Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Chuyển đổi số trong môi trường giáo dục đại học tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.11 KB, 14 trang )

CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG MÔI TRƯỜNG
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM
Huỳnh Thị Hồng Nhiên, Đặng Quỳnh Ngân
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Với sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ, chuyển đổi số
chính là xu hướng của xã hội nói chung và lĩnh vực giáo dục nói riêng. Việc áp dụng cơng nghệ
vào giáo dục có vai trị vơ cùng to lớn, tạo nên nhiều bước ngoặt phát triển, mở ra nhiều phương
thức giáo dục mới thông minh, hiệu quả hơn và đồng thời tiết kiệm chi phí cho người học. Đến
nay, xu hướng chuyển đổi số trong giáo dục (đặc biệt là trong giáo dục đại học) đã và đang tác
động sâu sắc đến con người. Do đó, trong phạm vi bài viết, nhóm tác giả đề cập khái quát một
số vấn đề lý luận về chuyển đổi số trong mơi trường giáo dục nói chung và giáo dục đại học
nói riêng, đồng thời, phân tích những thành tựu và hạn chế trong quá trình ứng dụng chuyển
đổi số vào sự nghiệp giáo dục. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất những phương hướng phát triển
trong thời gian tới để công cuộc chuyển đổi số diễn ra thành công hơn.
Từ khóa: chuyển đổi số, giáo dục đại học, khoa học và công nghệ
1. Đặt vấn đề
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã biến chuyển đổi số trở thành mục tiêu được
quan tâm hàng đầu với tất cả các quốc gia trên toàn thế giới. Với sự tác động to lớn của mình,
chuyển đổi số đã làm thay đổi mọi lĩnh vực của đời sống con người, từ cách thức điều hành,
quản lý xã hội đến cách thức con người sống và làm việc, sinh hoạt. Trong bối cảnh đó, ngành
giáo dục Việt Nam cũng đứng trước những cơ hội và thách thức lớn, đòi hỏi sự chuyển đổi sang
mơ hình mới, đặc biệt trong tình hình dịch bệnh Covid-19 bùng nổ và diễn biến phức tạp. Mục
tiêu của ngành giáo dục trong thời gian tới là phấn đấu để Việt Nam trở thành một trong những
quốc gia hàng đầu về chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo. Vậy, để hoàn thành mục tiêu
này, chuyển đổi số trong giáo dục, đặc biệt là chuyển đổi số trong giáo dục đại học, cần có
những định hướng phát triển như thế nào? Muốn trả lời được câu hỏi đó, chúng ta cần hiểu rõ
công cuộc chuyển đổi số trong môi trường giáo dục đại học đã và đang phải đối mặt với những
hạn chế gì. Các nội dung này sẽ được tác giả trình bày trong bài viết.
2. Tổng quan nghiên cứu
An Nguyên (2022), ”Chuyển đổi số trong giáo dục đại học: Khơng chuyển đổi thì khơng
tồn tại được”, Tạp chí Giáo dục.


Bùi Thị Huế, Bùi Đức Thịnh, Vũ Thị Tuyết Lan (2022), ”Chuyển đổi số trong giáo dục
và đào tạo: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam;
Chung Ngọc Quế Chi (2021), ”Chuyển đổi số trong giáo dục đại học: Tiền đề và thách
thức”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Chuyển đổi số trong giáo dục đại học”, Hiệp hội
Các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam, NXB Đà Nẵng.

454


Đào Thị Hợp (2021), “Một số quy định pháp luật về quản lý và tổ chức dạy học trực
tuyến”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
Huy Lân (2021), “Trường học đẩy mạnh chuyển đổi số”, Người lao động.
Mai Ngọc Tuấn (2021), “Tầm quan trọng của chuyển đổi số đối với giáo dục và đào tạo
trong giai đoạn hiện nay”, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
Nguyễn Qúy Thanh và Tôn Quang Cường (2020), “Những xu thế mới của công nghệ
trong giáo dục”, Hội đồng Lý luận Trung Ương.
Nguyễn Thị Ngọc (2022), Tháo gỡ những rào cản của quá trình chuyển đổi số trong
giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Thị Thu Vân (2021), “Chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục đại học”, Tạp
chí Quản lý nhà nước, Số 309, tr. 11.
Phạm Thị Thu Hương (2020), ‘Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học ở Việt
Nam đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0’, Tạp chí Tổ chức nhà nước;
Vũ Hải Quân (2021), “Chuyển đổi số trong giáo dục đại học”, Tạp chí Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã cung cấp những kiến thức nền tảng về vấn đề chuyển
đổi số nói chung và chuyển đổi số trong môi trường giáo dục đại học tại Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, các cơng trình chỉ tập trung nghiên cứu vào từng khía cạnh của vấn đề hoặc nêu một
cách vắn tắt các thông tin về chuyển đổi số bởi đặc điểm giới hạn về dung lượng của tạp chí và
báo điện tử, dẫn đến số lượng các bài viết phân tích sâu về q trình chuyển đổi số trong môi
trường giáo dục đại học ở Việt Nam chưa thực sự đa dạng. Do đó, trên cơ sở tổng hợp và phân

tích các thơng tin đã được cung cấp ở các cơng trình nghiên cứu đi trước, nhóm tác giả sẽ tổng
hợp khái quát một số vấn đề lý luận về chuyển đổi số trong môi trường giáo dục nói chung và
giáo dục đại học nói riêng, đồng thời, phân tích những thành tựu và hạn chế trong quá trình ứng
dụng chuyển đổi số vào sự nghiệp giáo dục; từ đó, đề xuất những phương hướng phát triển
trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết này, tác giả đã sử dụng kết hợp cả phương pháp nghiên cứu định tính và
phương pháp nghiên cứu định lượng, cụ thể như sau:
Đối với nghiên cứu định tính, tác giả đã sử dụng phương pháp chuyên gia để lấy ý kiến,
đánh giá, phân tích từ những người có chun mơn trình độ cao trong lĩnh vực giáo dục, giúp
tác giả nắm bắt được những vấn đề quan trọng, vạch ra được hướng đi cho bài viết. Đồng thời,
phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm cũng được tác giả bài viết sử dụng để xem xét và
đúc kết các thành quả từ những nghiên cứu đi trước.
Đối với phương pháp nghiên cứu định lượng, tác giả cũng đã sử dụng các số liệu được
cung cấp từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ các Hội nghị, Hội thảo và những bài viết uy tín về vấn
đề chuyển đổi số trong giáo dục. Từ đó, giúp người viết đã có những nhận định cơ bản về cơ
hội và thách thức của nền giáo dục đại học tại Việt Nam trong công cuộc chuyển đổi số.
455


