CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO Ở CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Hoàng Mạnh Cường, Vũ Đức Sáng
Trường Đại học Nguyễn Huệ
Tóm tắt: Chuyển đổi số nói chung và chuyển đổ số trong giáo dục đã trở thành chủ đề
nóng trong nhiều sự kiện, hội thảo giáo dục cấp quốc gia và quốc tế, được đưa vào nội dung
của nhiều dự án, chương trình và kế hoạch chiến lược khơng chỉ của các cơ sở giáo dục mà cả
các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp. Đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, ứng dụng tiến bộ khoa
học - kỹ thuật, công nghệ thông tin (CNTT), công nghệ số trong giáo dục và đào tạo (GD&ĐT).
Nội dung của bài viết nêu rõ những vấn đề liên quan, xu thế và những giải pháp cơ bản để nâng
cao hiệu quả chuyển đổi số trong nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các trường đại học,
cao đẳng hiện nay.
Từ khóa: chuyển đổi số, công nghệ, giáo dục và đào tạo, hội nhập, tồn cầu hóa, số hóa
1. Đặt vấn đề
Chuyển đổi số đã, đang và sẽ làm thay đổi đến nhiều hoạt động của xã hội. Cuộc Cách
mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư tác động nhanh, sâu, rộng đến mọi mặt của đời sống kinh
tế, văn hóa và xã hội. Trong GD&ĐT, chuyển đổi số dần thay đổi phương pháp giảng dạy từ
phương pháp truyền thống sang phương pháp giảng dạy tích cực, giúp người dạy và người
học phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo, sự chủ động và đạt hiệu quả. Mơ hình lớp học
tập trung đã dần chuyển sang các mơ hình dạy học trực tuyến, sử dụng chuyển đổi thông tin
và truyền thông; chuyển đổi số đã làm cho hoạt động quản lý giáo dục hiệu quả, nhanh, gọn
hơn; việc lưu trữ, tra cứu tài liệu thuận lợi hơn. Với chuyển đổi số, người học tiếp cận tri thức
mọi nơi, mọi lúc, chủ động trong việc học tập và ứng dụng kiến thức vào thực tiễn, nhất là
trong giai đoạn hiện nay, khi thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang đối mặt với nhiều
vấn đề mang tính tồn cầu như đại dịch Covid-19 thì việc đẩy nhanh, nâng cao hiệu quả
chuyển đổi số là vấn đề cấp thiết, là giải pháp mang tính quan trọng, quyết định hiệu quả và
chất lượng bền vững của GD&ĐT. Vậy, vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm gì, phải làm như
thế nào, phải bắt đầu từ đâu, để phát huy cao nhất hiệu quả của chuyển đổi số, khắc phục
những tồn tại mà chuyển đổi số để lại? Đây chính là nội dung mà bài viết hướng tới.
2. Một số vấn đề liên quan chuyển đổi số
2.1. Chuyển đổi số
Chuyển đổi số là chuyển các hoạt động từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi
trường mạng. Mọi người tiếp cận thông tin nhiều hơn, nhanh hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu
hẹp về không gian, tiết kiệm về thời gian. Những năm 20 của thế kỷ 21 đã chứng kiến những
diễn biến có thể nói là chưa từng có trong lịch sử thế giới hiện đại. Nhiều hoạt động xã hội bị
đình trệ trên phạm vi cục bộ địa phương, quốc gia và toàn cầu do đại dịch Covid-19 diễn biến
phức tạp, khó kiểm sốt, gây suy thối trầm trọng. Khi giáo dục đã từ lâu là nhu cầu đương
163
nhiên được đáp ứng, chúng ta bỗng dưng phải đối mặt với câu hỏi: “Làm sao để được giáo
dục?” Triển khai được hoạt động giáo dục không chỉ là vấn đề cá nhân, mà còn là sự sống còn
đối với các nhà trường. Khi giáo dục trực tiếp tại trường, lớp là không thể, vấn đề chuyển đổi
số trở thành giải pháp ở nhiều cấp từ vi mô đến vĩ mơ. Chuyển đổi số khơng đơn giản chỉ là số
hóa các nguồn tài liệu mà còn bao gồm việc chuyển đổi phần cứng, kéo theo việc quản trị các
nguồn lực dành cho GD&ĐT cũng thay đổi.
2.2. Chuyển đổi số trong giáo dục
Chuyển đổi số ngành Giáo dục là việc áp dụng CNTT, khoa học, kỹ thuật phục vụ vào
mục đích của giáo dục. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ
về “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” xác định:
Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản
lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng
dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục,
hướng tới đào tạo cá thể hóa. 100% các cơ sở giáo dục triển khai công tác dạy và học từ xa,
trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20% nội
dung chương trình. Ứng dụng cơng nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của
sinh viên trước khi đến lớp học.
2.3. Nội dung chuyển đổi số trong giáo dục
Thứ nhất, chuyển đổi số trong quản lý
Số hóa thơng tin quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu lớn liên thông, triển khai
các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các Công nghệ 4.0 để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ
các cấp lãnh đạo, quản lý ra quyết định trong lãnh đạo, điều hành hoạt động giáo dục. Để giáo dục
trực tuyến có thể diễn ra, tồn bộ đầu vào cho q trình giáo dục phải được số hóa, trong đó quan
trọng nhất là học liệu, tài liệu, sách giáo khoa. Toàn bộ dữ liệu về người học cũng cần phải số hóa
để thực hiện quy trình quản lý người học và thực hiện đánh giá quá trình cũng như kết quả học tập.
