thể hiểu và làm theo nhưng khơng
nói gì. Hành vi: khả năng duy trì chú ý tốt nhưng chỉ trong thời gian ngắn, khơng
bị tăng động. Anh ấy thích chơi với ơ tô; khả năng tuân theo các quy tắc của lớp
không tốt và thường đi xung quanh lớp mà không xin phép.
c. Điều kiện TN : TNSP được tiến hành trong điều kiện tự nhiên, trong điều kiện
sinh hoạt bình thường của trường mầm non Cầu Diễn. Các hoạt động của lớp vẫn
diễn ra bình thường nhưng có sự thay đổi về cách thức tổ chức hoạt động của giáo
viên. Tiện ích được chuẩn bị đầy đủ theo giáo trình thực nghiệm.
đ. Nội dung thực nghiệm : thực nghiệm được tiến hành trên 01 trẻ tự kỷ với một số
biện pháp sau: (1) Tăng cường sử dụng trò chơi nhằm tạo hứng thú học tập cho
trẻ; (2) Cung cấp từ mới cho trẻ trong các tình huống có ý nghĩa; (3) Đàm thoại đặt
câu hỏi kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan để tăng cơ hội cho trẻ học từ
mới; (4) Tạo tình huống có vấn đề khi chơi/học nhằm kích thích trẻ giao tiếp; (5)
Khuyến khích trẻ tự kỷ giao tiếp, nói chuyện với thầy cơ, bạn bè.
đ. Phương pháp thực nghiệm : Tiến hành thực nghiệm theo kế hoạch do nhóm
chúng tơi lập và trao đổi với giáo viên. Các chủ đề của thí nghiệm được tiến hành

là về “gia đình” , “động vật” và “giao thơng” . Các hoạt động đã được thực hiện
trong các lớp học và trong cuộc sống hàng ngày.
f. Tiêu chí và đánh giá :
* Về tiêu chí đánh giá : Chúng tôi tiến hành điều tra mức độ sử dụng từ của trẻ
theo các tiêu chí sau:
Tiêu chí 1 : Khả năng hiểu nghĩa của từ: là khả năng trẻ có thể tư duy về âm thanh
của từ với biểu tượng của sự vật hoặc hiện tượng phản ánh nghĩa của từ đó hoặc
phản ứng lại nghĩa của từ đó bằng lời nói, cử chỉ.
Tiêu chí 2 : Khả năng vận dụng từ đúng vào tình huống. Trẻ chỉ được điểm khi vận
dụng đúng những từ đã học trước đó vào các tình huống. Ví dụ: trong hoạt động
khám phá về một số con vật ni ở nhà, trẻ có cơ hội tìm hiểu về các từ: “gà”,
“cánh”… và có thể sử dụng các từ đó đặt trong câu nói về con gà.
Tiêu chí 3 : Số từ mà trẻ có thể hiểu và nói được.
* Về phương pháp đánh giá : Để đánh giá về kết quả TN, chúng tôi cho điểm trẻ
làm TN:


Như vậy tổng số điểm em đạt được là 6, chúng tơi khơng tính điểm cho tiêu chí 3
(C3) mà chỉ đưa ra con số thể hiện số từ em đạt được.
2.3.2. Kết quả thí nghiệm
một. Mức độ phát triển vốn từ của trẻ trước TN Mức độ phát triển vốn từ của trẻ
trước TN được đánh giá theo 3 tiêu chí đã trình bày ở trên. Số lượng từ được cung
cấp trong 3 chủ đề là 30 từ.
* Kết quả trước khi thực nghiệm được trình bày trong bảng sau:
Kết quả ở Bảng 1 cho thấy, ở tiêu chí 1, N hiểu được định nghĩa của 40% từ do
giáo viên cung cấp, tương ứng với 1 điểm. Ở tiêu chí 2, N sử dụng đúng 30% số từ
do giáo viên cung cấp, tương đương với 1 điểm. Ở tiêu chí 3, số từ N nghe hiểu
được là 12/30 từ và số từ hiểu nói được là 17/30 từ.



Bảng 1. Điểm trước TN của N


Như chúng ta thấy, tổng số điểm mà N đạt được dựa trên tiêu chí 1 và tiêu chí 2 là
2. Kết quả này cho thấy vốn từ của N còn nhiều hạn chế, đặc biệt là hạn chế về khả
năng hiểu và khả năng diễn đạt. để áp dụng các từ chính xác vào các tình
huống. Điều này có thể giải thích là do các biện pháp giáo viên sử dụng chưa thực
sự có tác động tích cực đến N, cách giáo viên tổ chức các hoạt động còn nhàm
chán chưa thúc đẩy N tích cực học từ mới.
b. Kết quả hiệu quả thực nghiệm : Sau khi xác định mức độ phát triển vốn từ bằng
cách cho điểm dựa trên các tiêu chí đó, chúng tơi tiến hành lập kế hoạch tổ chức
hoạt động theo 3 chủ điểm trên, sử dụng một số biện pháp phát triển vốn từ đã đề
xuất, số lượng từ trong 3 chủ đề là 30 từ. Trong q trình làm TN chúng tơi đã
quan sát và ghi chép theo 3 tiêu chí trên. Kết quả thực nghiệm được trình bày ở
bảng sau:


Bảng 2. Điểm sau TN của N

Kết quả thực nghiệm ở C1 cho thấy tỷ lệ từ mà N có thể hiểu các định nghĩa là
63,3% và tương đương với 2 điểm. Ở câu C2, số từ mà N sử dụng đúng là 50%,


tương đương với 2 điểm. Vậy tổng số điểm của tiêu chí 1 và tiêu chí 2 là 4. Số từ N
hiểu được là 22/30 từ và số từ N nói được là 26 từ.
c. So sánh kết quả trước TN (BE) và sau TN (AE):
Nhìn vào biểu đồ 1 có thể thấy sự thay đổi rõ rệt về khả năng hiểu nghĩa của từ
trước và sau thực nghiệm từ 1 điểm lên 2 điểm. Như vậy hiệu quả thí nghiệm cho
thấy khả năng hiểu nghĩa từ của N đã đạt được. Điều này có nghĩa là các biện pháp
được đề xuất, được sử dụng trong các lớp, có kết quả tốt hơn các biện pháp trước

đó. Từ đó có thể khẳng định tác động tích cực của các biện pháp đối với sự phát
triển vốn từ của trẻ.






Biểu đồ 1 . So sánh khả năng hiểu nghĩa của từ trước TN (BE) và sau TN
(AE)




Biểu đồ 2 . So sánh năng lực sử dụng từ đúng trước TN (BE) và sau TN
(AE)




Biểu đồ 3 . So sánh số từ mà trẻ có thể hiểu và nói trước khi thử nghiệm
(BE) và sau khi thử nghiệm (AE)

Khả năng áp dụng các từ chính xác đã học trước đây vào các tình huống đã thay
đổi. Điểm trước TN là 1, sau TN là 2. Kết quả cho thấy: khả năng sử dụng từ đã
học một cách chính xác trong các tình huống sau TN đã đạt được. Điều này có
nghĩa là các biện pháp có tác động tích cực đến khả năng dùng từ đúng của trẻ.
Số lượng từ mà anh ấy có thể hiểu và nói đã thay đổi. Trước khi thực nghiệm, số từ
mà N hiểu được là 11 từ và nói được là 17 từ. Sau khi thực nghiệm, số từ mà N
hiểu được là 22 từ và nói được là 26 từ. Kết quả này một lần nữa khẳng định các

biện pháp đề xuất và tiến hành thực nghiệm có tác động hiệu quả trong việc giúp
trẻ nâng cao vốn từ.
Qua thời gian tiến hành thực nghiệm và làm việc với kết quả có kết hợp với so
sánh kết quả trước và sau thực nghiệm, về cơ bản chúng tôi khẳng định rằng các
biện pháp giúp phát triển vốn từ dựa trên cơ sở của 01 trẻ 3 – 4 tuổi RLPTK là có
khả năng và tốt. tác động vào việc giúp trẻ phát triển vốn từ.
3. Kết luận
Vốn từ của trẻ tự kỷ sẽ được phát triển tích cực nếu được can thiệp sớm đúng lúc,
đúng thời lượng, đúng phương pháp và có sự phối hợp giữa gia đình và nhà
trường. Giáo viên đã sử dụng các biện pháp giúp đỡ trẻ ở trường mẫu giáo hòa
nhập nhưng còn thiếu sự linh hoạt trong việc kết hợp các biện pháp, các biện pháp
đó đơi khi chưa chú trọng đến việc hình thành vốn từ mà chủ yếu là về mặt nhận
thức. Chúng ta cần suy nghĩ về các biện pháp giáo viên ở trường mẫu giáo hòa
nhập giúp trẻ tự kỷ phát triển vốn từ. Kết quả thực nghiệm cho thấy vốn từ của trẻ


có sự tiến bộ về các tiêu chí. Điều này chứng tỏ rằng các biện pháp được đề xuất đã
có tác động tích cực đến đứa trẻ. Giáo viên có thể áp dụng các biện pháp đề xuất
này kết hợp với việc sử dụng linh hoạt nhiều biện pháp nhằm phát triển vốn từ cho
trẻ RLPTK trong các lớp học, các hoạt động miễn là phù hợp với điều kiện cơ sở
vật chất của lớp, trường. Trong quá trình sử dụng các biện pháp, giáo viên cần tận
dụng mọi hoàn cảnh xung quanh trẻ, kể cả cuộc sống hàng ngày của trẻ để tạo cơ
hội cho trẻ học từ mới ở mọi nơi, mọi lúc.



×