4. Kết quả và thảo luận
4.1. Một số vấn đề lý luận về chuyển đổi số trong môi trường giáo dục đại học
4.1.1. Chuyển đổi số
Thứ nhất, khái niệm
Cho đến nay, trên thế giới vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về chuyển đổi số (Digital
Transformation), nhưng nhìn chung, chuyển đổi số có thể được hiểu theo nghĩa là việc sử dụng
dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả các khía cạnh của đời
sống kinh tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau (Ed Clark,
2018). Hay nói cách khác, chuyển đổi số chính là q trình chuyển từ mơ hình truyền thống
sang mơ hình số bằng cách ứng dụng các công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet

vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud computing),… và các phần mềm công nghệ để thay
đổi phương thức quản lý, điều hành, thay đổi quy trình, phương thức làm việc và thay đổi văn
hóa tổ chức (Nguyễn Thị Thu Vân, 2021), chuyển các hoạt động từ thế giới thực sang thế giới
ảo ở trên môi trường mạng. Nhờ vậy, con người dễ dàng và tiếp cận thông tin nhiều hơn, rút
ngắn về khoảng cách, thu hẹp về không gian, tiết kiệm về thời gian.
Thứ hai, tác động chung của chuyển đổi số lên các lĩnh vực
Chuyển đổi số chính là một cơng cuộc cải biến tồn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Chẳng hạn như:
Trong kinh doanh, chuyển đổi số mang lại nhiều lợi ích như cắt giảm chi phí vận hành,
tiếp cận được nhiều khách hàng hơn trong thời gian dài hơn, lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng
và chính xác hơn nhờ hệ thống báo cáo thông suốt, liên tục, kịp thời. Qua đó, hiệu quả hoạt
động và tính cạnh tranh của tổ chức, doanh nghiệp được nâng cao.
Trong quản lý hành chính nhà nước, việc chuyển đổi số cũng được ứng dụng nhằm nâng
cao hiệu suất làm việc. Ví dụ: xây dựng Chính phủ số nhằm sử dụng các công nghệ số như một
phần của các chiến lược hiện đại hóa của Chính phủ nhằm tạo ra giá trị công. Hoặc, một số dịch
vụ công trong tổ chức hành chính nhà nước sử dụng cơng nghệ thơng tin và truyền thông, bao
gồm: internet, các công nghệ thiết bị di động, phân tích dữ liệu nhằm mục đích thu thập, trao
đổi, phân tích, truy cập, tìm kiếm các nội dung số, phát triển các dịch vụ và ứng dụng (Chun
trang Cải cách hành chính, 2022).
Ngồi ra, chuyển đổi số còn tác động sâu rộng, bao trùm lên tất cả các ngành, các lĩnh
vực kinh tế - xã hội khác như xã hội số (giáo dục, văn hóa, y tế, an toàn xã hội) và chuyển đổi
số trong các ngành kinh tế trọng điểm (điện lực, du lịch, giao thông, cơng nghiệp), góp phần
tăng năng suất lao động, chuyển đổi mơ hình hoạt động, kinh doanh theo hướng đổi mới sáng
tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Trong lĩnh vực giáo dục, chuyển đổi số là việc ứng dụng công nghệ số vào việc đổi mới
mọi khía cạnh trong tổ chức và hoạt động của giáo dục (quản lý, dạy, học, nghiên cứu khoa học
và phục vụ cộng đồng). Trong điều kiện sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện
nay, kỹ năng và tri thức của con người trở thành tài sản chính yếu của mọi quốc gia, dân tộc.
Tác giả Thế Trường (2004) cho rằng: “Tri thức với tư cách là nguồn tài nguyên chủ chốt sẽ


456


thay đổi về cơ bản kết cấu xã hội, sáng tạo ra động lực phát triển mới, đồng thời thông qua sự
chuyển hóa hiện thực của các cá thể thay đổi tiến trình của sự sống”. Bởi vậy, chuyển đổi số
trong giáo dục là tất yếu khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu lãnh đạo, quản lý giảng dạy, học
tập của người lãnh đạo, người dạy và người học, giúp họ phát huy tối đa khả năng tư duy, tính
sáng tạo, chủ động, tích cực trong hoạt động lãnh đạo, dạy và học.
4.1.2. Chuyển đối số trong môi trường giáo dục đại học
Thứ nhất, hoàn cảnh ra đời
(1) Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục đại học:
Cách mạng công nghiệp 4.0 đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết
nối vạn vật, là sự hội tụ của nhiều cơng nghệ và tích hợp tất cả các cơng nghệ thơng minh. Do
đó, sự phát triển và phổ biến của công nghệ thông tin tại Việt Nam là một lợi thế trong cuộc
cách mạng số này. Cách mạng 4.0 làm nhiều công việc sẽ biến mất, những công việc mới được
tạo ra, nhiều ngành nghề sẽ được chuyển đổi. Điều này làm cho việc đầu tư và quan tâm vào
giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
(2) Sự xuất hiện và bùng nổ của đại dịch Covid-19: Năm 2020 đã chứng kiến diễn biến
chưa từng có trong lịch sử thế giới hiện đại. Nhiều hoạt động xã hội bị đình trệ trên phạm vi
quốc gia và tồn cầu do đại dịch Covid-19. Khi giáo dục là nhu cầu đương nhiên được đáp ứng,
chúng ta đối mặt câu hỏi: “Làm sao để được giáo dục?” Triển khai được hoạt động giáo dục
không chỉ là vấn đề cá nhân, mà còn của nhà trường, cơ quan quản lý và sự vận hành xã hội.
Khi giáo dục trực tiếp tại trường lớp là không thể, vấn đề chuyển đổi số trở thành giải pháp cứu
cánh. Nhờ các công cụ truyền thông, kỹ thuật số và nền tảng học tập, nhiều trường đại học đã
có thể cho sinh viên học tại nhà. Theo số liệu từ Hội nghị “Đào tạo trực tuyến giáo dục đại học
trong đại dịch Covid-19”, đến tháng 4/2020, cả nước có khoảng 110/240 cơ sở giáo dục đại
học đã triển khai đào tạo trực tuyến với các cấp độ khác nhau, khoảng gần 80% học sinh Việt
Nam đã học trực tuyến, xếp 17/200 quốc gia và vùng lãnh thổ kịp thời ứng dụng công nghệ
thông tin trong giáo dục để ứng phó đại dịch. Có thể nói, Covid-19 đã “giúp” tất cả các thành
phần trong xã hội Việt Nam vượt qua “ngưỡng của sự do dự” trong ứng dụng công nghệ thông