Thứ hai, chuyển đổi số trong giáo dục
Phương thức thay đổi dẫn đến phương pháp, kỹ thuật sư phạm cũng phải thay đổi theo,
phương pháp truyền thống khơng cịn phù hợp và hiệu quả nữa. Cách thức thực hiện, triển khai
phương pháp bắt buộc phải thay đổi, đòi hỏi sự sáng tạo, linh hoạt trong vận dụng và sử dụng
các thiết bị, tính năng của cơng nghệ sao cho việc giảng dạy của giảng viên để đạt kết quả kỳ
vọng. Chuyển đổi số không chỉ là số hóa bài giảng, hay ứng dụng các phần mềm vào soạn bài
dạy, mà cịn là sự chuyển đổi tồn bộ cách thức, phương pháp giảng dạy, kỹ thuật quản lý lớp
học, tương tác với người học sang không gian số, khai thác CNTT để tổ chức giảng dạy thành
công. Đây khơng chỉ là vấn đề của giảng viên mà cịn của cả ngành Giáo dục.
Thứ ba, chuyển đổi số về đánh giá kết quả và các hoạt động đầu ra của sinh viên
Chuyển đổi số phải đảm bảo việc kiểm tra, đánh giá được thực hiện trong quá trình giáo
dục, kể cả đánh giá kết quả đào tạo. Không chỉ kết quả đánh giá được số hóa mà q trình đánh
giá cũng phải được triển khai, thực hiện bằng ứng dụng cơng nghệ trên máy tính. Giảng viên
cần tập trung vào cơng việc giảng dạy và cần được giải phóng khỏi các cơng việc hành chính,
164
giấy tờ như: làm sổ sách, sổ điểm, học bạ, quản lý hồ sơ học tập của người học. Đây chính là
cơ sở để giảng viên nâng cao chất lượng bài giảng cũng như chất lượng giảng bài, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, đáp ứng yêu cầu của thời
đại Công nghệ 4.0 và trong đại dịch Covid-19 đang diễn ra hết sức phức tạp hiện nay.
Thứ tư, chuyển đổi số về mơi trường giáo dục
Các nhà trường cần có hệ thống chính sách để đào tạo trực tuyến được công nhận hợp
pháp, tạo môi trường thực sự thuận lợi để cả đội ngũ giảng viên, sinh viên được học và được
cơng nhận kết quả học một cách thích đáng. Việc xây dựng và ban hành chính sách địi hỏi sự
nghiên cứu kỹ lưỡng và khoa học nhưng về cơ bản không phải là thách thức lớn. Thách thức
chủ yếu nằm ở việc thực thi chính sách, bởi lẽ để chính sách đi vào đời sống, chúng ta cần phải
có hệ thống các công cụ giám sát, quản lý và đảm bảo chất lượng giáo dục trực tuyến để đảm
bảo tính giá trị của hình thức đào tạo này.
2.4. Vai trò của chuyển đổi số trong giáo dục hiện nay
Cùng với sự phát triển các thành tựu công nghệ, nhất là CNTT, chuyển đổi số có vai trị
quan trọng giúp tăng cường quản lý, giám sát trong các cơ sở giáo dục, theo dõi hoạt động của
người học; giúp phân tích hành vi học tập của người học để có hỗ trợ, tư vấn phù hợp; xây dựng
hệ thống quản lý thông tin và hồ sơ giáo dục của người học, cho phép hợp nhất, quản lý và chia
sẻ dữ liệu từ nhiều trường học, ghi chép lại lịch sử học tập, bảng điểm của người học để đảm
bảo thông tin dữ liệu được đồng nhất, minh bạch. Bên cạnh đó, chuyển đổi số làm tăng tính
tương tác, tính thực hành - ứng dụng giúp cho người học có những trải nghiệm đa giác quan,
dễ hiểu, dễ nhớ và gây tò mò, hứng thú cho người học, đồng thời tăng tính tương tác, thực hành
và ứng dụng kiến thức ngay trong lớp học, tạo không gian và thời gian học linh động, thúc đẩy
giáo dục mở - bình đẳng - cá thể hóa. Đi kèm với giáo dục mở là tài nguyên học liệu mở, giúp
người học, người dạy kết nối với kiến thức một cách hiệu quả dù họ ở đâu và trong khoảng thời
gian nào. Đồng thời, chuyển đổi số giúp giảm chi phí đào tạo, tiết kiệm được chi phí trang bị cơ
sở vật chất, chi phí chi trả cho giảng viên và chuyên gia; người học tiết kiệm học phí, chi phí sinh
hoạt và tài liệu học tập... Và một vấn đề nữa, đó chính là việc áp dụng công nghệ vào vận hành
giúp quản lý, giảng viên và sinh viên triệt để hơn, giảm tải các lãng phí, tăng hiệu suất và chất
lượng làm việc của khối văn phòng và đào tạo. Sử dụng những đánh giá của người học kết hợp
với việc phân tích các dữ liệu, giảng viên có thể áp dụng các thơng tin mà họ có được để tiến hành
điều chỉnh các kế hoạch giảng dạy. Sinh viên có thể trả lời các câu hỏi của giảng viên thông qua
các phần mềm, từ đó, giảng viên có thể đánh giá chính xác về kiến thức của từng sinh viên. Đặc
biệt là trong giai đoạn dịch Covid-19 đang diễn ra hết sức phức tạp trên tồn cầu nói chung và ở
Việt Nam nói riêng thì việc thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục là điều hết sức cần thiết và rất
quan trọng để bảo đảm hoạt động cũng như chất lượng công tác quản lý và giảng dạy.
3. Thực trạng của chuyển đổi số trong quá trình đào tạo sinh viên hiện nay
3.1. Ưu điểm
Thứ nhất, các cơ sở đào tạo đã nhận thức được vị trí, vai trị của chuyển đổi số và nắm
bắt được xu thế của thế giới về chuyển đổi số.
