CÁC VẤN ĐỀ PHỔ BIẾN TRONG QUYẾT ĐỊNH NGHỀ NGHIỆP CỦA
HỌC SINH TRUNG HỌC – ĐƯA RA LỰA CHỌN VÀ HỖ TRỢ ĐO LƯỜNG
TRONG TƯ VẤN NGHỀ NGHIỆP
Nghiên cứu này được thực hiện trên 2131 học sinh của 8 (tám) trường THPT nội
và ngoại thành Hà Nội về quyết định lựa chọn ngành học, nghề nghiệp của học
sinh trong quá trình ra quyết định chọn nghề. Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên
chưa đánh giá đầy đủ, chính xác đặc điểm bản thân liên quan đến chuyên ngành
học; nghề nghiệp; hiểu biết; hiểu biết về ngành, nghề, đại học, cao đẳng nghề còn
hạn chế; nằm trong vấn đề giải quyết mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái khi chọn
ngành, nghề; gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định lựa chọn ngành, nghề phù
hợp. Kết quả của những vấn đề này là một nửa số học sinh được khảo sát chưa
chọn được ngành và ngành học. Số học sinh còn lại lựa chọn ngành học nhưng hầu
hết các lựa chọn đều không phù hợp. Trên cơ sở kết quả đó,
1. Giới thiệu
Chọn nghề nào cho tương lai, chọn trường nào để học ln là những câu hỏi khó
đối với mỗi học sinh THPT. Trong quá trình ra quyết định chọn nghề, học sinh gặp
nhiều khó khăn trong việc tự nhận thức, đánh giá bản thân, tìm kiếm thơng tin về
ngành học, đơn vị đào tạo, mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái trong quá trình ra
quyết định chọn nghề. Những khó khăn này nếu khơng được giải quyết một cách lơ
là sẽ gây tâm lý lo lắng cho các em và khiến các em có những quyết định không
đúng đắn trong việc chọn nghề.
Tại các quốc gia trên thế giới, Georgia A. Koumoundourou, Kalliopi Kounenou,
Eftyxia Siavara (2012), nghiên cứu này khám phá vai trò trung gian của việc tự
đánh giá sự tự tin đối với quyết định nghề nghiệp của 200 học sinh trung học ở Hy
Lạp. Nhóm tác giả khẳng định, đối với sinh viên nữ, kết quả bài thi ảnh hưởng trực
tiếp và gián tiếp đến sự tự tin trong quyết định chọn nghề. Đối với nam sinh, kết
quả thi chỉ có tác động gián tiếp đến sự tự tin trong quyết định chọn nghề. 1 . Aaron
D. Miller, Patrick J. Rottinghaus (2014) đã đánh giá mối quan hệ giữa trí tuệ cảm
xúc và các mẫu xung đột trong việc ra quyết định lựa chọn của học sinh trung học
ở Ý2 . Tirza Willner, Itamar Gatia, Yanjun Guanb (2015) đã đánh giá các vấn đề
của thanh thiếu niên trong việc lựa chọn ra quyết định nghề nghiệp và hồ sơ ra
quyết định nghề nghiệp nhằm giúp họ quyết định nghề nghiệp tốt hơn. Nghiên cứu
này tập trung vào mối quan hệ giữa bảng câu hỏi quyết định nghề nghiệp và bảng
câu hỏi về các vấn đề trong việc ra quyết định. 3 . Dana Vertsberger, Itamar Gati
(2016) Nghiên cứu tập trung vào các hình thức hỗ trợ khác nhau để thanh thiếu
niên cân nhắc khi đưa ra quyết định nghề nghiệp và chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng
đến ý định tìm kiếm sự hỗ trợ của chuyên gia. Các kết quả trên cũng cho thấy sự đa
dạng về hiệu quả nhận thức giữa các nguồn hỗ trợ khác nhau (ví dụ: gia đình và
bạn bè, cố vấn nghề nghiệp và Internet) và ý định sử dụng chúng. Thanh thiếu niên
có xu hướng tìm kiếm sự giúp đỡ từ các nguồn dễ tiếp cận (chẳng hạn như gia đình
và bạn bè và Internet), nhưng ít người tìm kiếm từ các nguồn đã được chứng minh
là thực sự hiệu quả đối với họ (ví dụ: cố vấn nghề nghiệp, bài kiểm tra trực
tuyến)4 . Neslihan BolatHatice Odac (2017), nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa
quyết định nghề nghiệp và phong cách của học sinh năm cuối cấp ba. Kết quả cho
thấy hiệu quả của việc ra quyết định nghề nghiệp có tương quan đáng kể với phong
cách an tồn, sợ hãi và gắn bó, và sự lựa chọn ra quyết định nghề nghiệp của bản
thân phù hợp với xu hướng giới tính.5 . Lucia Kvitkovičová, Tomotaka Umemuraa,
Peter Maceka (2017), nghiên cứu này xem xét mối quan hệ gắn bó của cha, mẹ,
bạn thân và người yêu trong quá trình ra quyết định nghề nghiệp (thông tin nghề
nghiệp, mục tiêu và xác định công việc) của học sinh trung học. . Nghiên cứu cho
thấy rằng người yêu là yếu tố có ảnh hưởng nhất trong quá trình ra quyết định nghề
nghiệp của học sinh trung học, mặc dù mối quan hệ thân thiết với cha mẹ và bạn
thân cũng rất quan trọng trong việc lựa chọn nghề nghiệp của họ.6 .