tin; tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục (Chung Ngọc Quế Chi, 2021, 122).
Thứ hai, nội dung chuyển đổi số trong cơ sở giáo dục đại học
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo chuyển đổi số tập trung vào hai nội dung chính là
chuyển đổi số trong quản lý giáo dục và chuyển đổi số trong dạy học, kiểm tra, đánh giá, nghiên
cứu khoa học:
(1) Chuyển đổi số trong quản lý giáo dục, bao gồm số hóa thơng tin quản lý đào tạo
như tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu lớn liên thơng về nội dung, chương trình dạy, hồ sơ
người học. Điều này cho phép kết nối giữa các cơ sở giáo dục với nhau và giữa gia đình với
nhà trường,… triển khai các dịch vụ công trực tuyến liên quan tới giáo dục giúp cho người học
giảm thiểu thời gian kê khai giấy tờ, ứng dụng các các thành tựu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư (như: blockchain, AI,…) để quản lý, điều hành, đưa ra các dự báo, hỗ trợ ra
quyết định trong ngành giáo dục đào tạo một cách nhanh chóng, chính xác nhưng khơng tốn
quá nhiều thời gian, công sức.
457


(2) Chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học, bao gồm
số hóa tài liệu học tập và giảng dạy như: sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng
E-learning, ngân hàng câu hỏi ôn tập, thư viện số, triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến, xây
dựng các trường đại học ảo (cyber university). Các lớp học truyền thống với những nhược điểm
như chi phí tổ chức cao, khơng gian phục vụ hạn chế, thời gian cố định… sẽ được thay thế bằng
các lớp học trực tuyến, từ xa, lớp học ảo. Khơng gian học tập đa dạng hơn, thay vì những phịng
thí nghiệm hay phịng mơ phỏng truyền thống thì người học có thể trải nghiệm học tập bằng
khơng gian ảo, có thể tương tác người với người, người với máy như thật thông qua các phần
mềm mô phỏng công nghệ thực tế ảo (virtual reality - VR). Điều này tạo điều kiện cho cả người
dạy và người học nâng cao hiệu suất làm việc cũng như tiếp cận tri thức một cách đơn giản,
nhanh chóng và hiệu quả nhất, chuyển việc truyền thụ kiến thức chủ yếu bằng phương pháp
thuyết trình, giảng giải sang phát triển năng lực người học, tăng khả năng tự học, tạo cơ hội học
tập mọi lúc, mọi nơi, cá nhân hóa việc học, góp phần tạo ra xã hội học tập và học tập suốt đời.
(3) Hay hiểu đơn giản hơn, người học có thể lựa chọn nội dung bài học phù hợp với

bản thân, học nhiều lớp, đọc nhiều tài liệu cùng lúc; cịn người dạy có cơ hội tiếp cận đối tượng
học sinh đa dạng hơn.
Thứ ba, xu hướng chuyển đổi số trong giáo dục đại học
Về bản chất, chuyển đổi số khơng thay đổi giá trị cốt lõi hay mơ hình của một tổ chức
giáo dục đại học mà là sự chuyển đổi hoạt động cốt lõi thông qua công nghệ và nền tảng số,
đồng thời nắm bắt các cơ hội mà chúng mang lại. Nói cách khác, chuyển đổi số là sự giao thoa
giữa công nghệ và chiến lược đào tạo. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra một số xu hướng
chuyển đổi số ở các trường đại học lớn trên thế giới cũng như những hiệu quả mà chuyển đổi
số có thể mang lại, đó là: mở rộng đối tượng người học, kết hợp giữa đào tạo trực tuyến và trực
tiếp; giảm chi phí nhưng tăng chất lượng đào tạo; thu thập và phân tích dữ liệu lớn của người
học để tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập, từ đó có những điều chỉnh về chính
sách, phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của người học cũng như của xã hội; sử dụng mạng lưới kết nối trực
tiếp/trực tuyến với doanh nghiệp/nhà tuyển dụng để đào tạo các kỹ năng, kiến thức cần thiết,
giúp người học có thể làm việc được ngay sau khi tốt nghiệp; ứng dụng thực tế ảo tăng cường
nhằm tạo mơi trường học có tương tác, nâng cao trải nghiệm học tập cho người học; ứng dụng
trí tuệ nhân tạo để cá nhân hóa q trình học, hỗ trợ nâng cao hiệu quả của cơng tác giảng dạy,
công tác quản lý, giáo vụ… (Vũ Hải Quân, 2021)
Thứ tư, tác động của chuyển đổi số đối với giáo dục đại học
Một là, sinh viên không bị giới hạn về thời gian, không gian học tập. Nền tảng trực
tuyến cho phép phá bỏ rào cản địa lý vốn là hạn chế của đại đa số sinh viên và giảng viên ở
những nước đang phát triển như Việt Nam. Giờ đây, sinh viên có thể truy cập các video trực
tuyến cung cấp hướng dẫn về nhiều chủ đề ở các mức kỹ năng khác nhau và tham gia vào các
hội nghị truyền hình thời gian thực với giảng viên ở trong hay ngồi nước (Nguyễn Q Thanh
và Tơn Quang Cường, 2020). Mặt khác, các ứng dụng công nghệ và nền tảng học trực tuyến
cùng mạng xã hội cho phép người học trên toàn thế giới tăng cường kết nối và trao đổi học