165
Các cơ sở đào tạo đã quán triệt và thực hiện đúng các quan điểm chỉ đạo của Đảng:
“Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng
tâm là hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong
bối cảnh cuộc CMCN lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng”. Các trường đại học, cao đẳng
đã xác định ứng dụng CNTT là một trong các nhóm nhiệm vụ trọng tâm triển khai Nghị quyết
số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới
căn bản tồn diện GD&ĐT. Các trường cũng quán triệt và thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết
của Đảng và Chính phủ bao gồm: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị
về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư; Nghị quyết số
44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng
yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 của Chính phủ về việc ban
hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và
hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 về Chính phủ điện tử; Nghị
quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính
phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến năm 2025. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính
phủ cũng ban hành các văn bản liên quan đến ứng dụng CNTT và chuyển đổi số trong giáo
dục bao gồm: Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc
CMCN lần thứ tư. Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 phê duyệt Đề án “Tăng cường
ứng dụng CNTT trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp
phần nâng cao chất lượng GD&ĐT giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025”. Từng
bước triển khai số hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung từ Trung ương đến tất cả các Sở,
Phòng GD&ĐT và các cơ sở giáo dục. Hệ thống quản lý hành chính điện tử kết nối từ Bộ
GD&ĐT đến các Sở GD&ĐT và các cơ sở đào tạo trên cả nước đã bước đầu phát huy hiệu
quả. Giảng viên các ngành học, cấp học trên cả nước được huy động tham gia, đóng góp chia
sẻ học liệu vào kho học liệu số tồn ngành góp phần xây dựng xã hội học tập và đẩy mạnh học
tập suốt đời.
Thứ hai, chuyển đổi số đã tạo bước đột phá trong nắm bắt, theo dõi, cải thiện kết quả
và phân tích dữ liệu trong quá trình giáo dục.
Chuyển đổi số đã tác động rất lớn đến hoạt động giáo dục, nó đã cung cấp một cách thực
tế hơn trong việc theo dõi quá trình học tập của người học. Với việc ghi lại cụ thể thông tin
trong các bài kiểm tra của sinh viên, công nghệ cho phép giảng viên và phụ huynh dễ dàng theo
dõi quá trình học của con em mình. Trường học có thể theo dõi và phân tích kết quả học tập
của sinh viên. Bên cạnh đó, sinh viên cũng có thể tự theo dõi kết quả học tập, tiến trình học tập
của chính mình cũng như những điều mà bản thân sinh viên cịn thiếu sót và cần được cải thiện.
Cơng nghệ giúp cho việc phân tích kết quả và dữ liệu của sinh viên trở nên dễ dàng và chính
xác hơn. “Các thành tựu khoa học và cơng nghệ hiện đại được ứng dụng nhanh chóng, rộng
rãi... hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia bắt đầu được hình thành” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021, tập 2, tr.34).
166
Thứ ba, chuyển đổi số đã góp phần cải tiến các chương trình giảng dạy, tăng tính liên
kết giữa nhà trường với gia đình, phụ huynh với giảng viên, tiết kiệm thời gian trong quá trình
giáo dục.
Sự phát triển của chuyển đổi số đã tác động nhiều đến cải thiện chương trình giảng dạy
hiện nay, tăng tính thực tiễn và sát với điều kiện của công việc sau khi sinh viên ra trường trong
những năm qua. Các cơ sở đào tạo đã đa dạng hóa phương thức đào tạo dựa theo mơ hình giáo
dục mở, khung trình độ quốc gia, gắn với thị trường và đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN lần
thứ tư. Giảng viên sẽ đóng vai trị quan trọng trong định hướng nghề nghiệp, không đơn thuần
chỉ là trang bị kiến thức như hiện tại. Các trường học cần phải tiến tới dạy các chương trình
tiềm năng, nhưng để làm được điều đó, sinh viên cần phải được cấp quyền truy cập vào các dữ
liệu của chương trình học hằng ngày. Các dữ liệu của chương trình học cũng cần phải được cập
nhật nhanh chóng theo thời gian thực. Việc giảng dạy của giảng viên trên trường sẽ dễ dàng
hơn khi có sự giám sát đồng thời của các bậc phụ huynh. Tự động hóa cung cấp các ghi chú và
báo cáo tiến độ học tập của người học cho phụ huynh dưới dạng điện tử. Công nghệ cũng giúp
cho nhà trường có thể quản lý chặt chẽ hơn các người học. Điều này sẽ giúp cho người học có
một định hướng nghề nghiệp rõ ràng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Giảng dạy trực
tuyến là một giải pháp tuyệt vời cho các sinh viên ở vùng xa, bởi đây chính là mơ hình xuyên
biên giới. Sinh viên đơn giản chỉ cần đăng nhập vào một trang web để có thể tìm hiểu về trường
đại học cũng như thực hiện các chương trình học mà mình mong muốn.
3.2. Hạn chế
Thứ nhất, cịn tồn tại tư tưởng ngại đổi mới, do dự trong đổi mới, dẫn tới trì trệ, hiệu
quả chưa cao.
Về bản chất, mọi người thường sẽ có xu hướng là làm theo cách đã quen và từ chối di
chuyển ra khỏi vùng an toàn để phát triển. Nhiều người trong ngành Giáo dục sợ thất bại và do
dự trong việc học các kỹ năng hoặc quy trình mới - những thứ cho phép họ thích nghi với cơng
nghệ. Tư duy trong xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phù hợp với yêu cầu của cuộc CMCN
lần thứ tư chậm được đổi mới, sức ỳ cịn lớn. Đây chính là rào cản khơng nhỏ để chuyển đổi số
đạt kết quả cao. Vì vậy, các cơ sở đào tạo cần mạnh dạn nghiên cứu, nắm bắt xu thế, tận dụng
đi trước, đón đầu để áp dụng chuyển đổi số trong giáo dục một cách cẩn thận, có lộ trình nhưng
khơng được ngại đổi mới, ngại khó, ngại khổ, ngại vất vả. Bên cạnh đó, sự hạn chế về kiến thức
hoặc kỹ năng kém, nhất là kiến thức và kỹ năng về CNTT, đã khiến cho nhiều cơ sở đào tạo
đang phải vật lộn với tình trạng thiếu hụt các nhân viên có năng lực số, làm chủ công nghệ số.
