nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 45
Ths. Phạm Văn Tuyết *
on ngời không thể tồn tại và phát triển
nếu tách rời những cơ sở vật chất nhất
định. Nói cách khác, con ngời không thể sống
khi không có tài sản để thoả mn các nhu cầu
thiết yếu. Nếu t liệu tiêu dùng là phơng tiện
sinh hoạt, t liệu sản xuất là phơng tiện để
thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh
thì tài sản nói chung là phơng tiện sống của
con ngời. Khi sống, con ngời khai thác công
dụng của tài sản để thoả mn cho nhu cầu của
mình; khi chết, tài sản còn lại của họ đợc
dịch chuyển cho ngời còn sống. Quá trình
dịch chuyển đó đợc gọi là thừa kế.
Nhìn nhận một cách tổng quan thì thừa
kế là việc dịch chuyển tài sản của ngời đ
chết cho ngời còn sống.
(1)
Từ điển tiếng Việt
đ định nghĩa: Thừa kế là hởng của ngời
chết để lại cho.
(2)
Quá trình dịch chuyển tài sản của ngời đ
chết cho ngời còn sống đợc hình thành ở bất
cứ x hội nào và dĩ nhiên, khi cha có nhà
nớc và pháp luật, nó đợc thực hiện theo tập
tục x hội nên đợc gọi là thừa kế. Khi nhà
nớc xuất hiện, bằng pháp luật, nhà nớc tác
động đến quá trình dịch chuyển tài sản nói
trên, trong đó, quyền để lại tài sản cũng nh
quyền hởng di sản của các chủ thể đợc nhà
nớc ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp
luật nên từ đó, quá trình dịch chuyển di sản
đợc gọi là quyền thừa kế. Nói cách khác, khái
niệm quyền thừa kế là phạm trù pháp lí mà nội
dung của nó là xác định phạm vi quyền, nghĩa
vụ của các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế.
Nh vậy, thừa kế hay quyền thừa kế đều có
nội dung là dịch chuyển tài sản từ ngời đ
chết cho ngời còn sống. Tuy nhiên, việc dịch
chuyển tài sản trên nếu đợc thực hiện theo tập
tục x hội (khi cha có nhà nớc và pháp luật)
thì đợc gọi là thừa kế, nếu đợc thực hiện
theo quy định của pháp luật (đ đợc pháp luật
điều chỉnh) thì đợc gọi là quyền thừa kế.
Việc sử dụng các thuật ngữ trên hoàn toàn
không có sự tranh ci giữa các nhà luật học. Vì
thế, chúng tôi chỉ đề cập hai thuật ngữ khác
liên quan đến khái niệm thừa kế. Đó là: Việc
dịch chuyển tài sản của ngời đ chết cho
ngời còn sống đợc gọi là sự kiện thừa kế hay
đợc gọi là quan hệ thừa kế? Nói cách khác:
Thừa kế là sự kiện hay là quan hệ x hội?
Chúng tôi quan tâm và trăn trở về việc
chọn thuật ngữ nào bởi dùng thuật ngữ này hay
thuật ngữ kia không chỉ đơn thuần là chuyện
câu chữ mà nó còn động chạm đến vấn đề
tơng đối lớn về mặt lí luận sau đây:
Trong khoa học pháp luật dân sự, ngời ta
thờng phân chia quan hệ pháp luật dân sự
thành các loại khác nhau:
1. Nếu dựa vào tính xác định của chủ thể
mang quyền và chủ thể mang nghĩa vụ thì
quan hệ pháp luật dân sự đợc phân thành hai
loại:
- Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối: Là
quan hệ mà trong đó chỉ xác định đợc chủ thể
mang quyền, tất cả các chủ thể khác là chủ thể
mang nghĩa vụ.
C
* Giảng viên chính Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội
nghiên cứu - trao đổi
46 - Tạp chí luật học
- Quan hệ pháp luật dân sự tơng đối: Là
quan hệ mà trong đó, ứng với chủ thể mang
quyền đ đợc xác định cụ thể là chủ thể mang
nghĩa vụ cũng đ đợc xác định cụ thể, theo đó
quyền của chủ thể bên này là nghĩa vụ của chủ
thể bên kia và ngợc lại.