458



thuật, ý tưởng học tập, bí quyết, cơng nghệ, phát triển kinh doanh... Thông qua học tập trên nền
tảng kỹ thuật số, sinh viên có thể tự chủ hơn về cách học, hay nói cách khác, đây thực sự là cơ
hội để phát triển các kỹ năng tự nhận thức và quản lý bản thân, và từ đây xuất hiện q trình
“cá nhân hóa việc học” (personalized learning) (Trần Đình Mạnh, 2021).
Hai là, chuyển đổi số đòi hỏi các giảng viên phải thay đổi phương pháp giảng dạy cho
phù hợp. Chuyển đổi số khơng chỉ là số hóa bài giảng, hay ứng dụng các phần mềm vào soạn bài
dạy, mà cịn là sự chuyển đổi tồn bộ cách thức, phương pháp giảng dạy, kỹ thuật quản lý lớp
học, tương tác với người học sang không gian số, khai thác công nghệ thông tin để tổ chức giảng
dạy thành công. Điều này giúp người học, sinh viên có cơ hội được tiếp cận với các phương pháp
giảng dạy hiện đại, thúc đẩy tư duy tự học, tự nghiên cứu trong môi trường giáo dục mở.
Ba là, tăng cường sự hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các
cơ sở giáo dục đại học. Anh Đào (2022) cho rằng chuyển đổi số giúp gắn kết các quốc gia với
nhau. Các nước có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, trao đổi
chuyên gia, hợp tác nghiên cứu khoa học với nhau. Chuyển đổi số cịn giúp sinh viên có cơ hội
được nhận học bổng, làm việc với các tập đoàn lớn trên thế giới.
4.1.3. Những yêu cầu bảo đảm triển khai chuyển đổi số trong giáo dục đại học
Để thực hiện chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục đại học, chúng ta cần có các điều
kiện bảo đảm như sau:
Thứ nhất, thay đổi về cơ sở pháp lý, cần có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và
quy phạm nội bộ đầy đủ, đồng bộ liên quan đến học liệu (sở hữu trí tuệ, bản quyền tác giả);
chất lượng việc dạy học trên môi trường mạng (an tồn thơng tin mạng); bảo vệ thơng tin
cá nhân, an ninh thông tin trên môi trường mạng; kiểm định chất lượng, tính pháp lý và
cơng nhận kết quả khi dạy - học trực tuyến. Việc xây dựng và ban hành chính sách địi hỏi
sự nghiên cứu kỹ lưỡng và khoa học. Đồng thời, để chính sách đi vào đời sống, cần phải có
hệ thống các cơng cụ giám sát, quản lý và bảo đảm chất lượng giáo dục - đào tạo trực tuyến
và từ xa để bảo đảm tính giá trị của hình thức đào tạo này. Thể chế cần đi trước một bước
và được điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới, như: công nghệ mới, sản phẩm
mới, dịch vụ mới, mơ hình mới.
Thứ hai, để dạy học chuyển đổi số thành cơng, cần có mơi trường dạy học số; hệ thống
quản lý số; hệ sinh thái số. Dạy học số không thể triển khai được nếu khơng có hệ thống quản lý

phù hợp như: chính sách, văn bản quy định, hướng dẫn triển khai dạy học cho cơ sở, và sự chỉ
đạo thống nhất, đồng bộ. Môi trường dạy học số, hệ sinh thái số thể hiện ở việc số hóa các tài
liệu, bài giảng; các hồ sơ dạy học. Các trường cũng cần ứng dụng công nghệ thông tin vào trong
công tác sổ sách của giáo viên, hồ sơ như: sổ liên lạc điện tử, giáo án điện tử, sổ theo dõi chất
lượng giáo dục, sổ chủ nhiệm… giúp giáo viên giảm bớt công việc không tên, đồng thời giúp phụ
huynh theo dõi, đồng hành cùng nhà trường trong công tác giáo dục (Mai Ngọc Tuấn, 2021).
Thứ ba, bảo đảm về hạ tầng công nghệ mới, trang thiết bị mới cho cả người học, người
trực tiếp giảng dạy, cơ sở giáo dục đại học và cơ quan quản lý. Đi kèm thiết bị phần cứng là các
ứng dụng phần mềm thống nhất, các nền tảng tương thích và kết nối, tích hợp với nhau để toàn

459


bộ mọi hoạt động giáo dục đại học và quản lý của các cấp diễn ra trên đó. Đường truyền internet
ổn định là yếu tố cần phải có để các nền tảng này hoạt động (Đào Thị Hợp, 2021).
Thứ tư, nâng cao kỹ năng sử dụng cơng nghệ và trình độ ngoại ngữ của giảng viên và
sinh viên. Giảng viên là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành cơng của đào tạo trực tuyến,
từ xa và q trình chuyển đổi số. Giảng viên cần có những kỹ năng mới để tổ chức hoạt động
giảng dạy, duy trì sự tập trung và thu hút sự tham gia của sinh viên vào các nhiệm vụ và hoạt
động học tập (Phạm Thị Thu Hương, 2020). Đồng thời, giảng viên cũng cần thay đổi tư duy
học tập theo phương pháp truyền thống của sinh viên, giúp người học tiếp cận, làm quen với
việc học và nghiên cứu trong thời đại công nghệ như hiện nay.

Hình 1: Tác nhân, thành phần và hiệu quả của chuyển đổi số trong giáo dục đại học
(Nguồn: Vũ Hải Quân (2021))
Hình 1 minh họa một bức tranh tổng quát về các tác nhân, thành phần và hiệu quả của
chuyển đổi số trong giáo dục đại học. Theo đó, 3 tác nhân thúc đẩy q trình chuyển đổi số ở
một trường đại học là: (1) ngân sách nhà nước ngày càng giảm; (2) kỳ vọng ngày càng cao của
người học; (3) công nghệ ngày càng phát triển. Ba thành phần cơ bản của quá trình chuyển đổi
số gồm: (1) con người; (2) chiến lược; (3) công nghệ. Bốn hiệu quả được kỳ vọng khi thực hiện

chuyển đổi số là: (1) nâng cao chất lượng đào tạo, (2) nâng cao hiệu quả nghiên cứu, (3) xuất
hiện những phương thức/mô hình đào tạo mới, và (4) gia tăng nguồn lực tài chính. Sẽ là phiến
diện nếu chỉ coi chuyển đổi số đơn thuần là giảng dạy từ xa thông qua webcam mà cần phải coi
chuyển đổi số như là cả một hệ sinh thái đào tạo hiện đại với nhiều thách thức mới, cơ hội mới.
(Vũ Hải Quân, 2021)
4.2. Thực trạng chuyển đổi số trong môi trường giáo dục đại học
4.2.1. Thành tựu
Một là, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, đến năm 2021 có 53.000 trường học, 710
phịng giáo dục đào tạo đã được đưa vào sử dụng cơ sở dữ liệu toàn quốc về giáo dục; gần 24
triệu học sinh và hơn 1,4 triệu giáo viên được gắn mã định danh. Thông tin của trường đại học,
cao đẳng với 2,5 triệu sinh viên, 120.000 giảng viên cũng được cập nhật trên hệ thống cơ sở dữ
460