Đây cũng là rào cản để các cơ sở giáo dục ngại đổi mới, ngại chuyển đổi số hiện nay.
Thứ hai, hạn chế về cơ sở hạ tầng, dữ liệu phục vụ chuyển đổi số
Hạ tầng mạng, trang thiết bị CNTT, đường truyền, dịch vụ Internet cho nhà trường,
giảng viên, sinh viên - đặc biệt ở các vùng xa, vùng khó khăn - cịn thiếu, lạc hậu, chưa đồng
bộ, nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số nên khi thực hiện chuyển đổi số khó có
thể mang lại hiệu quả cao và đồng đều giữa các vùng, miền, các trường, các đối tượng sinh
viên. Trong thời đại kỹ thuật số, nhiều phép đo cung cấp thông tin chi tiết về những người học
trong tương lai, hiệu quả nội bộ, trải nghiệm người dùng và hơn thế nữa từ các trường học và
167
giảng viên. Số hóa, xây dựng, cập nhật học liệu số, thẩm định, chia sẻ học liệu số đòi hỏi sự
đầu tư lớn về nhân lực (gồm cả nhân lực quản lý và nhân lực triển khai) cũng như tài chính để
đảm bảo kho học liệu số đầy đủ, đạt chất lượng, đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu, tham
khảo của sinh viên. Vì vậy, vấn đề xây dựng học liệu số (như: sách điện tử, thư viện điện
tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, bài giảng điện tử, phần mềm học điện tử, phần mềm ứng
dụng mô phỏng) còn phát triển tự phát, chưa đi vào nền nếp và chưa thành hệ thống, khó
kiểm sốt chất lượng và nội dung học tập. Thu thập, chia sẻ, khai thác dữ liệu quản lý giáo
dục và học liệu số cần hành lang pháp lý chung phù hợp với các quy định về bản quyền tác
giả, sở hữu trí tuệ, an ninh thông tin, giao dịch điện tử và luật chia sẻ cung cấp thông tin, cụ
thể như: quy định danh mục các thông tin thuộc diện bắt buộc khai báo, nhập liệu - phân
biệt với thông tin cá nhân riêng tư thuộc quyền cá nhân; quy định quyền tác giả cho các bài
giảng điện tử; quy định khai thác cơ sở dữ liệu, kho học liệu số; quy định tính pháp lý của
hồ sơ điện tử nói chung và sổ điểm, học bạ điện tử nói riêng. Chỉ khi các nút thắt này được
tháo gỡ, các trường mới thúc đẩy phát triển được hệ thống dữ liệu số, học liệu số đủ lớn,
đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia nói chung và chuyển đổi số trong GD&ĐT nói
riêng. Hiện tượng cục bộ về dữ liệu còn tồn tại ở khơng ít các địa phương, nhà trường, một
số nhiệm vụ đổi mới GD&ĐT triển khai còn chậm, lúng túng, hiệu quả thấp, hệ thống trường
lớp phân bổ chưa hợp lý, một số nơi còn thiếu và xuống cấp. Kết cấu hạ tầng đại học ít được
đầu tư, nhất là các phịng thí nghiệm, cơ sở thực hành.
Thứ ba, chuyển đổi số đang thiếu sự hướng dẫn và mang tính chiến lược
Một trong những rào cản lớn nhất trong việc chuyển đổi số là việc chúng ta không biết
phải bắt đầu từ đâu, thay đổi từ đâu và thay đổi như thế nào cho hợp lý. Nhận thức triển khai
đổi mới tổ chức bộ máy một số cơ quan trung ương và địa phương chưa đều. Trước sự phát
triển như vũ bão của CNTT cũng như yêu cầu của thời đại công nghệ số, trước diễn biến phức
tạp của đại dịch Covid-19, nhiều cơ sở đào tạo chưa hình dung ra phải bắt đầu chuyển đổi số từ
đâu và làm như thế nào để vừa đi tắt đón đầu được công nghệ, vừa phù hợp với thực tiễn con
người, với cơ sở vật chất và với chuyên ngành đào tạo. Đây thực sự là vấn đề khó, địi hỏi phải
có sự hướng dẫn, định hướng cụ thể cũng như phải có chiến lược dài hơi từ các cơ quan quản
lý nhà nước, nếu không các trường sẽ tiến hành tự phát, dẫn đến hiệu quả khơng cao mà cịn
ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình chuyển đổi của cả ngành Giáo dục. Và một vấn đề lớn của
chuyển đổi số trong ngành Giáo dục là việc các công nghệ số hiện đại khơng tương thích với
mơ hình của ngành Giáo dục. Để có thể tích hợp các cơng nghệ hiện đại vào giáo dục, chúng ta
cần phải chấp nhận đổi mới và điều này chắc chắn đòi hỏi thời gian và năng lực.
4. Những thách thức trong chuyển đổi số
4.1. Thách thức về yêu cầu cơ sở hạ tầng
Trước tiên, điều dễ thấy là chuyển đổi số đòi hỏi hạ tầng viễn thông phát triển ở một
mức độ nhất định, yếu tố này liên quan nhiều đến mức độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
địa phương. Do vậy, ngành Giáo dục khơng thể đi một mình mà phải đồng hành, phối hợp với
các ngành khác. Việc này có thể là thách thức đáng kể bởi họ vốn quen hoạt động và vận hành
độc lập, đặc biệt là trong điều kiện: cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo hiện nay còn nhiều bất
168
cập; việc tổ chức, thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển và ứng dụng khoa học công
nghệ cịn hạn chế; thiếu thể chế về tài chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và
công nghệ, nhất là công nghệ cao.