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Phạm Thị Ly, Nguyễn Thị Kim Liên, Nguyễn Trọng
Tuấn, Tơ Hồi Thắng, Hồng Hữu Dũng, Nguyễn Như Ngọc (2016) đề cập đến các
yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn trường của sinh viên tại một số trường đại
học ở Việt Nam bao gồm: 1/ Ấn tượng về các trường đại học; 2/ Kênh thông tin về
trường đại học; 3/ Lý do chọn trường đại học đó; 4/ Lý do chọn ngành của sinh
viên7 . Nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng, Đặng Thị Vân (2016), nghiên cứu vấn
đề tâm lý trong hướng nghiệp của học sinh THPT huyện Trực Ninh, Nam
Định. Các em chỉ ra những khó khăn tâm lý đó là: mâu thuẫn giữa sự lựa chọn
nghề nghiệp của bản thân và sự áp đặt của cha mẹ, giữa năng lực và đam mê, sở
thích.8 .
Các nghiên cứu này đã chỉ ra những khó khăn trong quá trình chọn ngành, chọn
nghề và đề cập đến vai trò quan trọng của người tư vấn hướng nghiệp, nhưng chưa
đề cập đến các biện pháp cụ thể để tháo gỡ từng loại khó khăn cho học sinh trong
quá trình chọn ngành, chọn nghề. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu những khó khăn
của học sinh trong việc chọn ngành, chọn nghề từ đó đề xuất các biện pháp hỗ trợ
hiệu quả trong công tác tư vấn hướng nghiệp. Nghiên cứu được thực hiện bằng
phương pháp khảo sát (trắc nghiệm) với 2131 học sinh của 4 trường THPT nội
thành và 4 trường THPT ngoại thành: THPT Trần Nhân Tông - Quận Hai Bà
Trưng, THPT Phan Đình Phùng - Ba Đình Quận, THPT Trần Phú, Q.Hoàn Kiếm,
THPT Nguyễn Gia Thiều - Q.Long Biên; THPT Cao Bá Quát - Huyện Gia
Lâm; THPT Ngọc Tảo - Huyện Phúc Thọ; THPT Vân Nội - Huyện Đông Anh,
THPT Phú Xuyên A - Huyện Phú Xuyên.
2. Nội dung
2.1. Thực trạng chọn ngành, chọn nghề của học sinh THPT
Đáp án cho câu hỏi "Chọn ngành, nghề gì?" Cho thấy tỷ lệ sinh viên chọn ngành,
nghề để làm việc chỉ chiếm hơn một nửa (51,81%). Ở khu vực nội thành và ngoại
thành, khơng có sự khác biệt về kết quả xét tuyển ngành, nghề.
Bảng 1. Ngành, nghề của học sinh THPT
Đặc điểm nghề nghiệp và chuyên ngành của 51,81% sinh viên đã chọn nghề và
chuyên ngành về năng lực, hứng thú, tính cách được đánh giá qua các trắc nghiệm:
(1) Alfred.W. Bài kiểm tra IQ. MunZent; (2) Bài kiểm tra "Năng lực nghề nghiệp"
của John Holland; (3) Bài kiểm tra hứng thú nghề nghiệp của AEGoller; (4) Trắc
nghiệm tính cách MBTI.
Căn cứ vào kết quả thi trắc nghiệm, học sinh đã chọn ngành, nghề được chia thành
4 mức thông qua các tiêu chí:
- Mức độ 1: Lựa chọn ngành, nghề phù hợp. Ở cấp độ này, học sinh lựa chọn
ngành nghề và chuyên ngành hoàn toàn phù hợp với tất cả các đặc điểm của nó
như tính cách, năng lực, hứng thú.
- Mức độ 2: Chọn ngành, nghề tương đối phù hợp. Ngành, nghề học sinh chọn phù
hợp với hầu hết các đặc điểm của bản thân như phù hợp với năng lực, tính cách
nhưng ít phù hợp với hứng thú.
- Mức độ 3: Chọn ngành, nghề ít phù hợp. Nghề và ngành chọn chỉ phù hợp với
một phần đặc điểm riêng của mình, chẳng hạn chỉ phù hợp với hứng thú và năng
lực; Hoặc chỉ phù hợp với hứng thú và cá tính của bạn.