liệu ngành. Về cơ sở học liệu, bộ hợp tác phát triển kho học liệu số dùng chung gồm 5.000 bài
giảng E-learning, hơn 2.000 bài giảng trên truyền hình, 200 thí nghiệm ảo, 35.000 câu hỏi trắc
nghiệm, gần 200 đầu sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thơng và trên 7.500 luận
án tiến sĩ. Hệ thống quản lý hành chính điện tử kết nối 63 Sở Giáo dục và Đào tạo và hơn 300
trường đại học, cao đẳng trên cả nước với Bộ Giáo dục và Đào tạo hoạt động thơng suốt, ổn
định, phát huy hiệu quả tích cực (Huy Lân, 2021).
Hai là, nếu như thời gian trước, công tác quản lý trong giáo dục chủ yếu thông qua hồ
sơ, sổ sách là chính, thì giờ đây, việc quản lý hồ sơ, sổ sách của cán bộ, giáo viên đã được đơn
giản hóa bằng cơng nghệ thơng tin. Các dữ liệu của ngành giáo dục tất cả đã được cập nhật vào
hệ thống phần mềm giúp cho cán bộ quản lý tiện lợi mà không rườm rà về mặt sổ sách.
Ba là, sự tác động của đại dịch Covid-19 đã tạo động lực thúc đẩy chuyển đổi số trở nên
mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Hình thức dạy học trực tuyến, thi trực tuyến đã được đánh giá tích
cực. Báo cáo PISA (Chương trình Đánh giá học sinh quốc tế - Programme for International
Student Assessment) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận xét: việc học trực
tuyến để phòng, chống Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và
vùng lãnh thổ khác. Việt Nam có 79,7% học sinh được học trực tuyến. Tỷ lệ này cao hơn mức

trung bình chung của các nước OECD (67,5%). Ở bậc đại học, có trên 50% cơ sở giáo dục cũng
dạy học từ xa, trong đó nhiều trường áp dụng trực tuyến hoàn toàn, một số cơ sở kết hợp giữa
đào tạo trực tuyến và trực tiếp.
Bốn là, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý giáo dục, hỗ trợ đổi mới dạy - học, nghiên cứu khoa học triển khai trong
toàn ngành. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo thực hiện, hoàn thiện
hành lang pháp lý như: quy định ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức đào tạo
qua mạng; quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học; quy định quản lý, vận hành sử dụng hệ thống
cơ sở dữ liệu tồn ngành, mơ hình ứng dụng công nghệ thông tin trường phổ thông, chuẩn dữ
liệu kết nối,...
4.2.2. Hạn chế
Thứ nhất, phần lớn sinh viên và giảng viên vẫn chưa thể thay đổi, cũng như áp dụng
một cách triệt để và nhanh chóng các phương pháp mới, thay vào đó là vẫn chủ yếu sử dụng
phương pháp giảng dạy truyền thống. Hiện nay, điều quan trọng nhất là các giảng viên chưa
tiếp cận được với kỹ thuật công nghệ tiên tiến trong soạn bài giảng. Thực tế cho thấy, một bộ
phận giảng viên đã quen với phương thức đào tạo truyền thống, chưa kịp thích nghi với công
nghệ mới; đa số giảng viên chưa sẵn sàng cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, kết nối, ứng
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động nghiên cứu và giảng dạy. Đây là một nút thắt rất lớn,
cản trở quá trình chuyển đổi số trong giáo dục đại học.
Cùng với đó, sinh viên cũng chưa chủ động tiếp nhận phương pháp học trực tuyến. Do
vốn dĩ với thói quen học truyền thống, sinh viên chưa thật sự trang bị đầy đủ kiến thức về công
nghệ. Đại dịch Covid-19 đã buộc người học mà đa số là sinh viên phải lựa chọn học online mà
chưa hề có sự chuẩn bị. Bên cạnh những lý do kỹ thuật như trang thiết bị và hạ tầng viễn thơng,
cịn có những vấn đề do phương pháp và kỹ thuật giảng dạy của giảng viên chưa thuyết phục
461


được người học. Thêm vào đó, thực tế cho thấy, khả năng tự học, đọc tài liệu và lĩnh hội kiến
thức của sinh viên hạn chế hơn so với phương thức đào tạo truyền thống, đặc biệt với các môn
học cần sự tương tác giữa giảng viên và người học thì điều này càng được bộc lộ rõ.

Thứ hai, cơ sở vật chất, hạ tầng mạng, trang thiết bị (như: máy tính, camera, máy in, máy
quét), đường truyền, dịch vụ internet… còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, nhiều nơi chưa đáp ứng
yêu cầu cho chuyển đổi số. Mặc dù internet phổ biến nhưng mức độ kết nối của Việt Nam rất yếu,
hầu hết hệ thống các trường trang bị internet khơng đảm bảo tốc độ, thậm chí giảng viên đang
giảng dạy mất tín hiệu giữa chừng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng về cơ
hội học tập, tiếp cận kiến thức giữa học sinh sinh viên ở các vùng miền, các nhà trường.
Thứ ba, việc số hóa, xây dựng, cập nhật học liệu số, thẩm định, chia sẻ học liệu số đòi
hỏi sự đầu tư lớn về nhân lực (gồm cả nhân lực quản lý và nhân lực triển khai) cũng như tài
chính để đảm bảo kho học liệu số đầy đủ, đạt chất lượng, đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu,
tham khảo của học sinh sinh viên ở các cấp học, ngành học, môn học. Việc xây dựng kho học
liệu số (như: sách điện tử, thư viện điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, bài giảng điện tử,
phần mềm học điện tử, phần mềm ứng dụng mơ phỏng) cần phải có kế hoạch cụ thể và đồng
bộ, tránh việc phát triển tự phát dẫn đến lãng phí, mất thời gian, cơng sức và tài chính. Trong
khi đó, hiện nay vấn đề xây dựng học liệu số còn phát triển tự phát, chưa đi vào nề nếp và thành
hệ thống, khó kiểm soát chất lượng và nội dung học tập (Bùi Thị Huế và cộng sự, 2022).
Thứ tư, cơ sở pháp lý chưa đầy đủ. Đến nay, Nhà nước vẫn chưa có văn bản luật quy
định rõ về đào tạo trực tuyến, một số quy định trước đó cịn chung chung và tỏ ra khơng cịn
phù hợp trong bối cảnh hiện tại. Hành lang pháp lý về bản quyền tác giả, sở hữu trí tuệ, an ninh
thơng tin đều đang là những dấu bỏ ngỏ lớn đối với q trình số hóa lĩnh vực giáo dục đại học.
Tất cả những yếu tố cơ bản để thực hiện chuyển đổi số như: tuyển sinh, quản lý lớp, kiểm tra,
đánh giá người học, cấp bằng, xây dựng hệ thống học liệu mở, bản quyền sở hữu trí tuệ, cấp
văn bằng, chứng chỉ khi đào tạo trực tuyến,… đều chưa được pháp luật quy định rõ ràng. Điều
này sẽ gây khó khan cho các cơ sở đào tạo đại học, vì khơng có một khung pháp lý chung để
thực hiện, mỗi cơ sở đào tạo sẽ thực hiện một kiểu theo phương thức của mình.
Thứ năm, an tồn thơng tin cũng là một rào cản lớn đối với chuyển đổi số trong giáo dục
đại học. Mặc dù đem đến nhiều lợi ích nhưng q trình chuyển đổi số cũng tiềm ẩn nhiều nguy
cơ mất an tồn thơng tin, khó bảo mật nguồn dữ liệu thơng tin. Vấn đề này càng thêm nghiêm
trọng khi những mối đe dọa an ninh phi truyền thống trên không gian mạng, nền tảng số, tội phạm
công nghệ cao ngày càng nhiều trong khi hệ thống pháp lý về an ninh mạng tại Việt Nam vẫn cịn
nhiều kẽ hở. Do đó, An Nguyên (2022) cho rằng vấn đề bảo mật thông tin, dữ liệu người dùng

