Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Căn cứ địa Bời Lời (Tây Ninh) trong kháng chiến chống Pháp (1945–1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.26 KB, 10 trang )

CĂN CỨ ĐỊA BỜI LỜI (TÂY NINH)
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 – 1954)
Nguyễn Xuân Thắng1
1. Lớp CH20LS01. Email:
TÓM TẮT
Xây dựng căn cứ địa, hậu phương vững mạnh là nhân tố quyết định thắng lợi của kháng
chiến, đồng thời tạo thuận lợi cho việc xây dựng chế độ mới ở các địa phương. Ở Tây Ninh, căn
cứ địa Bời Lời có vị trí chiến lược quan trọng, là địa bàn bám trụ kiên cường của quân và dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược. Do vậy, nơi đây trở thành mục tiêu của
các cuộc hành quân càn quét của kẻ địch. Để giữ vững vị trí chiến lược này, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, quân và dân huyện Trảng Bàng cùng căn cứ Bời Lời vượt qua mn vàn khó khăn,
chiến đấu kiên cường, bảo vệ địa bàn căn cứ của Tỉnh ủy, Phân khu ủy và đánh bại các cuộc
hành quân, càn quét của Thực dân Pháp, góp phần giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, tạo
thế và lực cùng Tây Ninh và cả nước giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Thực dân
Pháp xâm lược (1945 – 1954).
Từ khóa: Bời Lời, căn cứ địa, kháng chiến, chống Pháp, Trảng Bàng, Tây Ninh
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Căn cứ địa cách mạng là những vùng độc lập hoặc vùng vừa giải phóng “xuất hiện trong
vịng vây của địch, cách mạng dựa vào đó để tích lũy và phát triển lực lượng của mình về mọi
mặt, tạo thành những trận địa vững chắc về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, lấy đó làm nơi
xuất phát để mở rộng dần ra, cuối cùng tiến lên đánh bại kẻ thù lớn mạnh, giải phóng hồn toàn
đất nước. Căn cứ địa là chỗ đứng chân của cách mạng, đồng thời là chỗ dựa để xây dựng và
phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh đấu trang vũ trang cách mạng; trên ý nghĩa đó, nó cũng
là hậu phương của chiến tranh cách mạng” (Võ Nguyên Giáp, 1970).
Trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp (1945 – 1954), tỉnh Tây Ninh có ba căn
cứ địa lớn: căn cứ địa Trà Vong - Dương Minh Châu gồm khu vực hữu ngạn sơng Sài Gịn chạy
lên núi Bà Đen, sang vùng tả ngạn ở sông Vàm Cỏ Đông bao quanh Thành phố Tây Ninh về
phía Đông và phía Bắc; căn cứ huyện Châu Thành gồm khu vực hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông
chạy lên biên giới giáp tỉnh SvayRiêng - Campuchia và căn cứ địa Bời Lời (Thuộc ấp Trảng
Sa, xã Đơn Thuận, huyện Trảng Bàng).
Các cơng trình nghiên cứu về lịch sử cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp (1945 –


1954) trên mảnh đất Tây Ninh trung kiên, đặc biệt là vấn đề căn cứ địa vẫn còn tương đối hạn
chế. Với mong muốn khỏa lấp một phần vào khoảng trống đó, cũng như góp phần phục dựng
một cách cơ bản lịch sử cuộc kháng chiến của nhân dân Trảng Bàng – Tây Ninh chống Thực
dân Pháp xâm lược, tác giả chọn vấn đề “Căn cứ địa Bời Lời (Tây Ninh) trong cuộc kháng
chiến chống Thực dân Pháp (1945 – 1954)” để tìm hiểu và nghiên cứu.
77


Bằng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic kết hợp với phương pháp liên
ngành, phân tích và tổng hợp, trong bài tham luận này, tác giả sẽ đi sâu tìm hiểu một số đặc điểm
và vai trị của căn cứ địa Bời Lời trong tiến trình cuộc kháng chiến ở Tây Ninh. Qua đó, góp phần
tái hiện phong phú hơn lịch sử vùng đất Trảng Bàng – Tây Ninh anh hùng trong cuộc kháng
chiến, góp phần tơn tạo, bảo vệ, giữ gìn tốt để đồng bào và chiến sĩ cả nước, nhất là thế hệ trẻ và
khách nước ngoài đến tham quan, nghiên cứu, học tập; giúp cho mọi người hiểu thêm về sức
mạnh thần kỳ của con người Việt Nam, xứng đáng là niềm tự hào của quân và dân tỉnh Tây Ninh.

2. NỘI DUNG
2.1. Một vài nét khái quát về căn cứ địa Bời Lời, Trảng Bàng, Tây Ninh
2.2.1. Đặc điểm địa lý huyện Trảng Bàng (nay là Thị xã Trảng Bàng)
Thị xã Trảng Bàng nằm ở phía nam của tỉnh Tây Ninh (phía bắc giáp các huyện Gò Dầu,
Bến Cầu, Dương Minh Châu của tỉnh Tây Ninh; phía đơng giáp huyện Dầu Tiếng của Bình
Dương và Củ Chi của Thành phố Hồ Chí Minh; phía nam giáp với Củ Chi của Thành phố Hồ
Chí Minh và huyện Đức Hịa, tỉnh Long An; phía Tây giáp tỉnh Sveyriêng của Vương quốc
Campuchia) gồm 10 phường, xã (6 phường: An Hịa, An Tịnh, Gia Bình, Gia Lộc, Lộc Hưng,
Trảng Bàng và 4 xã: Đôn Thuận, Hưng Thuận, Phước Bình, Phước Chỉ).
Được bao bọc bởi hai con sơng lớn của vùng Đông Nam Bộ là sông Vàm Cỏ Đông ở phía
tây và sơng Sài Gịn ở phía đơng; lại là cửa ngõ của tỉnh Tây Ninh với Thành phố Hồ Chí Minh,
đồng thời gần các đơ thị lớn, có tuyến đường bộ Quốc lộ 22 - tuyến Xuyên Á, tuyến đường Cao
tốc và đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, Quốc lộ 14C, thị xã Trảng Bàng có một
vị trí chiến lược quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Tây Ninh nói riêng