- Mức độ 4: Lựa chọn ngành, nghề không phù hợp. Ngành nghề học sinh lựa chọn
hồn tồn khơng phù hợp với hứng thú, năng lực và tính cách của các em.
Chỉ có 3,24% học sinh được khảo sát chọn ngành, nghề phù hợp với tính cách của
bản thân. Như vậy, 96,76% học sinh có nhu cầu được tư vấn hướng nghiệp ở các
mức độ khác nhau.
Bảng 2. Mức độ phù hợp giữa ngành, nghề đã chọn và tính cách của bản
thân sinh viên
2.2. Khó khăn trong chọn ngành, chọn nghề
Tư vấn hướng nghiệp chỉ thực sự hiệu quả khi người tư vấn hiểu rõ những vấn đề
chung mà học sinh gặp phải về ngành, nghề trong q trình chọn ngành, chọn
ngành.
Khó khăn là năng lực tự đánh giá của đa số học sinh còn yếu. Họ cho rằng “ khả
năng tự đánh giá còn hạn chế ” (88,17%). Anh ấy/cô ấy không thể tự trả lời câu
hỏi: Năng lực của tơi là gì? Tính cách của bạn là gì? Bạn quan tâm đến loại công
việc nào? Học sinh thường lúng túng trong việc đánh giá bản thân. Như vậy có đến
88,96% trong tổng số “ không biết chọn ngành, nghề phù hợp với mình ” khi bản
thân chưa nhận thức rõ ràng.
Đa số sinh viên được khảo sát cho biết “ thiếu hiểu biết về ngành, nghề ”
(86,02%). Học sinh chỉ biết chung chung về ngành nghề, chuyên ngành đào tạo mà
chưa đi sâu tìm hiểu chi tiết về ngành nghề, chuyên ngành đào tạo. Học sinh chỉ
biết một chiều về ngành nghề, ngành học, đó là mức lương cao hay thấp từ ngành
nghề đó và vị trí nơi làm việc. Rất ít sinh viên nhận thức được nghề của mình ở các
lĩnh vực khác như yêu cầu, đặc điểm của ngành, nghề và đòi hỏi về năng lực, đặc
điểm, phẩm chất của người làm việc trong ngành đó. Hầu như khơng có học sinh
nào biết được nhu cầu xã hội của ngành nghề, chuyên ngành đào tạo.
Gần 2/3 số người được khảo sát là “ thiếu hiểu biết về nhà trường ” (64,29%). Kiến
thức về trường bao gồm nhiều thông tin nhưng học sinh chỉ biết về trường về khối
thi, điều kiện xét tuyển, chỉ tiêu xét tuyển, điểm chuẩn đầu vào, mức độ uy tín của
trường… Rất ít học sinh tìm hiểu các nội dung khác của trường như mơi trường
học tập, học phí, chất lượng đào tạo ngành, nghề…
Nguyên nhân của tình trạng thiếu hiểu biết về ngành, nghề là do sinh viên “khó
khăn trong việc tra cứu thông tin về nghề” (67,10%). Một số em không biết tìm
thơng tin ở đâu. Đa số sinh viên cho biết, thông tin trên mạng rất khác nhau nên
sinh viên không biết đâu là thông tin đúng, đâu là thông tin sai. Thơng tin có đảm
bảo chính xác, đúng hay sai? Và khi nào thông tin được cập nhật? ... Vì vậy, việc
tra cứu thơng tin, lựa chọn thơng tin và phân tích thơng tin về ngành, nghề là một
vấn đề tương đối phức tạp mà bản thân sinh viên không thể tự giải quyết được.
Gần một nửa số người được hỏi cho biết họ “ thiếu tài liệu liên quan đến hướng
nghiệp ” (43,45%). Đây là vấn đề không chỉ sinh viên gặp phải mà giáo viên còn
thiếu tài liệu, sách báo, thông tin liên quan đến ngành, nghề cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến việc lựa chọn của sinh viên. Một học sinh ở ngoại thành chia sẻ: " Trường
em hầu như khơng có tài liệu hướng nghiệp nào được ban hành để chúng em tham
khảo. Trên thư viện trường chỉ có 3tr (ba) cuốn sách có tên là hoạt động giáo dục
ở trường phổ thông ". Thực tế, trên thị trường sách, học sinh khó tìm được nhiều
tài liệu về hướng nghiệp, chọn nghề. Thông tin về ngành, nghề cịn ít, chung
chung, thiếu cập nhật.
Đa số khó khăn của học sinh ngoại thành nhiều hơn nội thành.