nhất là người học là một thách thức không hề nhỏ đối với các cơ sở giáo dục đại học.
4.2.3. Định hướng phát triển trong thời gian tới
Để chuyển đổi số thành công, các cơ sở giáo dục đại học cần chủ động xây dựng chiến
lược, lộ trình phù hợp. Trong đó, qn triệt và khẩn trương triển khai thực hiện Chương trình
chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 749/QĐTTg với nội dung thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục là một trong 8 lĩnh vực được
ưu tiên hàng đầu, đó là: “Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công
462


nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền
tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát
triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa. 100% các cơ sở giáo dục triển
khai cơng tác dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép học sinh,
sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình, ứng dụng công nghệ số để giao
bài tập về nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi đến lóp học” (Nguyễn Thị Thu
Vân, 2021, 11). Tuy nhiên, như trên đã phân tích, rào cản của quá trình chuyển đổi số trong
giáo dục đại học đến từ nhiều phía, từ chính các cơ sở giáo dục đại học, từ phía Nhà nước cho
đến người học. Do đó, để hiện thực hóa mục tiêu chuyển đổi số trong giáo dục đại học, chúng
ta cần tháo gỡ từng rào cản ở tất cả các phương diện trên. Trong thời gian tới, chúng ta cần tập
trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần tập trung tháo gỡ những rào cản từ phía cơ sở giáo dục đại học. Là đầu
mối trực tiếp thực hiện hoạt động chuyển đổi số, các cơ sở giáo dục đại học phải có giải pháp
giải quyết từng vấn đề vướng mắc đang gặp phải. Các trường đại học phải nhanh chóng phát
triển hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu, nền tảng và học liệu số để thực hiện xây dựng đồng bộ về hạ
tầng, trang thiết bị, các phần mềm ứng dụng để hình thành cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản
lý, chỉ đạo điều hành, công tác dạy và học. Cụ thể:
Đối với hạ tầng số: Nâng cấp Trung tâm dữ liệu giáo dục nghề nghiệp và hạ tầng kỹ
thuật đáp ứng yêu cầu về kết nối, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống dữ liệu quốc gia về việc làm,
an sinh xã hội, giáo dục đào tạo... theo yêu cầu của Chính phủ.
Đối với hạ tầng dữ liệu: Nâng cấp, hồn thiện hệ thống thơng tin quản lý giáo dục nghề

nghiệp có khả năng đồng bộ với hệ thống thông tin thị trường lao động và cơ sở dữ liệu về giáo
dục nghề nghiệp. Triển khai nền tảng tích hợp, kết nối, chia sẻ dữ liệu với các cơ sở dữ liệu
quốc gia, hệ thống thông tin trong và ngoài lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng nền tảng
hạ tầng cơ sở dữ liệu lớn phục vụ báo cáo tổng hợp và phân tích nhu cầu giáo dục nghề nghiệp,
phân tích chất lượng dạy, học, hỗ trợ cơng tác tuyển sinh và nhiều nghiệp vụ khác.
Đối với nền tảng số và học liệu số: Các cơ sở giáo dục đại học cần đẩy mạnh phát triển
học liệu điện tử bằng nhiều cách như: hình thành kho học liệu số, học liệu mở dùng chung toàn
ngành, liên kết với quốc tế, đáp ứng nhu cầu tự học, học tập suốt đời, thu hẹp khoảng cách giữa
các vùng miền; tiếp tục đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng cơng nghệ số, khuyến khích
và hỗ trợ áp dụng các mơ hình giáo dục và đào tạo mới dựa trên các nền tảng số. Việc xây dựng
nguồn học liệu vô cùng quan trọng nhằm cung cấp kiến thức bổ trợ, tham khảo cho sinh viên,
mỗi trường đại học cần xây dựng hệ thống lưu trữ bài giảng, học liệu điện tử, chia sẻ qua mạng
miễn phí cho sinh viên quan tâm. Nguồn học liệu mở là hướng đi đúng đắn cho nhiều trường
đại học, tạo cơ sở vững chắc để triển khai đào tạo trực tuyến. Khi xây dựng được nguồn học
liệu mở thì dù ở đâu, thời gian nào, việc học tập cũng không bị gián đoạn. Việc chia sẻ này giúp
cho sinh viên đang học được tra cứu thêm nhiều nguồn học liệu, đồng thời có thể đóng góp cho
sự phát triển, đổi mới nguồn học liệu ngày càng tốt hơn.
Bên cạnh đó, tăng cường tuyên truyền, phổ biến về chuyển đổi số trong giáo dục nghề
nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức khác, lồng ghép trong các

463


hoạt động, sự kiện liên quan; chú trọng biểu dương, tơn vinh những tập thể, cá nhân có kết quả
tích cực, mang lại hiệu quả trong công tác quản lý, dạy và học từ chuyển đổi số để nâng cao nhận
thức và trách nhiệm, thông suốt về tư tưởng và quyết tâm hợp lực thực hiện chuyển đổi số trong
toàn ngành giáo dục, đến từng địa phương, nhà trường, giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý; xây
dựng văn hoá số trong ngành giáo dục và tăng cường trao đổi, học tập chia sẻ kinh nghiệm về
chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp với các quốc gia, tổ chức quốc tế…
Đội ngũ giảng viên là yếu tố then chốt quyết định sự thành cơng của q trình chuyển

