Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đông Nam bộ thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.96 KB, 10 trang )

XU HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ ĐÔNG NAM BỘ
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Lê Vy Hảo1
1. Email:
TÓM TẮT
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình chuyển đổi các bộ phận cấu thành của kinh tế
cho phù hợp hợp hơn với quá trình phát triển và các điều kiện kinh tế - xã hội. Trong hơn ba
thập niên qua, chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước tác động mạnh mẽ đến các
cơ cấu kinh tế vùng Đơng Nam Bộ. Bài viết trình bày q trình cũng như xu hướng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của vùng Đông Nam Bộ. Kết quả cho thấy, nền kinh tế vùng đã có sự chuyển
dịch mạnh mẽ trên cả ba phương diện: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ
cấu lãnh thổ kinh tế, tạo tiền đề cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ khóa: Chuyển dịch, cơ cấu kinh tế, đông Nam Bộ
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI thơng qua chương trình đổi mới kinh
tế tồn diện theo ba hướng chính: một là, chuyển đổi từ chính sách đơn thành phần sở hữu sang
nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu nhằm phát triển sản xuất
và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế; hai là, chuyển từ cơ chế Nhà nước trực tiếp điều khiển
các hoạt động của nền kinh tế bằng kế hoạch pháp lệnh, gắn với cơ chế bao cấp, sang cơ chế
kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh
của từng doanh nghiệp; ba là, chuyển từ kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp sang kinh tế
mở cửa với thế giới bên ngoài. Định hướng này đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế Đơng Nam
Bộ, thúc đẩy q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ đó tạo ra kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế của vùng.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đông Nam Bộ diễn ra trên cả ba phương diện: 1. Chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự tái cấu trúc lại giá trị của3 nhóm ngành nơng - lâm - ngư nghiệp, cơng nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ; 2. Chuyển dịch cơ thành phần kinh tế
là sự phát triển và thay đổi vai trò của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế; 3. Chuyển dịch
cơ cấu lãnh thổ kinh tế là sự hoán chuyển ngành kinh tế xét theo lãnh thổ, trên cơ sở đó hình
thành các vùng kinh tế mới so với trước đây.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã mang lại những hiệu ứng tích cực, đặc biệt là thúc đẩy


kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh. Ngay trong giai đoạn 1990 - 1994, tốc độ tăng trưởng
trung bình GDP của Đơng Nam Bộ đã là 11,%/năm, cao hơn nhiều so với bình quân cả nước
(7,9%/năm) và so với các vùng còn lại (Trần Hoàng Kim, 1995). Trong những năm tiếp theo,
612


tăng trưởng kinh tế của vùng tiếp tục được duy trì ở mức cao. Tốc độ tăng GDP bình quân giai
đoạn 2001 - 2003 đạt 12%, tăng gần 2% so với giai đoạn 1996 - 2000, bằng 1,7 lần so với bình
quân chung của cả nước. Năm 2018, thu nhập bình qn đầu người của Đơng Nam Bộ đứng
đầu trong các vùng kinh tế, đạt 128,4 triệu đồng/năm, gần gấp đơi so với bình qn cả nước là
68,2 triệu đồng/năm. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đơng Nam
Bộ khơng đơn thuần là nhìn lại lịch sử mà còn là cơ hội để đánh giá mối quan hệ giữa chuyển
dịch và tăng trưởng, từ đó có cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế của vùng
trong những giai đoạn về sau.
2. PHƯƠNG PHÁP
Bài viết tiếp cận vấn đề theo hướng lịch sử kinh tế vì vậy phương pháp nghiên cứu chính
là phương pháp lịch sử và logic để làm rõ quá trình và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
Đông Nam Bộ. Phương pháp lịch sử giúp tiếp cận vấn đề theo tiến trình thời gian giúp thể hiện
quá trình chuyển dịch ngày càng rõ nét hơn. Phương pháp logic là cơ sở để rút ra được xu hướng
của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tư liệu được sử dụng trong bài viết bài biết chủ yếu được lấy
từ các thống kê và một số nguồn tư liệu từ các cơng trình nghiên cứu, các website của cơ quan
chính thức của các tỉnh, thành Đơng Nam Bộ.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Trong những năm đầu của thời kỳ Đổi mới, ngoại trừ thành phố Hồ Chí Minh, kinh tế các
tỉnh Đông Nam Bộ chủ yếu vẫn dựa vào sản xuất nơng nghiệp do định hướng phát triển của
chính quyền tỉnh vẫn tập trung vào lĩnh vực kinh tế này. Các ngành kinh tế phi công nghiệp
chiếm tỷ trọng thấp do cơng nghiệp thời điểm này cịn nhỏ lẻ, ngành nghề sản xuất chính là thủ
cơng nghiệp với thị trường tiêu thụ chủ yếu là nội thương.
Trong nửa đầu thập niên 1990, các tỉnh, thành Đông Nam Bộ nỗ lực phát triển kinh tế