Ở Việt Nam, gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến q trình học tập và quyết định
tương lai của học sinh. Cha mẹ chi trả tồn bộ học phí học tập và rèn luyện đôi khi
có thể can thiệp sâu vào q trình chọn ngành, chọn nghề. Sự ảnh hưởng này thể
hiện ở hai mặt: Tích cực và Tiêu cực. Ảnh hưởng tích cực khi cha mẹ khuyến khích
con trong q trình chọn ngành, chọn nghề, định hướng ngành, nghề cho con bằng
năng lực hiểu biết của mình. Tác động tiêu cực xảy ra khi cha mẹ thường bắt con
chọn ngành, nghề theo xu hướng của cha mẹ, khơng cho con quyền quyết định. Ví
dụ: "Có những gia đình có nghề truyền thống, bố mẹ là nhân viên ngân hàng và
bảo con cái phải theo đuổi, nhưng cậu sinh viên đó rất đam mê và có khả năng
trong lĩnh vực nghệ thuật, em muốn đi theo con đường nghệ thuật nhưng bố mẹ
nhất định không cho phép. “ Hơn một nửa số sinh viên được khảo sát cho biết
“ chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa bản thân và bố mẹ trong việc lựa chọn
ngành học, nghề nghiệp ” (52,98%). tâm lý muốn áp đặt của cha mẹ lên con cái là
một trong những khó khăn trong việc lựa chọn ngành, nghề của học sinh, dẫn đến
tâm lý buồn phiền, bất an cho học sinh.
Bảng 3. Các vấn đề sinh viên gặp phải trong q trình lựa chọn ngành
học và nghề nghiệp
Có sự khác biệt trong đánh giá về mức độ khó khăn giữa học sinh nội thành và
ngoại thành đối với những học sinh khơng bị thiệt thịi trong việc giải quyết mâu
thuẫn giữa bản thân và cha mẹ trong việc chọn ngành, nghề. Tỷ lệ học sinh ở khu
vực nội thành này cao hơn khu vực ngoại thành. Kết quả khảo sát cho thấy, học
sinh ở khu vực thành thị hầu hết có bố mẹ là cơng chức nhà nước, thậm chí có bố
mẹ là quan chức cấp cao, có nhiều mối quan hệ. Ngược lại, sinh viên thấy sau khi
ra trường khó tìm việc làm nên thường u cầu con lắng nghe ý kiến của mình và
bắt buộc phải học ngành, nghề để bố mẹ dễ kiếm việc làm cho con, sinh viên. và
không cho trẻ tự do quyết định. Ở các trường ngoại thành, phần lớn học sinh là con
em cha mẹ là nông dân, nông dân, hiểu biết về ngành học, nghề nghiệp của các bậc
cha mẹ này chưa nhiều nên họ tôn trọng ý kiến của con, chỉ mong con thi đỗ, vào
đại học, cao đẳng và có cơng việc ổn định và cuộc sống nhàn hạ sau này. Một sinh
viên ngoại thành cho rằng: "Bố mẹ em làm nông nên các mối quan hệ xã hội cũng
ít nên bố mẹ hoàn toàn ủng hộ quyết định của em và chỉ muốn em thi vào đại học
để tránh cuộc sống vất vả của người nông dân, và bố mẹ cũng không để em bị áp
lực ”.
2.3. Phép đo hỗ trợ
Để hỗ trợ học sinh tháo gỡ khó khăn trong việc chọn ngành, nghề, có thể áp dụng
các biện pháp sau:
Thước đo 1: Nâng cao nhận thức và tự đánh giá của học sinh
Giáo viên tư vấn hướng dẫn học sinh nhìn nhận, tự đánh giá trên 3 khía cạnh: (i)
Năng lực: ấn tượng về năng lực, sở trường, năng khiếu, học tốt các mơn học; (ii)
Tính cách, tính tình: Là người như thế nào, hướng nội hay hướng ngoại, nóng
nảy; Hoạt bát; thiền định hoặc đau khổ; (iii) tư lợi: Có những sở thích đặc biệt.
Cố vấn giúp học sinh đánh giá bản thân theo bốn cách:
Cách 1: Tự nhận thức, tự đánh giá. Cố vấn học đường thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Đặt câu hỏi về bản thân và tự trả lời: Mình có năng lực gì khác so với người
khác? Sở thích của tơi là gì? Niềm đam mê của tơi là gì? cơng việc u thích của
tơi là gì? Mơi trường làm việc u thích của tơi là gì? Tơi thường làm gì trong thời
gian rảnh rỗi? Tơi thích làm gì hàng ngày? Bạn thường khen tơi như thế nào? Điểm
yếu của tơi là gì? ...
- Lập danh sách điểm mạnh và điểm yếu của bạn: Liệt kê tất cả điểm mạnh, điểm
yếu của bạn về ngoại hình, tính cách, năng lực...
- Làm bài trắc nghiệm để tìm hiểu năng lượng, hứng thú, tính cách. Thơng qua các
bài kiểm tra này, học sinh có thể tự nhận thức về bản thân một cách tương đối
chính xác.
- Đối chiếu kết quả tự đánh giá với kết quả trắc nghiệm để khẳng định kết quả tự
đánh giá.