đổi số. Đây là đội ngũ trực tiếp giảng dạy, do đó, các cơ sở giáo dục đại học phải tổ chức các
khóa bồi dưỡng, khuyến khích, tạo động lực cho giảng viên học hỏi, tích lũy kỹ năng sử dụng
cơng nghệ. Giảng viên cần phải hình dung được mình sẽ nhìn thấy sinh viên của mình học tập
như thế nào nếu khơng trực tiếp gặp mặt và họ có thể nắm bắt, đánh giá được những gì từ phía
người học. Giảng viên cũng cần trang bị cho mình những kỹ năng mới để tổ chức hoạt động
giảng dạy, duy trì sự chú tâm của người học, tổ chức các hoạt động dạy học cho người học trên
không gian ảo sao cho hiệu quả.
Để vận hành một hệ thống tích hợp phần cứng, phần mềm, quản lý người học trên không
gian ảo, lãnh đạo nhà trường, nhất là người đứng đầu các cơ sở giáo dục đại học phải đổi mới
tư duy, nâng cao năng lực quản lý theo hướng thích nghi và làm chủ được q trình chuyển đổi
số. Lãnh đạo cần tranh thủ thời cơ, nắm bắt cơ hội khi thực hiện chuyển đổi số, trang bị thêm
kiến thức về chuyển đổi số để triển khai thực hiện trong chính cơ sở của mình.
Các cơ sở giáo dục đại học cũng cần chú trọng trong công tác triển khai các biện pháp
bảo đảm an toàn, an ninh mạng; quản lý và giám sát an tồn thơng tin; bảo mật dữ liệu, bảo
đảm cơ chế sao lưu, phục hồi máy chủ, máy trạm, các thiết bị đầu cuối liên quan. Xây dựng hạ
tầng, nền tảng số, dữ liệu số bảo đảm thơng tin tin cậy, an tồn, lành mạnh; phát triển hệ thống
nền tảng, hạ tầng, mạng lưới gắn với bảo đảm an tồn, an ninh mạng, có khả năng tự sàng lọc,
phát hiện mã độc tấn công, bảo vệ ở mức căn bản. Định kỳ tổ chức kiểm tra, đánh giá mức độ
an toàn, an ninh, các lỗ hổng bảo mật của hệ thống phần mềm và dữ liệu, kịp thời phát hiện và
có biện pháp xử lý kịp thời và tổ chức lực lượng ứng cứu sự cố an toàn, an ninh mạng.
Thứ hai, tháo gỡ rào cản từ phía Nhà nước. Hành lang pháp lý về chuyển đổi số trong
giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng là điều cấp thiết nhất Nhà nước cần nghiên
cứu ban hành, tạo cơ sở cho hoạt động chuyển đổi số diễn ra thuận lợi. Hệ lụy của việc khơng
có khung pháp lý hoặc khung pháp lý không đầy đủ là rất lớn, mỗi trường sẽ thực hiện theo mỗi
phương thức khác nhau, không theo một khuôn khổ nào từ tuyển sinh, tổ chức dạy học, kiểm
tra, đánh giá cho đến cấp văn bằng, chứng chỉ. Do đó, trong thời gian tới, Nhà nước cần phải rà
sốt, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan và chuyên ngành giáo dục nghề
nghiệp để đáp ứng u cầu chuyển đổi số, có cơ chế, chính sách thu hút tổ chức, doanh nghiệp,
cá nhân tham gia đầu tư phát triển, xây dựng hệ sinh thái số giáo dục nghề nghiệp; nghiên cứu,
đề xuất các chính sách hỗ trợ cho người dạy, người học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong

chuyển đổi số giáo dục nghề nghiệp. Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng phải nhanh chóng
nghiên cứu, ban hành, đưa phương thức đào tạo trực tuyến vào quy chế đào tạo đại học sửa đổi;

464


ban hành quy chế bảo đảm chất lượng các chương trình đào tạo từ xa và xây dựng đề án phát
triển đào tạo từ xa. Các quy định về giảng dạy, tiêu chuẩn khung của giảng viên giảng dạy trực
tuyến, kiểm tra, đánh giá người học trực tuyến cần được đưa vào các văn bản pháp lý để điều
chỉnh, yêu cầu các trường đại học phải nghiêm túc tuân thủ (Nguyễn Thị Ngọc, 2022).
Ngoài hệ thống pháp lý, Nhà nước cần tiếp tục nỗ lực xây dựng nền tảng công nghệ
quốc gia thống nhất để từng tập thể, cá nhân, giảng viên, sinh viên có thể tham gia và hoạt động
chuyển đổi số. Trên nền tảng cơng nghệ đó, ngành Giáo dục phải nhanh chóng dành nguồn kinh
phí, nhân lực để tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu phục vụ học trực tuyến. Nhà nước nên hỗ trợ
nhân lực và tài lực để các cơ sở giáo dục đại học xây dựng kho tài nguyên học tập số để tối ưu
hóa hoạt động đào tạo trực tuyến. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các trường đại học triển khai
chuyển đổi số, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đẩy mạnh phát triển hệ thống dữ liệu toàn quốc về
giáo dục đào tạo, phát triển hệ thống học liệu và môi trường học tập số; phối kết hợp với các
trường đại học xây dựng và triển khai khung năng lực số đối với người học.
Đặc biệt, sứ mệnh quan trọng của Nhà nước là giúp các cơ sở giáo dục đại học giải quyết
vấn đề an tồn thơng tin trong bối cảnh hiện nay. Đây là vấn đề quốc gia chứ không đơn thuần
của riêng trường đại học. Hệ thống dữ liệu, các nền tảng công nghệ phục vụ hoạt động đào tạo
trực tuyến nếu được thiết lập bởi hệ điều hành máy chủ cũ kỹ, chậm được nâng cấp thường
chứa nhiều lỗ hổng cho tội phạm xâm nhập, tấn cơng. Do đó, Nhà nước cần có giải pháp nâng
cấp, phát triển công nghệ để ngăn chặn sự tấn công mạng. Nhà nước cũng phải xây dựng được
các hệ thống bảo mật, phần mềm, trung tâm an tồn thơng tin, khuyến khích các trường đại học
tuân thủ các quy định về an ninh mạng. Yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học đẩy mạnh tuyên
truyền, phổ biến Luật An ninh mạng, hướng dẫn người học khai báo, tìm đến cơ quan chức
năng khi phát hiện vi phạm để kịp thời xử lý. Quan trọng hơn, Nhà nước phải ban hành các văn
bản pháp lý chặt chẽ và nghiêm minh hơn để đảm bảo an tồn, bảo mật thơng tin khi chuyển