cũng như các tỉnh Đơng Nam Bộ nói chung.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), Trảng Bàng là huyện cửa ngõ phía
tây – bắc Sài Gịn, nơi trung chuyển hàng hóa qn sự phục vụ cho chiến trường miền Tây Nam
Bộ, là vành đai bảo vệ, là tuyến giao thông liên lạc quan trọng của liên tỉnh miền Đơng, của
khu ủy Sài Gịn – Gia Định và của Tỉnh ủy Tây Ninh, lại có căn cứ Bời Lời, địa đạo An Thới.
[Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đây là vùng đất nằm trong khu vực được
mệnh danh là khu “Tam giác sắt” (Trảng Bàng – Bến Cát – Củ Chi). Trảng Bàng cũng còn là
địa bàn áp sát cơ quan đầu não của ngụy quân Sài Gòn, sẵn sàng tung ra những đơn vị thọc sâu
tận hang ổ kẻ thù].
2.2.2. Bối cảnh lịch sử và sự ra đời của căn cứ địa Bời Lời
Ngày 23-9-1945, dựa vào sự che chở và tiếp tay của quân Anh cùng với sự yểm trợ của
tàn quân Nhật, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng đánh chiếm các cơng sở của chính quyền non trẻ
ở thành phố Sài Gòn, mở màn cuộc xâm lược lần thứ hai đất nước Việt Nam.
Ngày 8-11-1945, quân Pháp mở cuộc hành quân lên Tây Ninh. Đoàn xe quân sự Pháp có
quân Anh hỗ trợ với 204 xe, gồm 16 xe tăng, xe bọc thép, tấn công theo 2 hướng từ Sài Gòn
lên và từ Campuchia sang, hợp điểm tại Gò Dầu, đánh chiếm Gò Dầu, chia cắt Tây Ninh làm
hai (Vương Cơng Đức, 2014). Sau đó, chúng sắp xếp lại đội hình cùng theo quốc lộ 22 lên thị
xã Tây Ninh.
78


Tại Trảng Bàng, giữa tháng 11-1945, Pháp đã tái chiếm thành cơng Trảng Bàng và đưa
qn đóng nhiều đồn, bót tại các thị tứ và trên các trục giao thông lớn… Sang năm 1946, Pháp
dần dần củng cố bộ máy chính quyền, tăng cường càn quét, giành được ưu thế trên chiến trường.
Ban lãnh đạo Ủy ban Hành chính nhiều thành phần phải rút vô chiến khu Phước Chỉ, năm 1946
về Bời Lời (Vương Cơng Đức, 2014).
Trong tình hình và thế trận đồn bót giặc đóng cài sâu vào các xã Lộc Hưng, Gia Lộc, An
Hòa, An Tịnh, Thanh Phước, Phước Thạnh, Hiệp Thạnh,… ở các xã này có căn cứ lõm luôn thay
đổi. Riêng Bời Lời, xã Đôn Thuận (Trảng Bàng) nhờ có địa thế rừng già và sơng Sài Gịn, có cơ
sở cách mạng từ lâu và nhân dân dân đơng đảo tham gia. Đó là địa lợi và nhân hòa để lập nên căn