- Lập danh sách tất cả những điểm nổi bật, điểm mạnh và điểm yếu của mình từ kết
quả trắc nghiệm và phiếu tự đánh giá.
Cách 2: Tự tìm hiểu qua bạn bè, thầy cơ và bố mẹ. Nhà tư vấn hướng dẫn học sinh
nói chuyện với cha mẹ, bạn bè và giáo viên về bản thân, qua đó những học sinh
này nhận thức rõ hơn về bản thân.
Cách 3: So sánh mình với người khác. Người tư vấn hướng dẫn học sinh tự so sánh
mình với người khác để biết ai cao hơn hay thấp hơn, mình giỏi chỗ nào, chỗ nào
chưa thuận lợi.
Phương pháp 4: Tham gia vào các hoạt động. Tư vấn viên khuyên học sinh tham
gia vào các hoạt động để thể hiện bản thân, từ đó nhận ra điểm mạnh, điểm yếu và
khả năng của mình.
Sau khi học sinh tìm hiểu về bản thân, các em sẽ xác định được mình cần bổ sung
những gì, thiếu những gì, phải rèn luyện những gì cịn yếu. Qua đó, học sinh cảm
nhận và đưa ra nhận thức ban đầu về tính cách, khuynh hướng, nghị lực, hứng thú.
Biện pháp thứ 2: Nâng cao năng lực tìm kiếm thơng tin ngành, nghề cho học
sinh
Tư vấn viên hướng dẫn sinh viên: (i) cách tìm kiếm thông tin về ngành, nghề và
yêu cầu nghề nghiệp, nhu cầu thị trường lao động của xã hội; (ii) đánh giá và phân
tích thơng tin họ tìm thấy và thông tin do chuyên gia tư vấn cung cấp. Thông qua
đó, sinh viên nâng cao hiểu biết về ngành, nghề, nhu cầu, đặc điểm ngành, nghề và
nhu cầu thị trường lao động, về sự phát triển kinh tế của đất nước và địa phương.
Phương thức 1. Nhà tư vấn giúp học viên tìm kiếm, đánh giá thơng tin bằng các
cơng việc sau:
- Tư vấn trao đổi với học sinh thông qua các câu hỏi gợi mở để đánh giá sự lựa
chọn thơng tin của học sinh khi tìm hiểu về ngành, nghề:
Câu hỏi 1 . Khi tìm hiểu các chuyên ngành và nghề nghiệp này, bạn thường tìm
hiểu những vấn đề gì?
Câu hỏi 2 . Khi khám phá những chuyên ngành và nghề nghiệp này, bạn tìm hiểu
về cơng việc ở đâu?
Câu 3 . Khi tìm hiểu những chuyên ngành và nghề nghiệp này, bạn thấy khó khăn
gì trong nghề nghiệp của mình?
- Chuyên viên tư vấn trao đổi, phân tích và giúp học viên nhận ra những lỗ hổng
trong thơng tin mà các em đang tìm hiểu.
- Giáo viên tư vấn cho sinh viên những nội dung cơ bản về hướng nghiệp, chuyên
ngành cần học: (1) yêu cầu về trình độ, năng lực; (2) đối tượng lao động; (3) mục
đích lao động; (4) cơng cụ lao động; (5) điều kiện làm việc; (6) chống chỉ định y
tế; (7) điều kiện cần thiết để học nghề; (8) công việc cụ thể của nghề; (9) nơi làm
việc trong tương lai của nghề nghiệp; (10) Trường dạy nghề.
- Tư vấn hướng dẫn học sinh cách tìm kiếm thơng tin ngành, nghề thông qua tra
cứu danh sách trường ĐH, CĐ, ngành của Bộ GD&ĐT, thông báo tuyển sinh hàng
năm của các trường trên website; đọc tạp chí, tin tuyển dụng trên báo và truyền
hình; khám phá thế giới nghề nghiệp trong nước và quốc tế thông qua internet.
Phương thức 2: Hướng dẫn sinh viên tham gia các hoạt động do nhà trường tổ
chức nhằm nâng cao nhận thức về thế giới việc làm như: Viết hoặc hùng biện về
các chủ đề liên quan đến định hướng nghề nghiệp; tham gia các buổi hội thảo, giao
lưu với các nhân tài trong lĩnh vực chun ngành,…
Cách 3: Tìm hiểu thơng tin qua bạn bè, thầy cô, bố mẹ, người thân. Tư vấn hướng
dẫn học sinh trao đổi với cha mẹ, bạn bè, thầy cô về thông tin ngành nghề, ngành
học.
Thước đo 3: Nâng cao năng lực tìm kiếm thơng tin về trường đào tạo của sinh
viên
Khơng khó để các bạn học sinh tìm kiếm thơng tin về các trường, tuy nhiên để tìm
hiểu thơng tin về trường một cách cụ thể, đầy đủ và rõ ràng thì các bạn cần phải
biết cách thực hiện. Biện pháp này nhằm nâng cao năng lực của sinh viên trong
việc tìm kiếm thơng tin về các trường đào tạo. Để làm được điều này, nhà tư vấn
nên làm như sau.