đổi số hoạt động giáo dục đại học (Phan Đăng Sơn, 2016).
Thứ ba, tháo gỡ rào cản từ phía người học. Sự sẵn sàng tiếp nhận từ phía người học
quyết định ý nghĩa cũng như hiệu quả của quá trình chuyển đổi số trong hoạt động giáo dục đại
học. Vốn đã quen với mơ hình học tập truyền thống, người học cần thời gian để thích nghi. Thế
nhưng khoảng thời gian để người học thích nghi này nhanh hay chậm lại phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố, không chỉ từ phía bản thân người học. Các cơ sở giáo dục đại học phải đẩy nhanh
tiến độ hình thành các quy định bắt buộc người học phải tuân thủ khi tham gia đào tạo trực
tuyến. Không chỉ việc học mà cịn là các quy định về đăng ký mơn học, đánh giá, kiểm tra, thi
cử của người học cũng cần được quy định rõ ràng, dễ hiểu và phổ biến đến tất cả người học.
Các trường đại học cũng cần bắt tay vào xây dựng văn hóa giáo dục số, gồm những vấn đề về:
thái độ học tập, hiểu biết về đạo đức học thuật, tính tự giác, ý thức học tập của người học. Phải
làm cho người học ý thức được trách nhiệm của mình trong đào tạo trực tuyến. Để giúp người
học thành thạo trong học trực tuyến, các trường đại học nên tổ chức các khóa tập huấn tập trung
về phương pháp truy cập, tham gia học tập, tìm kiếm tài liệu trên khơng gian ảo. Các buổi tập
huấn này sẽ bổ trợ hữu ích cho người học trong thời gian đầu tham gia đào tạo trực tuyến (Lê
Thị Thu Hằng, 2017).

465


5. Kết luận
Hiểu đúng về chuyển đổi số, đánh giá đúng thực trạng, xác định và dự báo đúng các
thách thức và vấn đề đặt ra để xây dựng lộ trình thực hiện chuyển đổi số hợp lý nhằm nhanh
chóng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo có ý nghĩa rất quan trọng với các trường đại học
trong giai đoạn hiện nay. Chuyển đổi số trong cơ sở giáo dục đại học cần được xem là giải pháp
lâu dài, mang tính chiến lược, gắn với những cải cách mạnh mẽ, triệt để trong giảng dạy, học
tập và quản lý đào tạo, chứ khơng phải là giải pháp tình huống ứng phó với đại dịch Covid-19.
Bởi để chuẩn bị cho thế hệ tương lai và tăng năng lực cạnh tranh của người Việt Nam, xây dựng
một hệ thống giáo dục thúc đẩy đổi mới và sáng tạo, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc học tập suốt đời và khả năng phát triển lâu dài của người học là điều kiện tiên quyết./.

Tài liệu tham khảo
1. An Nguyên (2022), ‘Chuyển đổi số trong giáo dục đại học: “Không chuyển đổi thì
khơng tồn tại được’, Tạp chí Giáo dục, truy cập lần cuối ngày 24 tháng 7 năm 2022, từ
< />2. Anh Đào (2022), ‘Đẩy mạnh hợp tác đào tạo nguồn nhân lực công nghệ số’, Nhân
dân, truy cập lần cuối ngày 25/7/2022, từ < />3. Bùi Thị Huế, Bùi Đức Thịnh và Vũ Thị Tuyết Lan (2022), ‘Chuyển đổi số trong giáo
dục và đào tạo: Thực trạng và giải pháp’, Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ Việt Nam, truy cập
lần cuối ngày 24/7/2022, từ < />4. Chung Ngọc Quế Chi (2021), ‘Chuyển đổi số trong giáo dục đại học: Tiền đề và thách
thức’, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Chuyển đổi số trong giáo dục đại học”, Hiệp hội
các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam, NXB Đà Nẵng, 121-124.
5. Chuyển đổi số nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước (2022), truy cập ngày 23/7/2022, từ
< />6. Đào Thị Hợp (2021), ‘Một số quy định pháp luật về quản lý và tổ chức dạy học trực
tuyến’, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, truy cập lần cuối ngày 25/7/2022, từ
< />7. Ed Clark (2018), ‘Digital Transformation: What Is It?’, Educause, retrieved on July
23 2022, from < />rd

8. Huy Lân (2021), ‘Trường học đẩy mạnh chuyển đổi số’, Người Lao động, truy cập
lần cuối ngày 23/7/2022, từ < />9. Lê Thị Thu Hằng (2017), ‘Bàn về một số biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy
học ở trường Trung học phổ thông đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục’, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, truy cập lần cuối ngày 24/7/2022, từ < />466


10. Mai Ngọc Tuấn (2021), ‘Tầm quan trọng của chuyển đổi số đối với giáo dục đào
tạo trong giai đoạn hiện nay’, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, truy cập lần cuối ngày 25/7/2022,
từ
< />11. Nguyễn Quý Thanh và Tôn Quang Cường (2020), ‘Những xu thế mới của công nghệ
trong giáo dục’, Trang thông tin điện tử của Hội đồng Lý luận Trung Ương, truy cập lần cuối
ngày 25/7/2022, từ < />12. Nguyễn Thị Ngọc (2022), Tháo gỡ những rào cản của quá trình chuyển đổi số trong
giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, truy cập lần cuối ngày 24/7/2022, từ
< />13. Nguyễn Thị Thu Vân (2021), ‘Chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục đại học’, Tạp
chí Quản lý nhà nước, truy cập lần cuối ngày 23/7/2022 từ

quanlynhanuoc.vn/2021/11/02/chuyen-doi-so-trong-cac-co-so-giao-duc-dai-hoc/>.
14. Phạm Thị Thu Hương (2020), ‘Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đại học ở
Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0’, Tạp chí Tổ chức nhà nước,
truy cập lần cuối ngày 25/7/2022 từ < />15. Phan Đăng Sơn (2016), ‘Một số giải pháp tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trong các trường đại học ở Việt Nam’, truy cập lần cuối ngày 24/7/2022 từ
< />16. Thế Trường (biên soạn, 2004), Hành trang thời đại kinh tế tri thức, NXB Giao thông
vận tải, Hà Nội.
17. Trần Đình Mạnh (2021), ‘Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả học trực truyến:
nghiên cứu tại Trường Đại học Lâm nghiệp’, Tạp chí Cơng Thương, truy cập lần cuối ngày
25/7/2022 từ < />18. Vũ Hải Quân (2021), ‘Chuyển đổi số trong giáo dục đại học’, Đại học Quốc gia TP.
Hồ Chí Minh, truy cập ngày 25/7/2022 từ < />
467



×