cứ địa Bời Lời từ năm 1947 – 1948 (Ban liên lạc truyền thống LLVT Trảng Bàng, 2005).
Căn cứ địa Bời Lời (Bời Lời là tên gọi dân gian để chỉ một loại cây gỗ mộc tự nhiên thành
một khu rừng già, rộng gần 200 km2) nằm ở phía đông nam của tỉnh Tây Ninh (thuộc ấp Trảng Sa,
xã Đôn Thuận, huyện Trảng Bàng, cách trung tâm thị xã Trảng Bàng khoảng 16 km, cách trung
tâm thành phố Hồ Chí Minh theo đường chim bay khoảng 40 km), phía Đơng cặp sơng Sài Gịn,
đoạn từ Bến Củi đi Bùng Binh, Bến Dược; phía Bắc giáp căn cứ Dương Minh Châu; phía Tây và
Nam giáp với các vùng dân cư thuộc huyện Gò Dầu và Trảng Bàng, Trung tâm căn cứ Bởi Lời
rộng khoảng 150km2, xung quanh có hàng chục căn cứ lõm, căn cứ vệ tinh của các xã thuộc huyện
Gò Dầu, huyện Trảng Bàng và huyện Dương Minh Châu (Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh, 2006).
2.2. Quá trình xây dựng và chức năng hoạt động của căn cứ địa Bời Lời trong cuộc
kháng chiến chống Thực dân Pháp (1945 – 1954)
2.2.1. Giai đoạn 1945 – 1947
Sau sự kiện thực dân Pháp bắt đầu nổ súng mở màn cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai
(23-9-1945), để tăng cường viện binh cho Leclerc trong việc xâm lược Việt Nam, ngày 23-101945, 5 binh đoàn kỵ binh thiết giáp của Đại tá Matsu đến Sài Gòn, đưa tổng số quân Pháp tại
Sài Gòn lên tới 6000, chưa kể quân Anh, Ấn, Nhật. Có thêm viện binh, Leclerc bắt đầu tổ chức
các cuộc tiến công chọc thủng vòng vây xung quanh Sài Gòn, lần lượt đánh chiếm các tỉnh
miền đông và miền tây Nam Bộ.
Trước sức mạnh tiến công của quân xâm lược, trong thế tương quan không cho phép, các
lực lượng kháng chiến rút dần về địa bàn các tỉnh xung quanh thành phố Sài Gịn. Ban chỉ huy
mặt trận phía bắc thành phố Sài Gòn cùng lực lượng vũ trang phía bắc tỉnh Gia Định, lực lượng
vũ trang tỉnh Tây Ninh dời về khu vực Tân Mỹ, Bình Lý, An Nhơn Tây rồi Bời Lời. Đồng thời,
tài liệu, máy móc, cơ sở vật chất của các cơ quan kháng chiến được chuyển về đây. Căn cứ địa
Bời Lời từng bước hình thành ngay trong tháng đầu tiên kháng chiến.
Đầu năm 1946, tại Trảng Bàng đã hình thành rất nhiều lực lượng võ trang chống Pháp,
trong đó đa số là người địa phương, ngồi ra cịn có một thiểu số các lực lượng từ Sài Gòn và
nhiều tỉnh thành khác bị Pháp đánh thua phải chạy lên đây. Trước đó, thực hiện nghị quyết hội
nghị Bình Hịa Nam (ngày 10-12-1945) về tập trung trên toàn chiến trường Nam Bộ, đầu năm
1946, các chi đội Vệ Quốc Quân lần lượt ra đời. Tại Tây Ninh ngày 5 tháng 3 năm 1946, chi
đội 11 được thành lập. chi đội có 400 cán bộ chiến sĩ, 120 khẩu súng các loại, do Trịnh Khánh
Vàng làm chi đội trưởng, Nguyễn Lê Uẩn làm chính trị viên, Trần Văn Đẩu làm Chi đội phó.

Chi đội có một đại đội chiến đấu, gồm 3 Trung đội lấy phiên hiệu A, B (mỗi trung đội tương
79


đương một đại đội ngày nay) và các cơ quan trực thuộc. Đóng tại Bời Lời có trung đội A, ban
tham mưu - chính trị, trường Quân Chính và cơ quan Hậu cần, binh công xưởng, Quân y (Đảng
bộ tỉnh Tây Ninh – Ban chấp hành Đảng bộ Thị xã Trảng Bàng, 2020).
Sau khi rút về Bời Lời đứng chân, từ đầu năm 1946, các cơ quan kháng chiến khẩn trương
chỉ đạo xây dựng hệ thống công sự vật cản và lực lượng chuyên trách bảo vệ căn cứ địa. Phát
hiện nơi trú đóng của các cơ quan lãnh đạo và lực lượng vũ trang kháng chiến tỉnh Tây Ninh,
tỉnh Gia Định và Khu 7, Thực dân Pháp liên tục tổ chức các cuộc hành quân càn quét. Các lực
lượng vũ trang tại Bời Lời - Đôn Thuận đã kiên cường chiến đấu bảo vệ căn cứ địa, bảo vệ tính
mạng và tài sản của nhân dân.
Đến cuối năm 1946, phần lớn các lực lượng võ trang chống Pháp ở Trảng Bàng đều về
đóng quân trong vùng Bời Lời và Lợi Thuận. Tại Bời Lời, lực lượng vũ trang địa phương tập
hợp thành một trung đội do Nguyễn Đình Sối và Trần Văn Hữu chỉ huy. Ngoài trung đội tập
trung của quận Trảng Bàng, tại Bời Lời cịn có một số đơn vị gồm 20 cán bộ, chiến sĩ chuyên
trách bảo vệ căn cứ địa. Trên các ngả đường dẫn về căn cứ địa, lực lượng vũ trang cùng với
nhân dân tổ chức nhiều trận đánh góp phần làm chậm bước tiến quân đánh chiếm Tây Ninh của
quân đội viễn chinh Pháp.
Bước sang năm 1947, sau khi thành lập, quân đội Cao Đài ra sức càn quét đốt phá, bắn giết
nhân dân. Tại Bời Lời – Đôn Thuận, chúng thường xuyên tổ chức càn quét, thẳng tay bắn giết
nhân dân, đốt nhà cướp của, phá hủy các căn cứ hậu cần, kỹ thuật của lực lượng kháng chiến.
Chúng còn ráo riết thực hiện việc gom dân lập “châu vi đạo” (khu vực xung quanh thánh thất),
đóng bót án ngữ các trục lộ giao thông và địa bàn trọng yếu. Trước tình hình trên, liên quân A và
B cùng với lực lượng vũ trang địa phương tổ chức chiến đấu ngăn chặn hành động càn quét, cướp
phá của quân đội Cao Đài, đồng thời tham gia đánh địch trên những khu vực kế cận. Ngày 14-71947, các đơn vị vũ trang kháng chiến bẽ gảy cuộc càn của 1 đại đội lính lê dương và 1 đại đội
quân đội Cao Đài vào Bời Lời, diệt 13 tên, thu 15 súng và nhiều đồ dùng quân sự. Ngày 20-121947, Liên quân B và lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh cuộc hành quân của 2 trung đội
vũ trang Cao Đài từ đồn Bùng Binh càn vào Bời Lời, diệt và làm bị thương 8 tên, thu 6 súng và
nhiều đạn dược (Đảng bộ tỉnh Tây Ninh – Ban chấp hành Đảng bộ Thị xã Trảng Bàng, 2020).