theo hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa. Ở mỗi địa phương, tùy vào đặc điểm và định hướng
phát triển kinh tế mà xu hướng và tốc độ chuyển dịch có đơi chút khác nhau. Tuy nhiên, xu
hướng chung là giảm dần tỷ trọng khu vực I (nông - lâm - thủy sản), tăng tỷ trọng các ngành
khu vực II (công nghiệp - xây dựng) và III (thương mại - dịch vụ), cho làm cho cơ cấu kinh tế
chuyển dịch ngày càng rõ nét theo hướng phi nơng nghiệp hóa.
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
theo hướng hiện đại. Cơ cấu kinh tế của thành phố đã chuyển dịch tích cực theo hướng giảm
dần tỷ trọng của khu vực nông nghiệp và công nghiệp, đồng thời tăng dần tỷ trọng khu vực
thương mại - dịch vụ. Trong giai đoạn 2000 - 2014, khu vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy
sản giảm dần từ 1,96% năm 2000, xuống cịn 1,00% năm 2014; khu vực cơng nghiệp - xây
dựng giảm từ 45,41% năm 2000 xuống còn 39,40% năm 2014. Khu vực thương mại - dịch vụ
tăng dần từ 52,63% năm 2000 lên 59,60% (Bảng 1). Sự chuyển dịch này theo đúng định hướng
của Chính phủ và của chính quyền địa phương, tạo tiền đề thành phố Hồ Chí Minh từng bước
trở thành trung tâm thương mại, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo của khu vực.
613


Bảng 1: Cơ cấu GDP trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh chia theo khu vực kinh tế
giai đoạn 2000 - 2014 (tính theo giá thực tế).
Năm

2000
2002
2004
2006
2008
2010
2012
2014


Nơng nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản
Giá trị
Cơ cấu (%)
(tỷ đồng)
1.487
1,96
1.632
1,69
1.923
1,40
2.442
1,28
3.903
1,23
4.9
1,06
7.14
1,08
8.778
1,00

Công nghiệp - xây dựng
Giá trị
Cơ cấu
(%)
(tỷ đồng)
34.446
45.06
67.011
90.324

139.776
199.014
265.369
335.571

45,41
46,74
48,88
47,40
43,97
42,96
40,27
39,40

Dịch vụ
Giá trị
(tỷ đồng)
39.929
49.711
68.153
97.795
174.186
259.381
386.389
508.174

Cơ cấu
(%)
52,63
51,57

49,72
51,32
54,80
55,98
58,65
59,60

Nguồn: Vương Đức Hồng Qn, 2016.
Tại Bình Dương, q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng diễn ra rất mạnh mẽ. Các khu
vực kinh tế phi nông nghiệp từ chỗ chỉ đạt 24% giá trị kinh tế vào năm 1986 (Nguyễn Văn
Hiệp, 2017) thì đến năm 2010, đã đóng góp đến 94,5% trong tổng giá trị sản xuất, trong đó
ngành cơng nghiệp chiếm đến hơn 60% (Cục Thống kê tỉnh Bình Dương, 2011). Giá trị của
kinh tế nơng nghiệp tuy có tăng qua từng năm nhưng vẫn rất thấp so với các ngành kinh tế khác,
nên tỷ trọng giảm sút rất rõ trong cơ cấu kinh tế. Có thể thấy sau hơn hai thập niên phát triển,
Bình Dương đã chuyển đổi một cách nhanh chóng từ nền kinh tế có cơ cấu thuần nông sang
nền kinh tế công nghiệp, đồng thời đẩy mạnh phát triển thương mại - dịch vụ.
Tương tự, cơ cấu kinh tế Đồng Nai và cũng chuyển dịch theo tăng tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ, giảm dần khu vực nông nghiệp. Năm 2011, tỷ trọng khu vực I của tỉnh chỉ còn 7,9%,
khu vực II chiếm 57,1%, dịch vụ và du lịch đạt 35% (Thu Dung, 2011). Năm 2015 tỷ trọng này
tương ứng là: 5,6% - 56,7% - 37,7% (Bạch Mai, 2016). Đối với Bà Rịa - Vũng Tàu, cơ cấu kinh
tế cũng chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp hóa khi khu vực II đóng góp đến 69%, khu vực
III 24% và khu vực I chỉ còn chiếm 7% (Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 2020).
Ngay tại những tỉnh có truyền thống nơng nghiệp như Bình Phước, Tây Ninh cũng có sự
thay đổi cơ cấu theo chiều hướng giảm nông nghiệp và tăng tỷ trọng kinh tế phi nông nghiệp,
đặc biệt là ngành công nghiệp để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Khi mới được tái lập năm
1997, trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bình Phước, nơng - lâm nghiệp chiếm tỷ trọng 70%, thì
đến năm 2019, nơng nghiệp chỉ cịn chiếm 21%, tỷ trọng công nghiệp được nâng lên 37,74%
và thương mại - dịch vụ chiếm 41,26% (Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Phước, 2020) . Ở Tây
Ninh, cơ cấu kinh tế cũng dần có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng các ngành kinh tế phi nông
năm 2020 chiếm đến 76,9%. Trong đó cơng nghiệp đạt 38,7%, là bước tiến lớn so với mức 28%