Cách 1 . Nhà tư vấn giúp học viên tìm kiếm và đánh giá thơng tin thơng qua các
công việc sau:
- Tư vấn trao đổi với sinh viên bằng những câu hỏi gợi mở nhằm đánh giá sự lựa
chọn thơng tin của sinh viên khi tìm hiểu về trường:
Câu 1. Khi tìm hiểu nhà trường, em thường tìm hiểu những vấn đề gì?
Câu hỏi 2 . Bạn tìm hiểu thơng tin về trường ở đâu?
Câu 3 . Bạn gặp khó khăn gì khi tìm hiểu về các trường đào tạo?
- Cán bộ tư vấn và sinh viên trao đổi thông tin, giúp sinh viên khẳng định những
thông tin bản thân tìm thấy là chưa đầy đủ.
- Tư vấn định hướng thông tin về trường mà học sinh có nhu cầu tìm kiếm. Chun
viên tư vấn giới thiệu đến học viên các nội dung sau: (1) có bao nhiêu trường cao
đẳng, đại học; (2) Tổ hợp môn thi và Điều kiện thi tuyển/tuyển sinh; (3) Điểm
chuẩn của trường, điểm chuẩn ngành và chuyên ngành của các năm trước; (4) Chỉ
tiêu trường, chỉ tiêu ngành học; (5) môi trường và điều kiện học tập; (6) địa điểm
trường đào tạo; (7) học phí; (8) Chất lượng các chuyên ngành đào tạo của trường…
- Cán bộ tư vấn trao đổi, hướng dẫn sinh viên cách tìm kiếm thơng tin về các
trường đào tạo như: Tra cứu thông tin qua mạng internet, website của Bộ GD&ĐT,
các trường ĐH, CĐ; Trang web cung cấp thơng tin hướng nghiệp uy tín: Tuổi Trẻ,
Dân Trí, Thanh Niên; Tìm hiểu thơng tin qua sách, báo, tờ rơi hướng nghiệp ((cẩm
nang tuyển sinh, hướng nghiệp Nhất Nghệ Tinh "Tư sách hướng nghiệp nhất nghệ
tinh", những điều cần biết về tuyển sinh đại học, cao đẳng "Nhung điều có thể biết
về tuyen sinh dai hoc" xuất bản hàng năm của Bộ GD&ĐT, các ấn phẩm của
trường, của các báo như Giáo dục (giáo dục), Tuổi trẻ (Tuổi trẻ), Thanh niên
(Thanh thiếu niên)…)
Cách 2: Tư vấn khuyên học sinh đến tham quan các trường đại học, cao đẳng để
xem mơi trường, điều kiện học tập. Tìm hiểu thêm về các ngành nghề và chuyên
ngành mà sinh viên quan tâm.
Cách 3: Tư vấn khuyên học sinh tìm hiểu thông tin về trường qua bạn bè, thầy cô,
cha mẹ và người thân. Tư vấn hướng dẫn học sinh trao đổi với phụ huynh, bạn bè,
thầy cô về ngành nghề, trường đào tạo chuyên ngành.
Thước đo 4: Hình thành năng lực nghề, chọn ngành
Tư vấn viên tiến hành các công việc sau:
- Giúp học sinh xác định mối quan hệ giữa năng lực và tính cách, hứng thú của bản
thân đối với nghề, nghiệp.
Nhà tư vấn hướng dẫn học sinh phân tích, so sánh tính cách, năng lực, hứng thú,
hồn cảnh của mình với yêu cầu, đặc điểm của nghề và nhu cầu của xã hội. Từ đó,
học sinh tìm được sự phù hợp giữa đặc điểm của bản thân với ngành nghề, chuyên
ngành học để lựa chọn phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Trong quá trình này, sinh viên phân tích, so sánh, tương quan giữa đặc điểm của
bản thân và sự hiểu biết về nghề nghiệp, ngành học và thị trường lao động của xã
hội. Học sinh so sánh các đặc điểm của bản thân bao gồm năng lực, giá trị, sở
thích, tính cách và hồn cảnh gia đình với đặc điểm, nội dung, cơng cụ, mơi trường
làm việc của nghề nghiệp, yêu cầu của nhà tuyển dụng, loại hình cơng việc. Trong
q trình so sánh sẽ xảy ra nhiều tình huống như: Dịng phù hợp với tính cách
nhưng khơng phù hợp với năng lực, trình độ nhưng không phù hợp với hứng
thú; ngành nghề phù hợp với tính cách, năng lực nhưng chưa phù hợp với nhu cầu
lao động.... Vì vậy, người tư vấn phải lưu ý học sinh kỹ lưỡng để lựa chọn ngành
nghề, ngành học phù hợp.