Năm 1947 cũng là khoảng thời gian tỉnh Tây Ninh bước vào giai đoạn cùng cả nước
kháng chiến. Chi đội 11 kiện toàn một bước về mặt tổ chức. Nguyễn Văn Dung được khu trưởng
khu 7 cử về làm chi đội trưởng. Trung đội A đổi phiên hiệu thành đại đội 2, trung đội B đổi
phiên hiệu thành Đại đội 1, Trung đội C đổi phiên hiệu là Đại đội 3. Đại đội 2 vẫn tiếp tục hoạt
động tại khu vực căn cứ địa Bời Lời. Tại đây cịn có thêm một phân đội cảnh vệ do Chi đội
trưởng Nguyễn Văn Dung dẫn theo về Tây Ninh làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ địa. Từ Bời Lời,
các đơn vị của liên quân hoạt động rộng ra khu vực các huyện Hóc Mơn Trảng Bàng, Đức Hòa.
2.2.2. Giai đoạn 1948 – 1950
Sau khi bị thất bại nặng ở chiến trường Việt Bắc thu - đông 1947, bước sang năm 1948,
thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng chiến lược từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh
lâu dài”, tập trung lực lượng quay về bình định vùng tạm chiến và lấn chiếm vùng tự do của
kháng chiến. Ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, chúng dồn lực lượng, tiến hành bình định
hịng biến nơi đây thành vùng dự trữ chiến lược cho cuộc chiến tranh xâm lược của chúng.
80


Trên chiến trường Tây Ninh, sau một thời gian dài thực hiện âm mưu dùng lực lượng
phản động Cao Đài đánh Việt Minh, dù gây ra cho lực lượng kháng chiến nhiều tổn thất nặng
nề, nhưng chúng vẫn ngày càng sa vào thế khó khăn, bị động do sự tác động của tình hình chung
trên tồn bộ chiến trường cả nước.
Trong lúc đó, về lực lượng kháng chiến, bước vào đầu năm 1948, tình hình các mặt tuy cịn
nhiều khó khăn nhưng đã bước vào thế ổn định dần và trên đà đi lên. Theo đó, một vấn đề cấp
bách được đặt ra là cần phải xây dựng căn cứ địa để làm nơi đứng chân vững chắc cho các cơ
quan lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh, nơi xây dựng nền kinh tế kháng chiến, đồng thời là căn cứ xuất
phát để: - đánh mạnh vào hậu phương của địch, gây cơ sở địch hậu, bóp hẹp vùng kiểm sốt của
chúng; - phá hoại trung tâm kinh tế địch (cao su), cắt đứt các đường giao thông quan trọng, mở
rộng khu giải phóng, bảo vệ lực lượng dự trữ, bảo vệ mùa màng của lực lượng kháng chiến.
Ngày 15-2-1948, tại Bàu Chanh, Tỉnh ủy Tây Ninh Tổ chức hội nghị nhằm đề ra nhiệm vụ
cho năm 1948. Hội nghị quyết định chọn Trà Vong làm nơi xây dựng căn cứ địa của tỉnh, đồng
thời chỉ đạo huyện ủy Châu Thành và Trảng Bàng tiếp tục củng cố và mở rộng căn cứ Bời Lời,

căn cứ Hòa Hội, Ninh Điền, căn cứ Bàu Chanh, Yên Thế, Lam Sơn và tổ chức các hành lang nối
liền các căn cứ, tạo thành một hệ thống căn cứ liên hoàn. Sự liên hoàn giữa các căn cứ của các
huyện với căn cứ địa Trà Vong của tỉnh đã tạo cho thế “đứng chân” lực lượng kháng chiến tỉnh
càng vững chắc. Từ đây, một số cơ quan của tỉnh Tây Ninh chuyển về căn cứ địa Trà Vong.
Tháng 3-1948, Bộ tư lệnh khu 7 quyết định thành lập các trung đoàn trong toàn khu, trên
cơ sở mở rộng và nâng cao các chi đội sẵn có. Đến tháng 7-1948, Chi đội 11 được phát triển
thành Trung đoàn 311. Buổi lễ thành lập tại Bàu Chanh (nay là xã Phước Ninh, huyện Dương
Minh Châu). Trung đoàn trưởng là ơng Nguyễn Văn Dung, trung đồn phó là ông Trần Văn
Đẩu, ông Nguyễn Hữu Dụ làm chính trị viên. Trung đồn 311 có 3 tiểu đồn là 931 (tiểu đồn
trưởng là ơng Nguyễn Trọng Nghĩa), 932 (tiểu đồn trưởng là ơng Trần Minh Ngọc), 933 (tiểu
đồn trưởng là ông Nguyễn Công Bằng) và 2 đại đội độc lập A và C. Bộ chỉ huy Trung đồn
311 đóng căn cứ ở Trà Vong, Châu Thành, Tây Ninh. Tiểu đoàn 932 đóng căn cứ ở Bời Lời,
Trảng Bàng (Vương Cơng Đức, 2014). Từ đây, đứng chân tại căn cứ địa Bời Lời có tiểu đồn
932 và đại đội độc lập C thuộc trung đoàn 311, đại đội địa phương Hà Huy Tập. Ngồi ra cịn
có đơn vị vũ trang Hải ngoại số 1, gọi là bộ đội Sivotha do Ngô Thái Sơn chỉ huy… Tháng 101950, để phối hợp với Chiến dịch Biên giới, Bộ Tư lệnh Khu 7 mở chiến dịch Bến Cát. Xã Đôn
Thuận huy động gần 4.000 dân công phục vụ chiến dịch, đào phá đường giao thơng, tải đạn, tải
thương, tiếp tế lương thực, ngồi ra còn phối hợp với lực lượng vũ trang huyện bức rút đồn bót,
chặn đánh đồn xe tuần tiễu của địch trên các đường 1, 6, 19 (Đảng bộ tỉnh Tây Ninh – Ban
chấp hành Đảng bộ Thị xã Trảng Bàng, 2020)..
Cuối năm 1950, phong trào kháng chiến ở Trảng Bàng nói riêng và Tây Ninh nói chung
đã có những bước phát triển toàn diện, đặt cơ sở vững chắc cho việc đẩy mạnh hơn nữa sự
nghiệp kháng chiến trong địa bàn toàn tỉnh.
2.2.3. Giai đoạn 1951 – 1954
Bước sang năm 1951, phong trào kháng chiến của Tây Ninh đã khá vững mạnh về mọi
mặt. Tình hình chung của cuộc kháng chiến trong cả nước lúc này cũng có những chuyển biến
lớn. Đầu năm 1951, Xứ ủy (Sau đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đổi là trung ương
cục) Quyết định bố trí lại chiến trường, sắp xếp lại lực lượng, kiện toàn tổ chức toàn Nam Bộ
81