Theo cách phân loại trên và nếu coi thừa
kế là quan hệ thì quan hệ pháp luật về thừa kế
thuộc nhóm quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối
hay tơng đối? Điều này không thể lí giải đợc
bởi lẽ nếu thừa kế là quan hệ pháp luật thì
trong quan hệ đó bao giờ cũng xác định đợc
cả hai bên chủ thể nên không thể xếp nó vào
nhóm các quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối
đợc. Mặt khác, trong quan hệ này không có
sự tơng ứng đối lập nhau về quyền, nghĩa vụ
giữa các bên chủ thể nên cũng không thể xếp
nó vào nhóm các quan hệ pháp luật dân sự
tơng đối.
2. Nếu dựa vào cách thức thực hiện quyền
dân sự của thể mang quyền thì quan hệ pháp
luật dân sự đợc phân chia thành hai loại:
- Quan hệ vật quyền: Là quan hệ pháp luật
dân sự mà trong đó, chủ thể mang quyền thực
hiện quyền dân sự bằng chính hành vi của
mình mà hoàn toàn không phụ thuộc vào hành
vi của ngời khác. Ví dụ: Quan hệ pháp luật về
sở hữu đợc coi là quan hệ vật quyền vì trong
đó khi thực hiện quyền dân sự của mình, chủ
sở hữu (chủ thể mang quyền) bằng chính hành
vi của mình tác động trực tiếp đến vật để thực
hiện việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài
sản của mình mà không phụ thuộc vào hành vi
của bất kì ngời nào.
- Quan hệ trái quyền: Là quan hệ pháp luật
dân sự mà trong đó, quyền của chủ thể bên này
muốn đợc thực hiện phải thông qua hành vi
thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Ví dụ: Quan hệ
nghĩa vụ vay nợ đợc coi là quan hệ trái quyền
vì quyền thu hồi nợ của bên cho vay chỉ đợc
thực hiện chừng nào bên vay thực hiện hành vi
trả nợ và phụ thuộc vào hành vi của bên vay.
Nếu coi thừa kế là quan hệ thì quan hệ
pháp luật về thừa kế sẽ đợc xếp vào nhóm
quan hệ nào? Trớc hết, không thể xếp nó vào
nhóm các quan hệ trái quyền vì quyền nhận tài
sản của ngời thừa kế hoàn toàn không phụ
thuộc vào hành vi của ngời để lại di sản, càng
không thể thông qua hành vi của ngời đó
đợc vì quyền nhận di sản chỉ xuất hiện khi
ngời để lại di sản đ chết. Mặt khác, cũng
không thể coi thừa kế là quan hệ vật quyền mà
nó chỉ là hệ luận của quan hệ vật quyền (quan
hệ sở hữu). Bởi lẽ, nh đ nói ở phần trớc,
thừa kế chỉ là sự tiếp nối giữa việc để lại tài
sản và việc nhận tài sản mà việc để lại tài sản
của ngời đ chết (dù có di chúc hay không)
thì về bản chất, đều là quyền định đoạt tài sản
của chủ sở hữu, việc nhận di sản của ngời
thừa kế là sự tiếp nhận quyền định đoạt đó.
Nh vậy, nếu thừa kế là quan hệ pháp luật
thì nó phải thuộc hoặc nhóm này hoặc nhóm
kia theo các cách phân loại trên. Trong khi về
mặt lí luận thì không thể xếp nó vào bất kì
nhóm nào bởi thực chất, thừa kế chỉ là sự kiện
dịch chuyển tài sản từ ngời đ chết sang
ngời còn sống.
Theo quan niệm truyền thống thì quá trình
dịch chuyển tài sản của ngời đ chết cho
ngời còn sống là quan hệ x hội về thừa kế và
thờng đợc gọi quan hệ thừa kế. Đó là mối
quan hệ giữa hai bên chủ thể. Một bên là ngời
để lại di sản và một bên là ngời nhận di sản.
Có lẽ cách gọi này xuất phát từ quan điểm cho
rằng đối tợng điều chỉnh của pháp luật chỉ có
thể là các quan hệ x hội. Thừa kế đợc pháp
luật điều chỉnh nên nó phải là quan hệ x hội
và so với các quan hệ khác, thừa kế là quan hệ
khá đặc biệt bởi khi quan hệ này xuất hiện thì
đ không còn sự hiện hữu của một bên chủ thể.