Để làm được điều đó, nhà tư vấn yêu cầu sinh viên làm như sau:
+ Phân tích đặc điểm tâm lý học sinh về tính cách, cá tính, hứng thú và đưa ra 5 lựa
chọn nghề nghiệp của các em liên quan đến đặc điểm tâm lý.
+ Phân tích u cầu về năng lực, trình độ của từng ngành nghề, chuyên ngành đào
tạo
+ Tìm điểm chung giữa năng lực, tính cách, sở thích và yêu cầu về năng lực, trình
độ của từng ngành, nghề.
+ Nếu học sinh chưa chọn được ngành nghề liên quan đến đặc điểm tâm lý của bản
thân, học sinh cần mở rộng danh mục ngành nghề mình quan tâm, sau đó cân nhắc
xem xét đặc điểm nào là quan trọng nhất trong việc lựa chọn ngành học. và nghề
nghiệp. Kết quả phân tích là thu được danh sách 5 ngành.
- Hỗ trợ sinh viên xác định 3 chuyên ngành, ngành nghề và trường đào tạo phù hợp
để lựa chọn
Tư vấn xác định 3 (ba) ngành, nghề phù hợp cho học sinh: Có nhiều lựa chọn khác
nhau dựa trên sự kết hợp đa dạng về năng lực, giá trị, cá tính và hứng thú của mỗi
cá nhân. Vì vậy, các em học sinh thường đưa ra nhiều lựa chọn phù hợp khác nhau
về chuyên ngành và nghề nghiệp, đào tạo, rèn luyện phù hợp với năng lực, tính
cách và hứng thú của từng em. Nhà tư vấn nên hướng dẫn sinh viên thu hẹp lựa
chọn công việc, bằng cách loại bỏ những lựa chọn không phù hợp với năng lực,
tính cách và hứng thú của họ.
Để làm được điều đó, nhà tư vấn yêu cầu sinh viên làm như sau:
+ Sắp xếp 5 (năm) ngành đã chọn theo thứ tự từ nhiều hơn trở xuống có chung đặc
điểm với bản thân.
+ Chỉ giữ 03 (ba) ngành đứng đầu danh sách.
- Giúp học sinh tìm trường mình đã chọn .
Công việc của tư vấn viên là hướng dẫn học sinh tìm trường đào tạo ngành nghề
mà mình đã chọn ở trên bằng cách so sánh năng lực của học sinh đó với yêu cầu
tuyển sinh của trường đại học, cao đẳng. Mục đích giúp học sinh tìm được trường
phù hợp để đăng ký học.
Để làm được điều đó, nhà tư vấn yêu cầu sinh viên làm như sau:
+ Liệt kê các trường có đào tạo 3 chuyên ngành, nghề nghiệp trên; Làm rõ các nội
dung đã tìm hiểu ở từng trường, xếp hạng các trường theo điểm xét tuyển từ cao
xuống thấp.
+ Phân tích năng lực, học lực của học sinh;
+ Xác định trường đào tạo phù hợp với từng ngành nghề, chuyên ngành đào tạo.
- Giúp học sinh phân tích, so sánh mức độ phù hợp giữa bản thân với 3 ngành,
nghề đã xét để từ đó đưa ra quyết định chọn ngành, nghề phù hợp.
Nhà tư vấn nên trao đổi với sinh viên về sự phù hợp với công việc: sự phù hợp với
nghề nghiệp được coi là sự tương thích trong cặp “nghề - người”; Đặc biệt, đó là
sự tương ứng giữa đặc điểm tâm - sinh lý của cá nhân với yêu cầu đặc thù của công
việc trong ngành nghề đối với lực lượng lao động và yêu cầu xã hội đối với nghề.
Từ 3 phương án đã xác định ở trên, chuyên viên tư vấn hướng dẫn sinh viên phân
tích kỹ từng điểm mạnh, điểm yếu của bản thân đối với yêu cầu, đặc điểm của từng
ngành, nghề; Phân tích ưu nhược điểm của từng chi nhánh; Cân nhắc những bất
cập và lợi ích của từng phương án đối với bản thân và người thân trong gia đình,
cộng đồng xã hội.
Để làm được điều đó, nhà tư vấn yêu cầu sinh viên làm như sau:
+ Xem xét kỹ từng ngành nghề, chuyên ngành về điểm mạnh, điểm yếu và ưu
nhược điểm của bản thân
+ Đối chiếu, so sánh với nhu cầu thị trường lao động, điều kiện gia đình
+ Sắp xếp các ngành nghề cùng với các trường đào tạo theo thứ tự ưu tiên.