cho phù hợp với điều kiện mới. Việc bố trí lại chiến trường, thành lập huyện Dương Minh Châu
- căn cứ kháng chiến đầu não của Nam bộ, tiếp cận sự lãnh đạo của Trung ương Cục và Phân
Liên khu ủy miền Đông đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phong trào kháng chiến Tây
Ninh tiếp tục phát triển trong tình hình mới. Các huyện Trảng Bàng, Châu Thành, Dương Minh
Châu tiến hành mạnh mẽ các hoạt động chống lấn chiếm của địch vào khu căn cứ Bời Lời và
các vùng du kích quan trọng: Thanh Điền, Long Xuyên Điền, Phước Ninh.
Tại Trảng Bàng, từ năm 1951, địch đẩy mạnh tấn công căn cứ địa Bời Lời, chúng kết hợp
biện pháp thọc sâu đánh nhỏ với càn quét dài ngày, phá hoại địa hình, địa đạo, hầm chơng, lấn
chiếm một số khu vực thuộc xã Đôn Thuận Lợi. Ngày 7-6-1951, Tiểu đoàn 302 được tăng
cường 1 trung đội của Tiểu đồn 303, tập kích yếu khu Bùng Binh – Đôn Thuận. Yếu khu Bùng
Binh nằm ở trên đường liên xã chạy ra Cầu Xe đi về thị trấn Trảng Bàng. Yếu khu có 2 đồn, do
1 đại đội Cao Đài đóng giữ: đồn lưu động phía nam có 2 trung đội và ban chỉ huy chi khu, đồn
Lưu Thủ ở phía Bắc có 1 trung đội. Mỗi đồn có 3 hàng rào đơn, 4 lơ cốt, lơ cốt chính cao 8m.
Bao quanh chi khu là một hàng rào bằng gỗ rừng cao 2,5m và cứ 30 đến 40m có một chịi canh.
Sau khi bí mật tiếp cận các vị trí xuất phát xung phong, 23 giờ, các tổ đặc công và bộ binh dùng
hỏa lực, thuốc nổ nhanh chóng tiêu diệt các lo cốt, xung phong vào bên trong đồn tiêu diệt địch.
Bị đánh bất ngờ, quân địch chống trả yếu ớt, toàn bộ lực lượng của chúng bị ta tiêu diệt và bắt
sống (Đảng bộ tỉnh Tây Ninh – Ban chấp hành Đảng bộ Thị xã Trảng Bàng, 2020).
Từ năm 1952, lực lượng Cao Đài liên minh do Trịnh Minh Thế chỉ huy xây dựng căn cứ
ở Trảng Bàng, tổ chức đội quân Hắc y (thực chất là biệt kích), chia thành những nhóm nhỏ luồn
sâu vào căn cứ địa kháng chiến để truy lùng, bắn phá. Ngày 20-5-1952, quân Pháp mở trận càn
quy mô lớn vào căn cứ Bời Lời. Ý đồ của địch là càn qt lấn chiếm, đóng bót tại ba cụm: Đồng
Ơng Ngỗng, Trảng Sa, Bàu Nhái – Bàu Ngồng để vây ép, chia cắt chiến khu Bời Lời. Tiểu đoàn
306, đại đội bộ đội địa phương, lực lượng du kích tổ chức đánh địch quyết liệt. Khi quân địch
từ Bàu Nhái đánh vào căn cứ, trung đội 92 thuộc đại đội địa phương huyện đã dùng trung liên
bắn rơi 1 máy bay L19 của địch, tên quan ba Pháp ngồi trên máy bay chết tại chỗ. Mất chỉ huy,
quân địch tháo chạy, kết thúc cuộc càn.
Từ cuối năm 1952, lợi dụng khó khăn của lực lượng kháng chiến sau trận bão lụt năm
Nhâm Thìn, địch đẩy mạnh hoạt động càn quét, bao vây chia cắt, cô lập vùng căn cứ địa cách
mạng. Các lực lượng vũ trang kháng chiến lấy Bời Lời làm bàn đạp, tổ chức tiến công địch tại