năm 2015 (Nguyễn Thành Tâm, 2020).
3.2. Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
3.2.1. Khu vực kinh tế nhà nước
Trước đổi mới, các xí nghiệp quốc doanh nắm giữ phần lớn tài sản cố định và vốn lưu động.
Trong nhiều ngành cơng nghiệp, xí nghiệp quốc doanh chiếm từ 70 - 100% sản lượng. Tuy nhiên,
nhiều xí nghiệp quốc doanh gặp khó khăn, yếu kém, làm ăn thua lỗ hoặc khơng có lãi. Vì vậy,
614


đổi mới xí nghiệp quốc doanh (sau gọi là doanh nghiệp nhà nước) là một trong những nội dung
quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế được thực hiện từng bước với các biện pháp thích hợp.
Trong giai đoạn 1987 - 1990, đã từng bước mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà
nước đi đơi với xố bỏ dần chế độ bao cấp của Nhà nước về tài chính, cung ứng và bao cấp giá
vật tư, định giá với hầu hết các sản phẩm do doanh nghiệp nhà nước sản xuất và tiêu thụ. Chế độ
thu quốc doanh cũng bị bãi bỏ, thay bằng chính sách thuế theo Nghị định 388/HĐBT tháng
11/1991. Các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại theo hướng giải thể các doanh nghiệp nhà
nước hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước có liên quan
với nhau về sản xuất và thị trường. Tổ chức lại các công ty và các liên hiệp công nghiệp đã được
thành lập trước đây, để hình thành các tổng cơng ty mới theo mơ hình tổng cơng ty 9058 và 9159.
Trong đó, Nhà nước bổ nhiệm hội đồng quản trị để điều hành và chịu trách nhiệm trước Nhà nước
về kết quả hoạt động của tổng công ty. Việc chuyển sang các hình thức sở hữu khác, cổ phần hố
doanh nghiệp nhà nước bắt đầu được thực hiện thí điểm từ năm 1992. Từ năm 2000, Nhà nước
áp dụng các biện pháp chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang các hình thức sỡ hữu và kinh
doanh khác như: giao, bán, khoán, cho thuê, kể cả sáp nhập và giải thể đối với các doanh nghiệp
nhà nước qui mô nhỏ. Năm 2003, Chính phủ bắt đầu thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp nhà
nước, kể cả các tổng công ty 90 và 91, theo mơ hình tập đồn hay cơng ty mẹ - công ty con.
Ở Đông Nam Bộ, khu vực doanh nghiệp nhà nước có số lượng ít và có xu hướng ngày
càng thu hẹp cùng với việc thực hiện cơ cấu lại, cổ phần hóa, thối vốn nhà nước tại doanh
nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh tập trung nhiều doanh nghiệp nhà nước nhất vùng nhưng đến
năm 2019 chỉ có 46 doanh nghiệp nhà nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 2020 đạt 6,61%/năm (Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh khóa X, 2020); tỷ trọng

đóng góp của doanh nghiệp nhà nước của thành phố Hồ Chí Minh có xu hướng giảm.
Tuy số lượng doanh nghiệp hạn chế, nhưng khu vực kinh tế nhà nước là lực lượng nòng
cốt của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều
tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mơ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước thường
có quy mơ lớn, hoạt động chủ yếu trong những lĩnh vực mà doanh nghiệp tư nhân khơng muốn
làm và khơng làm được, hoặc đóng vai trò dẫn dắt, khai phá những lĩnh vực quan trọng đối với
nền kinh tế, như quốc phòng, an ninh, năng lượng, sân bay, cảng biển, hạ tầng giao thông,…
3.2.2. Khu vực kinh tế hợp tác xã
Kinh tế hợp tác xã được hình thành trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những
người sản xuất nhỏ, cá thể trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ với mục tiêu cùng
nhau sản xuất, hoạt động, cùng nhau hướng đến lợi nhuận, mang lại hiệu quả kinh tế cao và
giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, kinh tế hợp tác xã ngày càng bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Trong
giai đoạn cuối những năm 1980 và đầu 1990, mơ hình kinh tế hợp tác xã rơi vào tình trạng
khủng hoảng; nhiều hợp tác xã vẫn tồn tại nhưng chỉ là trên hình thức.
Tổng cơng ty 90 là tên cho các liên hiệp xí nghiệp và tổng cơng ty nhà nước ở Việt Nam được thành lập căn cứ vào
Điều 5 của Quyết định số 90/Ttg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
59
Tổng cơng ty 91 là tên gọi cho các nhóm doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam được thành lập theo Quyết định
số 91/Ttg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về việc thí điểm thành lập tập đồn kinh doanh.
58