4.2. Thách thức về môi trường và sự đồng bộ trong chuyển đổi số
Thêm vào đó, khi chuyển đổi số phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố bối cảnh, nó có thể là
cơ hội cho nhóm đối tượng này, cho địa phương hay quốc gia này nhưng lại là thách thức cho
đối tượng khác, địa phương và quốc gia khác. Cách thức và quá trình chuyển đổi số khơng có
một cơng thức chung, địi hỏi lãnh đạo các ngành, nhà trường cần phải đề ra chiến lược, giải
pháp và lộ trình chuyển đổi riêng cho mình mà khơng có nhiều sự tham khảo từ kinh nghiệm
và thực tiễn từ các ngành khác, các quốc gia khác. Nếu bài toán về hạ tầng mạng, thiết bị và
giải pháp cơng nghệ khơng được đáp ứng, bài tốn về chuyển đổi năng lực của giảng viên không
được giải quyết, trải nghiệm học tập số đối với cả giảng viên và người học có thể trở thành thảm
họa. Một loạt các nguy cơ hiển hiện như: hành vi học tập có thể bị lệch lạc, hoạt động giáo dục
khơng được kiểm soát, chất lượng giáo dục bị thả lỏng; sẽ rất nguy hiểm nếu như chúng ta
“đánh rơi”, để lạc mất người học trong không gian ảo mênh mông. Về vấn đề này, Đảng ta đã
nhận định, cơ chế và chính sách trong cán bộ trong hoạt động khoa học vẫn cịn nặng nề về
hành chính hóa, chưa tạo mơi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài, hệ
thống thông tin, thống kê khoa học và công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ việc xây
dựng các chiến lược.
4.3. Thách thức trong giải quyết vấn đề bất bình đẳng
Có thể thấy nguy cơ bất bình đẳng trong giáo dục khi chúng ta thực hiện chuyển đổi số
là không nhỏ. Trong suy nghĩ của nhiều người thì việc số hóa hoạt động giáo dục sẽ đem lại sự
bình đẳng nhờ ưu thế tiếp cận công nghệ không giới hạn về không gian và thời gian. Tuy nhiên,
thực tế lại đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề mới phải nghiên cứu như: chuyển đổi số có thể đào
sâu hơn nữa sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, nhất là giữa các vùng miền và giữa các
sinh viên có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau. Những sinh viên ở miền núi nơi khơng có
điều kiện được tiếp cận hạ tầng viễn thơng tốt sẽ khó theo kịp sinh viên nơi đơ thị, các thành
phố phát triển, bên cạnh đó cịn vấn đề về nguồn tài liệu, dữ liệu thông tin... Những sinh viên
xuất thân từ những gia đình khó khăn khơng có những điều kiện về trang thiết bị, hoặc khơng
đủ khả năng chi trả chi phí dịch vụ viễn thơng cũng sẽ là đối tượng có nguy cơ tụt hậu. Sinh
viên khuyết tật cũng có nguy cơ lớn phải hứng chịu bất bình đẳng trong chuyển đổi số do những
vấn đề liên quan tới các yếu tố đầu vào (sách vở, tài liệu, ngôn ngữ, trang thiết bị...) và quá trình
giáo dục (thao tác điều khiển, giao tiếp với thiết bị, phần mềm, giảng viên...).
5. Yêu cầu của của chuyển đổi số hiện nay
5.1. Cần phải hoàn thiện cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý, tạo thuận lợi cho
chuyển đổi số trong tồn ngành Giáo dục nói chung và các trường đại học, cao đẳng nói riêng
Đó là các chính sách liên quan đến: học liệu như sở hữu trí tuệ, bản quyền tác giả; chất
lượng việc dạy học trên mơi trường mạng như an tồn thơng tin mạng; chính trị, tư tưởng, đạo
đức người dạy, người học như bảo vệ thông tin cá nhân, an ninh thông tin trên môi trường mạng;
169
và các quy định liên quan đến điều kiện tổ chức dạy - học trên mạng, kiểm định chất lượng,
tính pháp lý và công nhận kết quả khi dạy - học trực tuyến.
5.2. Phải bảo đảm được điều kiện về công nghệ thông tin hiện đại
Đây là yêu cầu quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả chuyển đổi số. Nền tảng hạ
tầng công nghệ thông tin, cơ sở vật chất cơ bản phải được trang bị đồng bộ trong tồn ngành
Giáo dục nói chung và các nhà trường nói riêng đảm bảo việc quản lý, dạy - học có thể được
thực hiện một cách bình đẳng giữa các địa phương, nhà trường có điều kiện hồn cảnh kinh tế
khác nhau; đảm bảo môi trường mạng thông suốt, ổn định, an tồn thơng tin. Thực hiện việc
này cần huy động được các nguồn lực xã hội chung tay hỗ trợ trang thiết bị đầu - cuối và tham
gia cung cấp các hệ thống, giải pháp đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
5.3. Phải có nguồn nhân lực đủ số lượng, nhất là chất lượng cao, đáp ứng tốt yêu
cầu chuyển đổi số
Chuyển đổi số phải có được đội ngũ nhân lực (cán bộ quản lý, giảng viên, giảng viên,
sinh viên) có kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Trước hết là kỹ năng sử dụng
công nghệ thơng tin, kỹ năng an tồn thơng tin, kỹ năng khai thác, sử dụng hiệu quả các ứng
dụng phục vụ công việc dạy - học.
6. Giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển đổi số, góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo chính quy tại các trường đại học, cao đẳng hiện nay
6.1. Phát huy cao nhất tinh thần trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng trong
ngành Giáo dục nói chung và các nhà trường nói riêng trong tiến hành chuyển đổi số
Đây là giải pháp then chốt và suy đến cùng nó quyết định thành cơng, hiệu quả của
chuyển đổi số trong giáo dục bởi không chỉ có chuyển đổi số mà bất cứ lĩnh vực nào nếu khơng
có ý chí, khơng có quyết tâm thì khó có thể thành cơng được, đặc biệt là trong lĩnh vực chuyển
đổi số hiện nay ở nước ta.
Trong điều kiện vơ cùng khó khăn như hiện nay (đại dịch Covid-19), cơ sở hạ tầng của
các trường đại học, cao đẳng hiện nay nhìn chung cịn thiếu, yếu và khơng đồng bộ; nguồn nhân
lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện đại 4.0 cịn hạn chế thì sự đồng lòng, quyết
tâm của các cấp và từng cá nhân là vấn đề quan trọng. Do vậy, để chuyển đổi số thành công,
các nhà trường cần tiến hành phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho
đội ngũ cán bộ, giảng viên, thông suốt về tư tưởng và quyết tâm hợp lực thực hiện chuyển đổi
số trong từng bộ môn, khoa, giảng viên, cán bộ quản lý; xây dựng văn hóa số trong ngành Giáo
dục. Khắc phục triệt để những nhận thức lệch lạc xem nhẹ chuyển đổi số, nhận thức chưa đến,
chưa rõ, chưa sâu sắc về vị trí, vai trị của chuyển đổi số đến hoạt động GD&ĐT, tư tưởng trung
bình chủ nghĩa, ngại đổi mới, sợ thất bại, ỷ lại cấp trên, thiếu tính tự lập, tự chủ, linh hoạt sáng
tạo trong thực hiện chuyển đổi số. Thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục xây dựng
trách nhiệm cho mọi người, mọi cấp nhằm tạo ra sức mạnh chung trong thực hiện, đồn kết,
chủ động vượt khó để thành cơng. Xây dựng kế hoạch chu đáo, có lộ trình, có chủ trương, biện
pháp cụ thể và hiệu quả. Từng bước khắc phục tình trạng hệ thống GD&ĐT chưa đảm bảo tính
đồng bộ, liên thơng giữa các trình độ, các phương thức GD&ĐT. Trong đó, chú trọng triển khai
170
hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu và đồng bộ. Tăng cường
chất lượng cơng tác dự báo, hồn thiện cơ chế chính sách theo hướng đi trước một bước. Trong
đó chú trọng chính sách hồn thiện cơ sở dữ liệu quản lý giáo dục, theo các quy định về chia
sẻ, khai thác dữ liệu; hoàn thiện hành lang pháp lý, thúc đẩy phát triển hình thức dạy - học trực
tuyến qua mạng; chính sách quản lý các khóa học trực tuyến đảm bảo chất lượng thông qua các
quy định về điều kiện mở lớp, thẩm định cấp phép nội dung, kèm theo chế tài phù hợp, tránh
tình trạng mất kiểm sốt, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người học. Tiếp tục đổi mới đồng bộ
mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp GD&ĐT theo hướng hiện đại, hội
nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã
hội, khoa học và cơng nghệ, “nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chun mơn, kỹ
năng nghề nghiệp, tác phong cơng nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, tập 2, tr.166)
6.2. Phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực xây dựng hạ tầng cơ sở, CNTT hiện đại,
đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi số
Đây là giải pháp quyết định đến chuyển đổi số thành công hay không thành công và
thành công ở mức độ nào. Nói cách khác, chúng ta khơng thể tiến hành chuyển đổi số được nếu
như khơng có cơ sở hạ tầng, CNTT tương ứng với nó. Cùng với nhân tố con người thì cơ sở hạ
tầng là điều khơng thể thiếu để tiến hành chuyển đổi số nói chung và chuyển đổi số trong
GD&ĐT nói riêng. Đặc biệt là hiện nay, nhìn chung về cơ sở hạ tầng, CNTT các trường ở nước
ta còn thiếu, yếu, chưa hiện đại và chưa động bộ; cần hồn thiện cơ chế, chính sách, để đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các
cơ sở giáo dục đào tạo. “Đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
CNTT, công nghệ số trong giáo dục - đào tạo; thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số, kỹ
năng bảo đảm an tồn, an ninh mạng đạt trình độ cơ bản cho người dân” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021, tập 2, tr.129)
Cơ sở hạ tầng bao gồm nhiều lĩnh vực đi kèm thiết bị phần cứng là các ứng dụng phần
mềm, các nền tảng để toàn bộ mọi hoạt động giáo dục và quản lý của các cấp diễn ra trên đó.