các vùng lân cận. Xuất phát từ Bời Lời, đại đội 2794 tổ chức phục kích địch trên đường số 6,
các trục lộ 19, 26, tỉnh lộ 6, liên tục đánh diệt nhiều xe bọc thép của Pháp đi tuần tiểu, bao vây
bức rút nhiều đồn bót địch lấn ra vùng căn cứ, vùng giải phóng.
Bước sang năm 1953, tình hình chiến trường chung có nhiều thay đổi lớn. Sau những thất
bại trong các chiến dịch Hịa Bình, Tây Bắc (10-1952), qn Pháp lúng túng bị động, lún sâu vào
thế phòng ngự thụ động. Mặc dù vậy, phái hiếu chiến trong Quốc hội pháp vẫn chủ trương tiếp
tục dựa vào viện trợ của Mỹ, để đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược, triển khai kế hoạch Na va, hy vọng giành thắng lợi quân sự quyết định để kết thúc cuộc chiến tranh trong “danh dự”. Qua
các hoạt động mạnh của du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực suốt mùa khô năm 1952 1953, trên chiến trường Tây Ninh, lực lượng kháng chiến đã giành lại được thể chủ động trên
chiến trường, đã thực hiện được chủ trương kìm chân địch, hỗ trợ cho chiến trường chính.
82


Tại Đơn Thuận nói riêng, tháng 6 năm 1953, địch điều tiểu đồn Hắc y xuống ứng cứu
bót Bùng Binh, lực lượng vũ trang địa phương phục kích tại cua Cây Xám - Xóm Suối, diệt
nhiều tên, bọn sống sót tháo chạy về thị trấn Trảng Bàng. Phát huy thắng lợi, du kích Đôn Thuận
cùng lực lượng vũ trang ở trên đánh địch trong căn cứ, đồng thời tổ chức phục kích giao thơng,
tập kích đồn bót trên các đường số 1, 22, 6A (thị trấn Trảng Bàng - Bùng Binh).
Chiến thắng dồn dập của lực lượng kháng chiến trong những tháng đầu năm 1954 làm
cho binh lính Cao Đài hoang mang, bỏ ngủ hoặc ra hàng ngày càng đông. Nhiều vùng nông
thôn tạm bị chiếm xung quanh căn cứ địa Bời Lời được giải phóng.
2.3. Một số đặc điểm, vai trò cơ bản của căn cứ địa Bời Lời
2.3.1. Một số đặc điểm của căn cứ địa Bời Lời trong kháng chiến chống Pháp
Bời Lời chính là một trong số căn cứ địa của hệ thống căn cứ địa rộng lớn, đan xen và
thơng nối với nhau trên tồn bộ chiến trường miền Đông Nam Bộ, mang một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, căn cứ này có địa hình phức tạp, đa dạng và vị trí ở thế áp sát bao vây thủ phủ
của địch, mang đặc trưng của Căn cứ du kích, có đặc điểm là vùng giải phóng vùa và nhỏ xuất
hiện sau lưng địch, xung quanh là vùng tranh chấp hoặc vùng tạm chiếm. Tại Bời Lời, chính
quyền địch cùng các lực lượng chính trị quân sự của chúng đã bị đè bẹp. Tuy nhiên lực lượng
quân sự vẫn thường xuyên càn quét bắn phá và đóng chốt các đồn bót, cứ điểm ở những vị trí
quan trọng dẫn vào căn cứ. Quản lý mọi sinh hoạt kinh tế, chính trị, xã hội trong căn cứ do

chính quyền cách mạng hoặc tổ chức kháng chiến, đơn vị vũ trang đứng chân tại căn cứ đảm
trách. Tuy nhiên, việc quản lý nói trên chỉ thực hiện có hiệu quả trên một số mặt.
Thứ hai, tuy là căn cứ của tỉnh Tây Ninh, nhưng Bời Lời lại mang tính chất như một căn
cứ “bàn đạp” vùng trung tuyến (vùng đệm) để các lực lượng của ta từ phía sau xuyên xuống áp
sát vùng ven, vùng sâu, và từ đó tiến cơng Sài Gịn, trung tâm đầu não của địch. Ngoài ra, Bời
Lời nằm trên “đường dây nội địa” đi về hướng quốc lộ 4 (nay là quốc lộ 1) để tiếp cận vùng
đồng bằng sông Cửu Long, được coi là vị trí “trung chuyển” của ta từ R xuống miền Tây Nam
Bộ và ngược lại... Đây cũng là nơi ra đời của Tiểu đoàn 14 Tây Ninh anh hùng (Đảng ủy - Bộ
chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh, 2020).
Thứ ba, quá trình hình thành căn cứ địa Bời Lời ra đời sau ngày Nam Bộ kháng chiến, dù
đã có tiền đề trong q trình lịch sử trước đó, và đó là q trình hình thành từ khơng đến có, nối
tiếp theo hướng dịch chuyển từ sát đơ thị lùi dần về vùng rừng núi xa hơn.
Truyền thống chống xâm lược và đấu tranh cách mạng của các thế hệ cư dân ở Trảng
Bảng (Tây Ninh) đã tạo ra tiền đề về xây dựng căn cứ địa trong thời kỳ trước cách mạng tháng
Tám 1945. Lịch sử xác minh rằng, ngay trong 50 năm sau của thế kỷ XIX, Bời Lời đã là một
trong những căn cứ kháng chiến của nghĩa quân Trương Quyền trên vùng đất Tây Ninh… Cuối
năm 1940, sau khi tiến hành khởi nghĩa bị thất bại, 150 chiến sĩ tham gia cuộc khởi nghĩa Nam
Kỳ cùng với 28 khẩu súng trường và 5 cây súng lửa đã kéo lên những khu rừng già thuộc vùng
Trng Mít – Đơn Thuận ở tỉnh Tây Ninh để xây dựng căn cứ đánh Pháp lâu dài (Đảng bộ tỉnh
Tây Ninh – Ban chấp hành Đảng bộ Thị xã Trảng Bàng, 2020).
Trong quá trình kháng chiến, trước sức mạnh áp đảo của địch, cơ quan lãnh đạo kháng
chiến và lực lượng vũ trang của ta buộc phải lui dần về phía sau để bảo toàn lực lượng và củng
cố, phát triển thực lực, tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài. Từ đó, nhu cầu về chỗ đứng chân
83