615


Trong thời kỳ Đổi mới, đa phần các cơ sở kinh tế hợp tác chuyển đổi theo các hướng sau:
1. Giải thể các tổ hợp, tập đoàn sản xuất hoặc các hợp tác xã làm ăn yếu kém, thua lỗ kéo dài;
2. Giao khoán hoặc nhượng, bán tư liệu sản xuất lại cho tập thể xã viên để họ trực tiếp quản lý
sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình; 3. Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành
các hình thức hợp tác xã cổ phần hoạt động theo Luật Hợp tác xã mới.

So với một số vùng khác, Đông Nam Bộ không tập trung nhiều hợp tác xã; số lượng lao
động trong hợp tác xã cũng có xu hướng ngày càng giảm. Năm 2019, Đơng Nam Bộ có 1.057
hợp tác xã, chiếm 7,34% cả nước; số lượng lao động trong hợp tác xã là 23.233 người, chiếm
13,04% lao động hợp tác xã cả nước. Tính chung trong giai đoạn 2016 - 2019, số lượng hợp tác
xã của Đông Nam Bộ chỉ chiếm 7,1%, số lao động cũng chỉ chiếm 12,8% cả nước (Tổng Cục
Thống kê Việt Nam, 2021b).
Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn vốn, doanh thu và lợi nhuận của các hợp tác xã của Đông Nam
Bộ lại cao nhất cả nước. Trong giai đoạn 2016 - 2019, nguồn vốn hợp tác xã của Đông Nam Bộ
chiếm đến 19,2% cả nước (tăng 5,1% so với giai đoạn 2011 - 2015); doanh thu thuần chiếm
42,4% cả nước và lợi nhuận trước thuế chiếm 56,6% cả nước (tăng 3% so với giai đoạn 2011 2015). Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là 1 trong 2 địa phương (cùng với Hà Nội) tập trung
phần lớn các nguồn lực về hợp tác xã của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là địa phương
đứng đầu vùng Đông Nam Bộ và cả nước về quy mô doanh thu và lợi nhuận trước thuế của hợp
tác xã trong cả nước (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2021).
Khu vực kinh tế hợp tác xã của Đơng Nam Bộ có quy mơ nhỏ, số lượng ít và chủ yếu
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, kinh tế hợp tác xã vẫn có vị trí và vai trị
quan trọng, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Đã xuất hiện ngày càng nhiều loại hình, mơ hình
kinh tế tập thể, hợp tác xã hoạt động hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc
làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho các thành viên, góp phần xây dựng nông thôn mới,
bảo đảm an sinh, an ninh, trật tự, an tồn xã hội.
3.2.3. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
So với các khu vực kinh tế khác, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ra đời ở nước
ta chưa lâu, gắn với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế. Năm 1987, Nhà nước đã ban hành
Luật Đầu tư nước ngoài, mở ra một thời kỳ mới trong việc thu hút đầu tư nước cũng như sự
chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Luật này quy định các nhà đầu tư nước ngoài được
quyền chuyển về nước các khoản lợi nhuận, tiền cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, cả tiền gốc lẫn lãi
các khoản cho vay đầu tư và tài sản hợp pháp,… Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho các
nhà đầu tư nước ngồi như: đơn giản hóa các thủ tục hành chính; xây dựng các khu cơng nghiệp,
khu chế xuất tập trung, có cơ sở hạ tầng thuận tiện với những điều kiện ưu đãi; mở rộng cá hình
thức và các lĩnh vực cho phép đầu tư nước ngồi,… Những chủ trương, chính sách trên nhằm
thu hút đầu tư của nước ngoài, kết hợp phát huy tốt các nguồn nội lực với các nguồn lực bên

ngoài vào phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ mới.
Với những điều kiện về vị trí địa lý thuận lợi, nhiều tài nguyên quý giá, hệ thống kết cấu hạ
tầng phát triển, đồng bộ, có nguồn nhân lực chất lượng cao đồng thời là trung tâm kinh tế lớn nhất
cả nước cũng như cửa ngõ giao thương quốc tế, các địa phương khu vực Đông Nam Bộ là đầu tàu
của cả nước trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI). Trong đó, thành
616


phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu là những điểm đến hàng đầu của
các nhà đầu tư nước ngồi, vì vậy những nơi này cũng tập trung rất nhiều doanh nghiệp FDI.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có tốc độ tăng trưởng rất ấn tượng tại Đông Nam
Bộ. Trong giai đoạn 1988 - 2010, Đông Nam Bộ là khu vực thu hút dự án đầu tư nước ngoài
nhiều nhất cũng với số vốn cao nhất cả nước, gấp 10 lần khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 2011, Đông Nam Bộ có 5.323 doanh nghiệp FDI, chiếm 59,1% cả nước. Cụ thể, thành phố
Hồ Chí Minh có 2.757 doanh nghiệp FDI, chiếm 30,6% cả nước; tổng vốn sản xuất kinh doanh
là 695,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 29,1% cả nước. Tỉnh Bình Dương có 1.441 doanh nghiệp FDI,
chiếm 16% cả nước; tổng vốn sản xuất kinh doanh là 201,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,4% cả nước.
Tỉnh Đồng Nai có 767 doanh nghiệp FDI, chiếm 8,5% cả nước (Bộ Kế hoạch và đầu tư, 2014),…
Bên cạnh ưu thế về vốn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cịn hơn hẳn doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh về yếu tố kỹ thuật công nghệ, quan hệ kinh tế đối
ngoại và kinh nghiệm quản lý kinh doanh; chiếm giữ tỷ trọng cao trong nhiều ngành công nghiệp
quan trọng như dầu khí, dệt may, da giầy, sản xuất thực phẩm đồ uống, hóa chất, sản xuất cao su
và plastic, sản xuất thép, sản xuất điện tử, lắp ráp ô tô và các phương tiện vận tải khác,…
Khu vực kinh tế nước ngồi đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của vùng:
bổ sung vốn cho đầu tư phát triển địa bàn; thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển; từng bước
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tăng kim ngạch xuất khẩu. Thêm vào đó, đầu tư nước
ngồi đã giải quyết việc làm ổn định cho nhiều lao động cả trực tiếp và gián tiếp, tạo thu nhập
ổn định cho lao động trên địa bàn, góp phần cải thiện cuộc sống của người dân địa phương.
3.2.4. Khu vực kinh tế tư nhân, cá thể
Trước khi Đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân, cá thể vẫn còn tồn tại ở nước ta, nhưng do

chủ trương hạn chế và cải tạo, mà khu vực này gặp nhiều khó khăn và khơng có điều kiện phát
triển. Từ đầu thập 1990, thành phần kinh tế tư nhân, cá thể ngày càng được phát triển mạnh.
Ngày 21/12/1990, Quốc hội đã thông qua Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Hai đạo
luật này ra đời có hiệu lực từ ngày 15/4/1991 đã thực sự thúc đẩy kinh tế khu vực tư nhân phát
triển. Sau đó, Quốc hội tiếp tục ban hành Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực từ năm 2000, qua
đó thúc đẩy khu vực kinh tế cá thể cùng phát triển.
Với sự quan tâm và khuyến khích của Chính phủ, khu vực kinh tế tư nhân tăng trưởng
với tốc độ rất nhanh, đóng vai trị ngày càng đóng vai trị quan trọng và then chốt đối với nền
kinh tế. Năm 2001, Đông Nam Bộ chỉ mới có hơn 10.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký hoạt
động (Nguyễn Hữu Trinh, 2016) thì năm 2014, số lượng doanh nghiệp tư nhân của đông Nam
Bộ đã là 143.876 doanh nghiệp, đến năm 2018 tiếp tục tăng lên 243.813 doanh nghiệp. Trong
giai đoạn 2015 - 2019, trong khi các thành phần kinh tế khác như thành phần kinh tế nhà nước,
kinh tế cá thể có xu hướng giảm thì khu vực kinh tế tư nhân chiếm giữ từ 52 - 54% trong cơ
cấu các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, phân bố của các doanh nghiệp vẫn chưa đồng đều, chủ
yếu tập trung ở thành phố Hơ Chí Minh (chiếm khoảng 77%), thấp nhất là Tây Ninh (khoảng
1,2%). Các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, chiếm
tỷ trọng từ 66 đến 70,6% trong giai đoạn 2016 - 2019 (Nguyễn Văn Điển và nnk., 2021).
Về quy mô, đa số doanh nghiệp tư nhân có quy mơ nhỏ và siêu nhỏ, chiếm khoảng 95%.
Xét về quy mơ lao động, có 63,3% doanh nghiệp dưới 5 lao động; 19,2% có 5 9 lao động; 0,26%
617


có từ lao động và 0,34% có 300 - 500 lao động. Xét về nguồn vốn, có 39,4% doanh nghiệp có
quy mơ vốn dưới 0,5 tỷ; 15% vốn 0,5-1 tỷ; 3,9% vốn 50-200 tỷ và chỉ có 1% có số vốn 500 tỷ trở
lên (Nguyễn Văn Điển và nnk., 2021).
Tổng tài sản của các doanh nghiệp tư nhân cũng có tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản
khu vực doanh nghiệp, dao động từ 48,2 đến 53,5% trong giai đoạn 2014 - 2018. Doanh thu
của các doanh nghiệp tư nhân cũng lớn nhất trong 3 khu vực, dao động từ 50,8% - 56,8%. Tổng
tài sản của các doanh nghiệp tư nhân cũng có tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản khu vực doanh
nghiệp (dao động từ 48,2 đến 53,5%). Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tư