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 47
Chúng tôi cho rằng không đợc hiểu khái
niệm thừa kế là quan hệ pháp luật với các lí
do sau đây:
Thứ nhất, ngoài việc điều chỉnh các quan
hệ x hội, pháp luật còn điều chỉnh các sự kiện
khác xảy ra trong thực tế. Khi quan hệ x hội
phát sinh cũng có nghĩa là đ xuất hiện sự kiện
nhng sự kiện xuất hiện cha hẳn đ làm xuất
hiện quan hệ x hội. Trong đa số các trờng
hợp thì khi xuất hiện sự kiện sẽ đồng thời làm
xuất hiện quan hệ x hội. Tuy nhiên, cũng có
sự kiện xuất hiện đ đợc pháp luật dự liệu hậu
quả pháp lí nhng bản thân sự kiện đó không
phải là quan hệ x hội và cũng không làm xuất
hiện quan hệ x hội nào. Chẳng hạn, hành vi từ
bỏ quyền sở hữu tài sản là sự kiện đợc pháp
luật điều chỉnh (Điều 257 BLDS) nhng hành
vi đó không phải là quan hệ x hội. Thậm chí,
hành vi này chính là sự kiện làm chấm dứt
quan hệ pháp luật về sở hữu.
Thứ hai, trong tác phẩm của mình, C. Mác
đ viết: X hội bất cứ dới hình thức nào - là
gì? Nó là sự tác động lẫn nhau giữa ngời và
ngời.
(3)
Luận điểm trên của C.Mác đ chỉ cho
chúng ta thấy rằng x hội vốn là tổng hoà các
mối quan hệ giữa con ngời với con ngời.
Mặt khác, x hội đợc định dạng thông qua
hành vi xử sự của con ngời hiện tại. Nói đến
x hội là nói đến sự cấu thành bởi những con
ngời cụ thể - những cá nhân sống. Vì thế, nếu
quan hệ x hội là quan hệ giữa ngời với ngời
thì phải là mối quan hệ giữa những ngời đang
sống. Với ngời đ chết, ngời ta chỉ có thể
nói rằng ngời đó đ từng tham gia quan hệ
này hay quan hệ khác mà tuyệt nhiên không
thể nói rằng ngời đ chết đang tham gia quan
hệ nào đó, trong khi thừa kế chỉ phát sinh khi
ngời để lại tài sản đ chết.
Thứ ba, để tham gia vào quan hệ x hội nói
chung và quan hệ dân sự nói riêng, cá nhân
phải có t cách chủ thể đợc tạo thành bởi
năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
(4)
Mặt
khác, tại khoản 3 Điều 16 BLDS đ xác định:
Năng lực pháp luật của cá nhân chấm dứt khi
ngời đó chết. Vì thế, nếu nói rằng thừa kế là
quan hệ giữa ngời để lại di sản với ngời
nhận di sản thì vô hình trung lại thừa nhận
rằng cá nhân khi không còn năng lực pháp luật
và năng lực hành vi dân sự vẫn là chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự.
Thứ t, theo nghĩa: Thừa kế là hởng của
ngời chết để lại cho
(5)
thì thừa kế đợc hiểu
là sự tiếp nối giữa việc để lại di sản của ngời
đ chết với việc nhận di sản của ngời đang
sống (mà không phải là mối quan hệ giữa họ).
Sự tiếp nối đó chính là quá trình dịch chuyển
tài sản và đợc coi là sự kiện (căn cứ) làm xác
lập quyền sở hữu của ngời thừa kế đối với
khối di sản mà họ đ nhận thừa kế (xem Điều
253 BLDS).
Thứ năm, thừa kế còn có nghĩa thứ hai
đồng nghĩa với kế thừa là: Thừa hởng, giữ
gìn và tiếp tục phát huy (nghĩa này chỉ dùng
trong những trờng hợp cái đợc thừa hởng
mang giá trị tinh thần). Vì thế, nếu nói rằng kế
thừa những di sản văn hoá của dân tộc thì cần
phải hiểu đó là sự thừa hởng của thế hệ sau
đối với những giá trị tinh thần của thế hệ trớc
để lại mà không đợc hiểu là mối quan hệ giữa
thế hệ trớc với thế hệ sau.
Vì thế, thừa kế chỉ là sự kiện dịch chuyển
tài sản từ ngời đ chết sang ngời còn sống./.
(1).Xem: Thông t 81-TATC ngày 24/7/1981 của Toà
án nhân dân tối cao.
(2).Xem: Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học. Nxb.
Đà Nẵng, Trung tâm từ điển Việt Nam, Hà Nội 2000, tr.
972.
(3).Xem: Th gửi Alencốp. C.Mác-Ăngghen tuyển tập,
tập 2, Nxb. Sự thật Hà Nội 1971, tr. 540.
(4).Xem: Giáo trình luật dân sự, Trờng đại học Luật Hà
Nội, Nxb. CAND, Hà Nội 2000, tr.63.
(5).Xem: Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr. 486.