đặt ra cấp thiết, căn cứ địa vì thế cũng được hình thành. Cùng với mức độ phát triển của cuộc
kháng chiến chống Thực dân Pháp, nhận thức về sự cần thiết của việc xây dựng, bảo vệ căn cứ
địa ngày một sáng tỏ, sâu sắc hơn, các căn cứ địa ở các khu vực xa đô thị cũng dần xuất hiện,
bắt đầu từ các căn cứ địa áp sát Sài Gịn (An Phú Đơng, Rừng Sác…) đến các căn cứ địa xa hơn

(Dương Minh Châu, Xuyên Phước Cơ…). Bời Lời chính là một trong những căn cứ địa được
hình thành trong điều kiện đó.
Thứ tư, căn cứ địa Bời Lời ra đời, tồn tại như một đơn vị hành chính địa phương nằm
trong tổ chức hành chính khu vực, gắn liền với phong trào kháng chiến của nhân dân Tràng
Bàng nói riêng và Tây Ninh nói chung. Tại đây, ngoài cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến
và lực lượng vũ trang, có nhân dân với đầy đủ tổ chức Đảng, chính quyền, ban ngành, mặt trận
đồn thể,… với đầy đủ chức năng điều hành mợi mặt ở địa phương, bên cạnh chức năng tham
gia xây dựng, bảo vệ căn cứ địa và là nơi đứng chân của các cơ quan chỉ huy cũng như các lực
lượng kháng chiến; nơi tổ chức huấn luyện và làm bàn đạp cho các chiến dịch, trận đánh lớn
góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường.
2.3.2. Vai trò của căn cứ địa Bời Lời trong kháng chiến chống Pháp
Thứ nhất, căn cứ địa Bời Lời vừa là hậu cứ của bộ đội chủ lực, vừa là điểm vận động xuất
phát, hành lang chiến lược áp sát Sài Gòn - Cơ quan đầu não của kẻ thù. Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, nơi đây là căn cứ của Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Tây Ninh; của Phân
Liên khu miền Đông, một bộ phận Xứ ủy Nam bộ thời chống Pháp.
Thứ hai, căn cứ địa Bời Lời trở thành khu vực tập hợp lực lượng kháng chiến, là nơi
đứng chân và hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, ủy ban kháng chiến tỉnh Tây Ninh,
tỉnh Gia Định, huyện Trảng Bàng... , là nơi xây dựng và hoạt động, chiến đấu, công tác của lực
lượng vũ trang huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, tỉnh Gia Định, Khu 7 và phân liên khu miền
Đông Nam Bộ.
Thứ ba, căn cứ địa Bời Lời là chỗ dựa, là nơi đứng chân, xây dựng và phát triển lực lượng
vũ trang, nơi các lực lượng vũ trang bày thế trận tiêu diệt địch, đồng thời x́t phát tấn cơng
địch bên ngồi căn cứ địa, hỗ trợ cho phong trào du kích chiến tranh phát triển ở vùng tạm bị
chiếm và góp phần xây dựng tình đoàn kết chiến đấu của quân và dân hai nước vùng giáp biên
giới Việt Nam - Campuchia.
Thứ tư, căn cứ địa Bời Lời tồn tại như một biểu tượng của cuộc kháng chiến, tiêu biểu
cho ý chí, sức mạnh tinh thần của nhân dân Trảng Bàng – Tây Ninh. Có thể nói, căn cứ địa Bời
Lời được xây dựng và hoạt động như một xã hội của chế độ mới thu nhỏ, một biểu tượng của
kháng chiến, nơi hướng về, hy vọng và khích lệ tinh thần kháng chiến của quân và dân Tây
Ninh và các vùng lân cận. Bời Lời là căn cứ địa huyền thoại, một di tích lịch sử có sức truyền

cảm, lan tỏa mạnh mẽ và khả năng giáo dục tư tưởng, đạo đức, nhân sinh quan cách mạng cho
nhiều thế hệ; niềm tự hào không chỉ của nhân dân tỉnh Tây Ninh mà của cả nhân dân TP. Hồ
Chí Minh và lực lượng vũ trang Quân khu 7…
Thứ năm, căn cứ địa Bời Lời với tất cả hoạt động của nó đã giữ một vai trò quan trọng
trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Tây Ninh góp phần
thúc đẩy sự nghiệp kháng chiến của quân và dân địa phương, tiến tới thắng lợi Điện Biên Phủ
(5-1954) và hiệp định Genève về việc đình chiến ở Đơng Dương (7-1954). Đồng thời, hoạt
84