ngày càng được cải thiện. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu trong giai đoạn 2014 - 2018 dao
động từ 2,1 đến 2,6%, trong đó tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của doanh nghiệp ở thành phố
Hồ Chí Minh là cao nhất (Nguyễn Văn Điển và nnk., 2021).
Nhìn chung, khu vực kinh tế tư nhân ở Đông Nam Bộ phát triển khá mạnh cả về vốn, số
lượng, doanh thu và lực lượng lao động. Để tăng sức cạnh tranh với thị trường trong nước, thị
trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp nhỏ đã có xu hướng liên doanh, liên kết mở rộng quy
mô, tăng vốn đầu tư, thu hút thêm lực lượng lao động, xây dựng chiến lược kinh doanh mới
nhằm tồn tại và phát triển.
Bên cạnh kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế cá thể cũng có sự tăng trưởng nhanh. Trong
giai đoạn 2012 - 2017, Đông Nam Bộ có tốc độ tăng cao nhất cả về số lượng cơ sở (20%) và
lao động (15,6%). Nếu như năm 2012, số lượng cơ sở kinh doanh cá thể của vùng mới chỉ có
752 nghìn thì đến năm 2017 đã tăng lên 902 nghìn cơ sở (Tổng Cục Thống kê, 2021a), trong
đó một bộ phận lớn các cơ sở hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ. Các cơ sở kinh
doanh cá thể bao gồm cả những cơ sở có đăng ký kinh doanh và chưa hoặc khơng đăng ký kinh
doanh. Đặc trưng của khu vực này là nhỏ lẻ và tự phát, phân bố trải khắp nhưng khơng đồng
đều, thường có xu hướng hoạt động mạnh ở các khu vực đô thị, dân cư đông đúc. Quy mô của
các cơ sở kinh doanh các thể thường nhỏ, vốn ít và thường có xu hướng tập trung kinh doanh
vào các dịch vụ phục vụ nhu cầu tiều dùng của người dân như các cửa hàng tạp hóa, hàng ăn
sáng, bán đồ ăn vặt, các dịch vụ phục vụ cá nhân như cắt tóc, gội đầu, sửa chữa,...
Khơng chỉ tạo việc làm, tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo trực tiếp cho chính chủ sở
hữu, mà cịn gián tiếp cải thiện cuộc sống cho những người có thu nhập thấp, người nghèo tiếp
cận các hàng hoá, dịch vụ tiện lợi và nhanh hơn với giá cả bình dân. Hơn nữa, khu vực này còn
là nơi tiếp nhận người lao động phổ thông không đủ kỹ năng để làm việc trong khu vực doanh
nghiệp hay khu vực hành chính, sự nghiệp. Ngồi ra, một bộ phận khơng nhỏ cơ sở sản xuất
kinh doanh cá thể đang hoạt động tại các làng nghề đã góp phần rất lớn trong việc gìn giữ, bảo
tồn và phát triển các ngành nghề truyền thống - một phần của văn hoá dân tộc Việt Nam.
3.3. Chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ kinh tế
Cùng với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ kinh tế ở Đơng Nam Bộ cũng
có sự biến đổi sâu sắc. Trước thập niên 1980, cơ cấu lãnh thổ kinh tế của vùng khá đơn giản
với hai khu vực: khu vực kinh tế thương mại - dịch vụ chủ yếu là nội thành phố Hồ Chí Minh

và rãi rác tại các tỉnh bao gồm trung tâm của các thị xã, trị trấn và thị tứ lớn; còn lại đa phần
lãnh thổ còn lại của vùng là khu vực kinh tế nông, lâm nghiệp và khai thác thủy sản đi kèm với
hoạt động của các làng nghề sản xuất thủ công nhỏ.
618