Nếu như ứng dụng CNTT vào giáo dục chủ yếu đề cập đến những chương trình, phần mềm
riêng lẻ, tách biệt, thì chuyển đổi số yêu cầu tất cả những thứ riêng lẻ này phải tương thích và
kết nối với nhau, tích hợp và có thể tiếp cận được trên cùng một nền tảng. Nền tảng này cho
phép các hoạt động giảng dạy, quản lý, học tập, kiểm tra, đánh giá, thi cử, quản lý người học
và việc giảng dạy, cũng như toàn bộ việc tương tác giữa người học với giảng viên và nhà trường
cùng diễn ra. Đây là vấn đề bắt buộc trong chuyển đổi số và để làm được điều này, đòi hỏi trách
nhiệm và sự tham gia của mọi tổ chức, mọi người, mọi trường đại học, cao đẳng hiện nay. Hoàn
thiện cơ sở hạ tầng mạng đồng bộ, thiết bị CNTT thiết thực phục vụ dạy - học, tạo cơ hội học
tập bình đẳng giữa các vùng, miền có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, ưu tiên hình thức
thuê dịch vụ và huy động nguồn lực xã hội hóa cùng tham gia thực hiện. Thúc đẩy phát triển
học liệu số phục vụ dạy - học, kiểm tra, đánh giá, tham khảo, nghiên cứu khoa học ở tất cả các
cấp học, ngành học, môn học gắn với việc thẩm định nội dung, kết nối, chia sẻ học liệu giữa
các địa phương, các nhà trường; hình thành kho học liệu số, học liệu mở dùng chung toàn ngành,
liên kết với quốc tế, đáp ứng nhu cầu tự học, nhu cầu học tập suốt đời của người dân, thu hẹp
171
khoảng cách giữa các vùng miền, các trường; tiếp tục đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp
dụng cơng nghệ số, khuyến khích và hỗ trợ áp dụng các mơ hình giáo dục đào tạo mới dựa trên
các nền tảng số. Triển khai mạng xã hội giáo dục có sự kiểm sốt và định hướng thống nhất,
tạo mơi trường số kết nối, chia sẻ giữa cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường, gia đình, giảng
viên, sinh viên; phát triển các khóa học trực tuyến mở, hình thành mạng học tập mở; triển khai
hệ thống học tập trực tuyến dùng chung tồn ngành phục vụ cơng tác bồi dưỡng giảng viên, hỗ
trợ dạy học cho các vùng khó khăn. Hồn thiện chính sách về quản lý, sử dụng cơ sở sữ liệu
quản lý giáo dục (quy định về chia sẻ, khai thác dữ liệu; hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy
phát triển hình thức dạy - học trực tuyến qua mạng; chính sách quản lý các khóa học trực tuyến
đảm bảo chất lượng...). “Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với thể
chế kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo, thúc đẩy phát triển... Chú trọng tháo gỡ rào cản về hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế,
tài chính, thủ tục hành chính đối với hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021, tập 2, tr.130-131)
6.3. Không ngừng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, nhân viên
kỹ thuật đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số
Đây là giải pháp quan trọng, quyết định sự thành công của chuyển đổi số ở các trường
đại học, cao đẳng hiện nay. Chuyển đổi số phải xuất phát vì con người, từ con người và đích
đến là phục vụ con người. Nếu con người khơng đủ trình độ đáp ứng u cầu chuyển đổi số thì
khơng thể tiến hành chuyển đổi số, và chuyển đổi số cũng không thể phát huy tác dụng mà
ngược lại còn là một “tai hại” nguy hiểm. Do đó, xây dựng con người là nhân tố then chốt,
quyết định nhất. Vì vậy, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, kỹ năng CNTT, an tồn thơng
tin cần thiết để tác nghiệp trên môi trường số, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Để vận hành một
hệ thống như vậy, đòi hỏi tư duy và năng lực quản lý của lãnh đạo ngành Giáo dục cũng như
lãnh đạo nhà trường, đội ngũ giảng viên phải thay đổi. Các nhà trường, nhất là các nhà quản lý
và đội ngũ giảng viên, cần phải tìm ra cách thức nắm bắt các nội dung, kiến thức, phương pháp
và phương thức trên không gian ảo, khai thác hiệu quả cơng nghệ cho mục đích giáo dục và
nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ giảng viên cần được trang bị hiểu biết về chuyển đổi số
và tư duy số để có thể làm chủ cơng nghệ và hiểu rõ giới hạn của công nghệ. Bởi chúng ta biết
rằng, chuyển đổi số sẽ không thể thành công nếu những người trực tiếp thực hiện việc đào tạo
(giảng viên) khơng có đủ kỹ năng sử dụng cơng nghệ. Giảng viên cần phải biết sinh viên mình
học như thế nào, với tinh thần, trách nhiệm, ý thức ra sao dù khơng gặp trực tiếp; trên cơ sở đó,
họ có thể nắm bắt và đánh giá được những gì từ phía người học. Tất nhiên trong q trình này,
họ ln phải có sự hỗ trợ đồng hành của các nhân viên kỹ thuật và các chuyên gia công nghệ để
đảm bảo việc giảng dạy diễn ra suôn sẻ, trôi chảy (đây là vấn đề rất quan trọng và cần thiết). Họ
cũng cần có những kỹ năng mới để tổ chức hoạt động giảng dạy, thu hút được sinh viên trong quá
trình giảng trực tuyến, duy trì sự chú tâm của sinh viên vào các nhiệm vụ và hoạt động học tập.
Bởi xét đến cùng, thu hút được sinh viên và chất lượng học tập là yếu tố hàng đầu và quan trọng
nhất quyết định sự thành công của đào tạo trực tuyến và quá trình chuyển đổi số.
172
Yếu tố quan trọng tiếp theo quyết định hiệu quả của chuyển đổi số là sự sẵn sàng tiếp
nhận của người học. Trên thực tế, chúng ta thấy không phải sinh viên nào cũng sẵn sàng cho
nội dung học trực tuyến, và không phải sinh viên nào cũng đáp ứng được yêu cầu của học trực
tuyến bởi nhiều lý do khác nhau từ nhận thức đến tinh thần, vật chất bảo đảm... Một thực tế mà
chúng ta nhận thấy, nguyên nhân học trực tuyến chưa lôi cuốn sinh viên, bên cạnh những lý do
kỹ thuật như: trang thiết bị và hạ tầng viễn thơng, nguồn tài liệu… cịn có những vấn đề do
phương pháp và kỹ thuật giảng dạy của giảng viên chưa thuyết phục được người học, chưa thực
sự tạo mơi trường sư phạm trên khơng gian mạng. Vì vậy, các trường cần phải chuẩn bị tâm thế
tốt nhất cho sinh viên, để sinh viên nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động khắc phục khó
khăn, tích cực tham gia học tập tốt nhất. Người học cần được chuẩn bị về tâm thế, tinh thần, kỹ
năng, và được hỗ trợ để đảm bảo điều kiện hạ tầng thiết bị đủ để thực hiện học tập trực tuyến.