động của căn cứ địa Bời Lời nói riêng, cũng như các căn cứ địa ở miền Đông Nam Bộ nói chung
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra ngay sau đó.
3. KẾT LUẬN
Căn cứ địa Bời Lời là biểu tượng hùng hồn của lịch sử bất khuất, kiên cường của quân và
dân tỉnh Tây Ninh trong thời ký kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954).
Tên tuổi, chiến công, sự hy sinh anh dũng của biết bao người con ưu tú của Tây Ninh đã tô đậm
thêm truyền thống “Trung dũng kiên cường”, trong đó căn cứ địa Bời Lời đã đóng góp một
phần quan trọng. Đất lửa Bời Lời đã nung đúc nên chất thép của người Tây Ninh, và chính
người Tây Ninh đã lập nên những chiến cơng góp phần làm cho căn cứ cách mạng Bời Lời mãi
mãi là niềm tự hào của quân và dân Tây Ninh.
Với đặc điểm và vai trị vơ cùng quan trọng ở trên, Di tích căn cứ Bời Lời đã được cơng
nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định số 02/1999/QĐ-BVHTT, ngày
26/1/1999 của Bộ Văn hóa Thơng tin.
Bời Lời là căn cứ địa huyền thoại, một di tích kháng chiến chứa đựng nhiều sự kiện lịch
sử có sức truyền cảm, lan tỏa mạnh mẽ và khả năng giáo dục tư tưởng, đạo đức, nhân sinh quan
cách mạng cho nhiều thế hệ; niềm tự hào không chỉ của nhân dân tỉnh Tây Ninh mà của cả nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh và lực lượng vũ trang Quân khu 7. Trong tương lai, Khu di tích
lịch sử văn hóa quốc gia Bời Lời sẽ được mọi người biết đến với những sắc thái riêng, gắn với
Khu du lịch địa đạo Bến Dược - Củ Chi, nối thông lên hồ Dầu Tiếng, núi Bà Đen, khu vực Tòa

thánh Cao Đài, lên Khu căn cứ Trung ương Cục miền Nam, thành một dải du lịch về nguồn liên
hoàn. Những năm qua, các thế hệ lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
và tỉnh Tây Ninh đã kề vai sát cánh trong thực hiện bảo tồn di tích, phục hồi hệ sinh thái rừng,
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, thực hiện đền ơn đáp nghĩa đồng
bào trên vùng căn cứ địa Bời Lời. Hiện nay, hoạt động quy hoạch, chia vùng bảo vệ như: khu
di tích gốc, tái hiện các sự kiện lịch sử, khu bảo tồn hệ sinh thái, khu tham quan vui chơi giải
trí… đang xúc tiến đầu tư xây dựng.
Căn cứ địa Bời Lời, với những yếu tố về quá trình hình thành, đặc điểm và với tất cả các
hoạt động của nó, đã giữ một vai trị quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược của quân và dân Tây Ninh, góp phần thúc đẩy sự nghiệp kháng chiến của quân
và dân địa phương tiến tới thắng lợi Điện Biên Phủ và hiệp định đình chiến Genève, để lại nhiều
bài học kinh nghiệm quý báu cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước về sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành huyện Đảng bộ Trảng Bàng (1997). Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và
quân dân huyện Trảng Bàng anh hùng (1945 – 1975) (Sơ thảo). Trảng Bàng: Ban Tuyên giáo Huyện
ủy xuất bản.
2. Ban liên lạc truyền thống LLVT Trảng Bàng (2005). Hồi ký lực lượng võ trang Trảng Bàng 9 năm
chống Pháp. Tây Ninh: Sở Văn hóa Thơng tin Tây Ninh xuất bản.
3. Bộ Tư lệnh quân khu 7 – Tỉnh ủy Tây Ninh (2002). Căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh trong chiến
tranh giải phóng. Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.

85


4. Hồ Sơn Đài (1995). Căn cứ địa kháng chiến chống Thực dân Pháp ở miền Đông Nam Bộ (1945 –
1954) (Luận án phó tiến sĩ khoa học Lịch sử). Viện Khoa học Xã hội. Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Hồ Sơn Đài (chủ biên) (2011). Lịch sử miền Đông Nam bộ và cực Nam Trung bộ kháng chiến (19451975). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
6. Đảng bộ tỉnh Tây Ninh – Ban chấp hành Đảng bộ Thị xã Trảng Bàng (2020). Bời Lời – căn cứ địa
huyền thoại. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp.
7. Đảng ủy - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh (2020). Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Tây

Ninh (1945 – 2012). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
8. Vương Cơng Đức (2014). Trảng Bàng phương chí – Lịch sử, văn hóa vùng đất con người nam Tây
Ninh. Hà Nội: Nhà xuất bản Tri thức.
9. Võ Nguyên Giáp (1970). Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta. Hà Nội: Nhà xuất bản Sự thật.
10. Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ (2003). Lịch sử Đảng bộ miền
Đông Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975). Hà Nội:
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
11. Tây Ninh – Di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh (tập I) (2001). Tây Ninh: Sở Văn hóa Thơng tin
Tây Ninh x́t bản.
12. Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh (2006). Địa chí Tây Ninh. Tây Ninh: Sở Văn hóa Thơng tin Tây
Ninh x́t bản.

86



×