Tuy nhiên từ đầu thập niên 1990 trở đi, cùng với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ
cấu lãnh thổ kinh tế ở Đơng Nam Bộ cũng có sự biến đổi sâu sắc. Trước hết là sự hình thành
của lãnh thổ kinh tế công nghiệp. Tuy là khu vực mới nhưng lãnh thổ kinh tế công nghiệp phát
triển rất nhanh. Tính đến năm 2020, Đơng Nam Bộ có 59,01 nghìn ha đất cơng nghiệp, trong
đó có 119 khu cơng nghiệp với diện tích 44.000 ha và có xu hướng tiếp tục được mở rộng trong
tương lai (Bộ Tài Nguyên và Môi trường, 2021). Do ngay từ đầu, các khu công nghiệp nằm khá
gần nhau nên tạo thành một vùng công nghiệp ở khu vực giáp ranh giữa thành phố Hồ Chí Minh
- Bình Dương - Đồng Nai. Tại đây, tập hợp rất nhiều địa phương mạnh về công nghiệp như
quận Thủ Đức của thành phố Hồ Chí Minh, thị xã (sau là thành phố) Dĩ An, Thuận An của Bình
Dương, thành phố Biên Hịa của Đồng Nai. Về sau, q trình cơng nghiệp hóa được đẩy mạnh
ở các địa phương nằm xa trung tâm hơn, từ đó mà vùng kinh tế này cũng được mở rộng và kết
nối với Bà Rịa - Vũng Tàu tạo thành một vùng công nghiệp rộng lớn hơn, được biết đến với tên
gọi “Tứ giác cơng nghiệp”.
Cơng nghiệp hóa cũng tạo ra động lực cho q trình đơ thị hóa, hiện đại hóa ở Đơng Nam
Bộ diễn ra nhanh chóng, từ đó thúc đẩy khu vực kinh tế thương mại - dịch vụ cũng tăng trưởng
khá tốt. Lãnh thổ kinh tế thương mại - dịch vụ vì thế mà cũng có nhiều thay đổi mà trước hết là
sự gia tăng về không gian hoạt động do sự bành trướng của các đô thị. Ở Đơng Nam Bộ, rất
khó để xác định độ rộng của lãnh thổ kinh tế thương mại - dịch vụ do nằm rất gần, thậm chí có
nơi cịn xen lẫn vào khu vực cơng nghiệp vì hai lĩnh vực này có mối quan hệ tương hỗ với nhau;
việc phân biệt ranh giới giữa hai lãnh thổ kinh tế này là khá khó khăn. Tuy nhiên, có thể hình
dung lãnh thổ chủ yếu và đậm nét nhất của khu vực kinh tế thương mại - dịch vụ kết nối với
nhau tạo thành vành đai bao lấy vùng công nghiệp bao gồm các quận nội thành của thành phố
Hồ Chí Minh và trung tâm của các thành phố Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Vũng Tàu.
Sự phát triển của lãnh thổ kinh tế công nghiệp và thương mại - dịch vụ làm cho vùng nông

nghiệp của Đông Nam Bộ bị thu hẹp đáng kể, chỉ còn phân bố chủ yếu ở Tây Ninh, Bình Phước,
Đồng Nai; các tỉnh, thành cịn lại thì tương đối rãi rác với diện tích 1.759 nghìn ha. Vùng nơng
nghiệp Đơng Nam Bộ thời kỳ này cũng có sự phân hóa thành hai cụm (cluster) chính: Cụm các
khu vực nơng nghiệp của tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương. Đây là các địa phương có lợi
thế trong phát triển cây cơng nghiệp, cây ăn trái có giá trị kinh tế cao, sở hữu các doanh nghiệp
chế biến nông sản quy mô lớn. Chức năng hỗ trợ của các cực tăng trưởng này là hình thành các
cụm sản xuất nơng nghiệp hiện đại, liên hồn mang tính chất cung ứng cho thị trường khi có
những thơng tin “điều phối” từ cực phát triển là thành phố Hồ Chí Minh; Cụm nông nghiệp các
khu vực nông nghiệp của Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai với các cảng biển và chăn nuôi, thủy hải
sản. Chức năng hỗ trợ của các cực tăng trưởng này là hạ tầng giao thông, tăng khả năng đối ứng
và vận chuyển hàng hố nơng sản ra thị trường trong nước, quốc tế (Nguyễn Quốc Dũng, 2021).
Đông Nam Bộ cịn có vùng sản xuất lâm nghiệp và vùng ni trồng hủy hải sản. Diện
tích rừng sản xuất vào khoảng 145 nghìn ha, chiếm 46,5% tổng diện tích rừng năm 2019 (Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2020). Đất rừng sản xuất phân bố tập trung ở các tỉnh
Bình Phước, Đồng Nai,… Ngồi ra, Đơng Nam Bộ có vùng ni trồng thủy hải sản với diện
tích hơn 10 nghìn ha tập trung ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tuy diện tích khá nhỏ, nhưng vùng
này vẫn góp phần tạo ra giá trị và tính đa dạng cho nông nghiệp vùng, tao công ăn việc làm và
thu nhập cho cư dân vùng ven biển.
619