Qua đó, các em dần xác định được cho mình và lựa chọn ngành nghề, ngành học,
trường đào tạo phù hợp nhất. Khi được cân nhắc kỹ lưỡng, học sinh sẽ tự tin đưa ra
quyết định cho mình; Người tư vấn chỉ động viên, khẳng định năng lực để học sinh
tự tin đưa ra lựa chọn đúng đắn.
Thước đo 5: Nâng cao năng lực giải quyết các vấn đề trong quá trình chọn nghề
của học sinh
Như đã đề cập ở trên, học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề
trong quá trình chọn nghề, đặc biệt là giải quyết mâu thuẫn giữa cha mẹ và con cái
trong việc chọn ngành, nghề. Mục đích của biện pháp này là nhằm nâng cao năng
lực giải quyết vấn đề của học sinh khi gặp khó khăn, đặc biệt là khó khăn về tâm
lý.
Giáo viên tư vấn định hướng cho học sinh các công việc sau:
+ Xác định khó khăn của bản thân: Học sinh cần xác định chính xác khó khăn đó là
gì? Sắp xếp thứ tự độ khó.
+ Xác định và phân tích ngun nhân của các vấn đề đó. Trong bối cảnh này, cố
vấn hỗ trợ học sinh hiểu và phân tích nguyên nhân của vấn đề.
+ Đưa ra giải pháp theo nguyên nhân học viên đã phân tích, tư vấn viên hỗ trợ học
viên tìm ra giải pháp. Lúc này, nhà tư vấn và học sinh có thể đưa ra nhiều phương
án.
+ Phân tích ưu nhược điểm của các phương án. Dựa trên các phương án được cung
cấp, tư vấn viên hỗ trợ học sinh phân tích kỹ lưỡng từng ưu nhược điểm, điểm
mạnh và điểm yếu của từng phương án.
+ Để lựa chọn giải pháp thích hợp nhất. Cố vấn hỗ trợ học sinh trong việc ưu tiên
các lựa chọn giải quyết. Học sinh chọn giải pháp có nhiều ưu điểm, thế mạnh và ít
nhược điểm hơn.
+ Để hoạch định kế hoạch thực hiện. Tư vấn hỗ trợ học sinh lập kế hoạch thực hiện
phương án giải quyết với thời gian và việc làm cụ thể. Trong quá trình thực hiện và
giải quyết, đơn vị tư vấn cần quan tâm, hỗ trợ, giám sát kịp thời để giúp họ thực
hiện phương án một cách hiệu quả nhất.
2.4. Kết quả của tác động
Căn cứ vào kết quả bài thi trắc nghiệm và câu trả lời mong đợi của sinh viên về
ngành đào tạo khi khảo sát, chúng tôi phân loại sinh viên theo từng vướng mắc mà
sinh viên gặp phải.
Có thể chia thành các nhóm vấn đề sau:
- Nhóm 1 : Bản thân chưa nhận thức đầy đủ và thiếu hiểu biết về ngành, nghề, mâu
thuẫn trong chọn ngành, chọn ngành giữa bản thân và cha mẹ; giữa năng lực và
hứng thú chọn nghề; Không biết chọn nghề gì.
- Nhóm 2 : Sinh viên nhận thức chưa đầy đủ về bản thân, thiếu hiểu biết về ngành,
nghề chưa lựa chọn được hoặc chọn sai ngành, ngành, trường đào tạo.
- Nhóm 3 : Sinh viên có ý thức tự giác tương đối tốt, có kiến thức về ngành, nghề
tốt và đầy đủ, đã chọn đúng ngành nhưng chọn sai đơn vị đào tạo.
- Nhóm 4 : HS tự đánh giá tốt, có hiểu biết tốt, đầy đủ về nghề, ngành học, lựa
chọn đúng ngành, nghề và trường đào tạo
Theo kết quả kiểm tra trắc nghiệm và khảo sát ( Bảng 2 ), chỉ có 3,24% học sinh
thuộc nhóm 4. Các em tự chọn ngành, chọn trường đào tạo phù hợp mà không bị
tác động.
Bảng 4. Đo lường tư vấn cho từng nhóm được xác định cụ thể như sau
Với những biện pháp trên, chúng tôi chọn một lớp 12 trường THPT Ngọc Tảo để
tác động . Hiệu quả của biện pháp trên được thể hiện trong Bảng 5 .
Bảng 5. So sánh giữa lựa chọn ngành nghề và ngành học của sinh viên
trước và sau tác động
3. Kết luận
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh gặp nhiều khó khăn trong q
trình lựa chọn ngành, nghề. Những khó khăn này làm cho đa số học sinh có sự lựa
chọn ngành, nghề chưa phù hợp. Nghiên cứu đã xây dựng được 5 biện pháp tác
động hỗ trợ giải quyết cho ba nhóm học sinh sau khi được phân loại theo mức độ
khó khăn. Mỗi biện pháp đều cho thấy sự vận hành phù hợp và có tác động đến kết
quả và đã khẳng định hiệu quả của các biện pháp đã xây dựng.