Họ cũng cần được hướng dẫn về phương pháp học tập trực tuyến để bảo đảm hiệu quả. Văn
hóa giáo dục số bao gồm: các vấn về đề thái độ học tập, hiểu biết về đạo đức học thuật, tính tự
giác, ý thức về học tập suốt đời cũng như cần được xây dựng phát triển trong người học. Đối
với đào tạo trực tiếp, việc kiểm sốt q trình đào tạo phần lớn thuộc về cơ sở giáo dục và giảng
viên, trong khi đối với đào tạo trực tuyến, người học cũng phải chia sẻ nhiệm vụ này.
Muốn như vậy, các nhà trường cần đẩy mạnh tuyên truyền cũng như mở các đợt tập
huấn cho giảng viên, sinh viên trong nhà trường để mọi người hiểu vị trí, vai trị sự cần thiết
của chuyển đổi số và hiểu được muốn chuyển đổi số cần làm gì. Có như vậy, mới tạo sức mạnh
chung để thực hiện hiệu quả chuyển đổi số. Tập huấn với nhiều cách thức khác nhau như: mời
các chuyên gia để giới thiệu, thông qua hội ý ở cấp khoa, cấp bộ môn, giảng viên biết nhiều
hướng dẫn giảng viên biết ít; cũng có thể thơng qua các buổi tọa đàm sinh viên, hội thảo khoa
học thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chỉ số thành phần nguồn nhân lực có trình độ CNTT,
lồng ghép nội dung giáo dục về chuyển đổi số, đặc biệt là những kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư
duy sáng tạo, khả năng thích nghi với những yêu cầu của cuộc CMCN lần thứ tư đưa vào giảng
dạy trong nhà trường một cách phù hợp, tăng cường đào tạo nhân lực CNTT chuyên nghiệp
theo hướng ứng dụng, phục vụ yêu cầu chuyển đổi số.
6.4. Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý phải khơng ngừng học tập, nâng cao trình
độ, nhất là trình độ CNTT
Để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số thành cơng, một vấn đề quan trọng là chính đội ngũ
giảng viên phải nhận thức được yêu cầu, xu thế và nỗ lực để học tập, nâng cao trình độ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Bởi xét đến cùng, mọi giải pháp sẽ khó có thể phát huy cao nhất hiệu
quả nếu chủ thể tiến hành (giảng viên, cán bộ quản lý) nhận thức sai về giá trị của nó, khơng nỗ
lực thực hiện, hoặc thực hiện một cách đối phó, trì trệ, ỷ lại, tâm lý bình qn chủ nghĩa, sợ đổi
mới. Do đó, trách nhiệm của chính giảng viên, cán bộ quản lý trong tìm tịi, học hỏi nâng cao
trình độ, nhất là trình độ CNTT, là góp phần thực hiện chuyển đổi số thành cơng hơn, hiệu quả
hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay.
Muốn được như vậy, bản thân lãnh đạo nhà trường cần làm tốt công tác tư tưởng cho
giảng viên để họ hiểu được rằng, chuyển đổi số là xu thế chung của tất cả các quốc gia, tất cả
các lĩnh vực, trong đó giáo dục là lĩnh vực đặc biệt. Để mọi giảng viên thêm quyết tâm, chủ
động, tích cực vượt khó ra sức học tập, nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, căn cứ
173
vào tình hình thực tiễn, nhà trường tổ chức các hoạt động giúp đỡ giảng viên trong học tập, nắm
bắt kiến thức, nhất là các kiến thức về CNTT, phục vụ tra cứu tài liệu, chuyển bị bài giảng, thực
giảng, đánh giá, kiểm tra kết quả cũng như lưu trữ dữ liệu. Đồng thời, có những chính sách phù
hợp về vật chất, tinh thần để đội ngũ giảng viên yên tâm học tập, công tác cũng như cống hiến
cho sự nghiệp trồng người, khen thưởng những giảng viên tốt, tích cực học tập, đi đơi với phê
bình những giảng viên trung bình chủ nghĩa, thiếu nỗ lực, gắn kết quả học tập với phân loại cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức để tạo thêm động lực cho giảng viên. Đồng thời, đội ngũ
giảng viên phải tranh thủ mọi thời gian, điều kiện để học tập nắm bắt kiến thức, nhất là kiến
thức về CNTT, bởi nếu không học tập, khơng phấn đấu nắm bắt xu thế thì sẽ lạc hậu, bản thân
sẽ bị bỏ lại sau theo dòng chảy tri thức của nhân loại.
7. Kết luận
Chuyển đổi số trong giáo dục ở mỗi quốc gia, từng địa phương, từng cơ sở đào tạo khác
nhau thì cách thức tổ chức và tiến hành cũng khơng giống nhau, khơng có một cơng thức chung
và khơng có con đường chung nào cụ thể. Vì vậy, để nâng cao chất lượng chuyển đổi số trong
giáo dục, mỗi cơ sở đào tạo cần nghiên cứu kỹ đặc điểm của nhà trường, điều kiện hiện có về
con người, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị CNTT, trên cơ sở chủ trương chung của Đảng, Nhà
nước, để tiến hành hợp lý và hiệu quả cao nhất. Nhưng trước hết, cần sự đồng tâm, hợp lực
quyết tâm của mọi tổ chức, mọi lực lượng và cá nhân, đây chính là yếu tố then chốt và suy đến
cùng quyết định thành công chuyển đổi số.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về
một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,
tập 1, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập 2, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
174