4. KẾT LUẬN
Từ đầu thập niên 1990, việc triển khai cơ chế kinh tế thị trường có định hướng của Nhà
nước cùng với việc thực thi hàng loạt các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế đã làm cho nền
kinh tế Đơng Nam Bộ “chuyển mình” một cách nhanh chóng. So với cả nước, cơ cấu ngành
kinh tế của Đông Nam Bộ chuyển dịch nhanh và mạnh mẽ hơn, trên cả ba phương diện: ngành
kinh tế, thành phần kinh tế và lãnh thổ kinh tế, đã mang lại những hiệu ứng tích cực trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh.
Cơ cấu ngành kinh tế của các tỉnh, thành Đông Nam Bộ diễn ra không đồng nhất về thời
gian, nhanh nhất là ở khu vực xung quanh thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên cơ bản là chuyển

dịch theo hướng thu hẹp khu vực I và đẩy mạnh khu vực II và III, tạo tiền đề cho q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Cùng với chuyển dịch cơ cấu ngành, thành phần kinh tế
của Đông Nam Bộ trở nên đa dạng hơn, trong đó kinh tế có vốn đầu tư nước nước ngoài và
kinh tế tư nhân tuy, vốn khơng có điều kiện phát triển trong giai đoạn trước Đổi mới, nay ngày
càng phát triển và trở thành những động lực kinh tế chính cho vùng. Lãnh thổ kinh tế cũng phân
hóa hơn so với trước đây, vùng kinh tế công nghiệp và thương mại - dịch vụ ngày càng rộng
lớn hơn, cùng với sự thu hẹp đáng kể của vùng kinh tế nông nghiệp.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng vẫn
còn tồn tại một số hạn chế cẩn được khắc phục như chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đồng bộ giữa
các tỉnh, thành trong vùng; một số địa phương còn phát triển theo hướng tính tự phát, thiếu bền
vững đặc biệt là tại những nơi phát triển nhanh về kinh tế; tỷ trọng công nghiệp và thương mại dịch vụ ở nhiều tỉnh chưa cao, chưa theo kịp yêu cầu cạnh tranh trong hội nhập quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh khóa X. 2020. Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Đảng bộ thành phố khóa X tại Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI,
nhiệm kỳ 2020 - 2025. Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bộ Kế hoạch và đầu tư. 2014. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2011. Hà
Nội: Thống kê.
3. Bộ Kế hoạch và đầu tư. 2021. Sách trắng hợp tác xã Việt Nam năm 2021. Hà Nội: Thống kê.
4. Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn. 2020. Báo cáo chiến lược phát triển lâm nghiệp việt nam
giai
đoạn
2021-2030,
tầm
nhìn
đến
năm
2050.
Truy
cập
tại:

/>5. Bộ Tài nguyên và Môi trường. 2021. Dự thảo Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030,
tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 05 năm (2021 - 2025). Hà Nội.
6. Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 2020. Kinh tế - xã hội năm 2020. Truy cập tại:
/>7. Cục Thống kê tỉnh Bình Dương. 2011. Niên giám thống kê tỉnh Bình Dương năm 2010. Bình Dương.
8. Thu Dung. 2011. Năm 2011 tăng trưởng kinh tế Đồng Nai đạt 13,32%. Truy cập tại:
/>9. Nguyễn Quốc Dũng. 2021. Phát triển nông nghiệp, nông dân, nơng thơn đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045 - qua thực tiễn ở vùng Đông Nam bộ (phần 2). Truy cập tại: />
620


cuu---trao-doi/phat-trien-nong-nghiep-nong-dan-nong-thon-den-nam-2030-tam-nhin-den-nam2045---qua-thuc-tien-o-vung-dong-nam-bo-phan-2.html.
10. Nguyễn Văn Điển, Hà Thị Việt Thúy. 2021. Hoạt động của doanh nghiệp tư nhân vùng Đông Nam
Bộ: thực trạng và giải pháp. Tạp chí Khoa học Chính trị, số 3.
11. Nguyễn Văn Hiệp. 2011. Sự chuyển biến kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương 1945 - 2007. Hà Nội:
Chính trị Quốc gia.
12. Trần Hồng Kim. 1995. Tiềm năng kinh tế Đông Nam Bộ. Hà Nội: Thống kê.
13. Bạch Mai. 2016. Kinh tế - xã hội Đồng Nai: Kết quả năm 2015 và triển vọng năm 2016. Truy cập
tại: />14. Vương Đức Hoàng Quân. 2016. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. Hồ Chí Minh tầm nhìn đến năm
2025. Tạp chí Tài chính kỳ 2, số tháng 6.
15. Nguyễn Thành Tâm. 2020. Tây Ninh: Tiếp tục bứt phá phát triển, vươn lên trở thành tỉnh phát triển
khá của cả nước. Truy cập tại: />16. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. 2021a. Các báo cáo phân tích và dự báo thống kê năm 2020. NXB
Thống kê.
17. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. 2021b. Động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam 5 năm
2016 - 2020. Hà Nội: Thống kê.
18. Nguyễn Hữu Trinh. 2016. Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
từ thực tiễn vùng Đông Nam Bộ. Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương, số 482.
19. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Phước. 2020. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước năm 2019.
Truy cập tại: />
621




×