Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Chính sách của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với công giáo (1955–1963)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.19 KB, 10 trang )

CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM CỘNG HỊA
ĐỐI VỚI CÔNG GIÁO (1955 – 1963)
Phạm Thị Vân Anh1
1. Khoa Sư phạm – Trường Đại học Thủ Dầu Một
TÓM TẮT
Trong những chính sách của Mỹ - Diệm nổi bật có chính sách về tôn giáo. Mỹ - Diệm xác
định lực lượng Cơng giáo có thể sử dụng làm hậu thuẫn cho chế độ Việt Nam Cộng hồ, cịn
các tơn giáo khác có quan hệ thân thiết với dân tộc Việt Nam nên sẽ cản trở hoạt động của Mỹ
- Diệm. Do đó, bằng nhiều biện pháp khác nhau, chính quyền Ngơ Đình Diệm thi hành chính
sách dễ dãi, tơn vinh Cơng giáo trên tất cả các lĩnh vực như chính trị, văn hố - giáo dục. Từ
đó, cho thấy mối quan hệ giữa tơn giáo và chính trị và những đặc điểm trong sinh hoạt tôn giáo
của dân tộc ta trong giai đoạn này.
Từ khóa: Chính sách, Cơng giáo, Đệ nhất Cộng hòa
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm nay, với nhiều biến động lịch sử to lớn. Từ
năm 1954 đến năm 1975, đất nước trải qua 21 năm dưới chế độ thực dân mới của Mỹ. Đây là
thời kỳ lịch sử Việt Nam có nhiều biến động về chính trị và có những thay đổi to lớn về xã hội
trên nhiều phương diện. Tháng 7/1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời
bị chia cắt thành hai miền với hai chính quyền riêng biệt: Miền Bắc là chính quyền Việt Nam
Dân chủ Cộng hồ; Miền Nam là chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Tại miền Nam Việt Nam,
chế độ Việt Nam Cộng hoà được chia làm 3 thời kỳ: Đệ nhất Cộng hồ - Chính quyền Ngơ
Đình Diệm (1955 – 1963); Thời kỳ Quân quản (1963 – 1967); Đệ nhị Cộng hoà (1967 – 1975).
Trong các thời kỳ trên, chế độ Việt Nam Cộng hồ thời Ngơ Đình Diệm là giai đoạn lịch sử có
nhiều vấn đề đặt ra nhất.
Chính quyền Ngơ Đình Diệm cùng với hệ thống các chính sách của Mỹ và chính quyền
tay sai đã gây ra những tác động đa chiều đối với kinh tế - xã hội Việt Nam trên khắp cả nước.
Mỹ - Diệm từng bước thực hiện những chính sách của mình, những chính sách đó theo chính
quyền Ngơ Đình Diệm là xuất phát từ lợi ích của nhân dân miền Nam Việt Nam, mang giá trị
nhân văn cao cả. Nhưng thực tế thì khơng phải như vậy, những chính sách đó xuất phát từ mưu
đồ chính trị, từ lợi ích của Mỹ - Diệm, là chính sách thực dân mới của Mỹ, mà chính quyền Ngơ
Đình Diệm là tay sai.


Trong những chính sách của Mỹ - Diệm, nổi trội hơn hết có chính sách đối với tơn giáo.
Khi bàn về chính sách tơn giáo của Mỹ - Diệm thì hầu hết những nhà lịch sử sẽ trả lời ngay: Chính
sách tơn giáo của Mỹ - Diệm là chính sách ưu đãi Cơng giáo, kỳ thị Phật giáo và các tôn giáo
khác. Tuy nhiên, tại sao Mỹ - Diệm lại thực hiện chính sách như vậy? Tại sao lại ưu đãi công
581


giáo, kỳ thị các tơn giáo khác?. Chính sách bất công tôn giáo này đã để lại hệ quả như thế nào đối
với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở miền Nam Việt Nam? Do đó, để làm rõ vấn đề này, chúng
tơi nghiên cứu vấn đề “Chính sách của chế độ Đệ nhất Cộng hòa đối với Cơng giáo (1955 –
1963)” về các mặt chính trị, văn hố – giáo dục. Từ đó, thấy được mối quan hệ giữa tơn giáo và
chính trị và những đặc điểm trong sinh hoạt tôn giáo của dân tộc ta trong giai đoạn này.
1. KHÁI QT TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ GIÁO HỘI THIÊN CHÚA
GIÁO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 – 1963
Sau hiệp định Giơnevơ, Mỹ từng bước thay thế vị trí của Pháp ở miền Nam. Về chính trị,
Mỹ đã ép Pháp trao quyền cai trị ở miền Nam cho Ngơ Đình Diệm – con bài Mỹ đã chuẩn bị
từ trước.
Tháng 3/1956, Mỹ - Diệm tổ chức bầu cử Quốc hội ở miền Nam, lập chế độ
“Việt Nam Cộng hòa” do Diệm làm tổng thống. Sự kiện Mỹ - Diệm lập “quốc gia độc lập” “dân
chủ” ở miền Nam là cột mốc đã đánh dấu Mỹ đã đặt xong thể chế chính trị hồn tồn phụ thuộc
Mỹ ở miền Nam. Để gây dựng và duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới Mỹ tăng cường viện trợ
mọi mặt cho Diệm. Lực lượng trụ cột để bảo vệ “Việt Nam cộng hòa” là quân đội Sài Gòn do
Mỹ huấn luyện, chỉ huy.
Vào cuối tháng 6 năm 1954, trong khi hội nghị Giơnevơ đang tiến hành thì tổng thống
Mỹ Eisenhower đã tỏ ý định tổ chức một cuộc di dân lớn từ miền Bắc vào miền Nam với các
hình thức dụ dỗ, lôi kéo, cưỡng bức và đồng bào công giáo là đối tượng trọng điểm trong cuộc
di dân này. Theo linh mục Trần Tam Tỉnh thì xét về công giáo di cư, người ta cần hiểu rằng
hàng giáo sĩ đã ảnh hưởng lớn cho việc ra đi này. Theo thống kê của linh mục thì trong khi có
40% giáo dân miền Bắc di cư vào Nam thì phải có tới 70% linh mục miền Bắc di cư vào Nam
(Đỗ Quang Hưng, 2003).

Âm mưu cưỡng ép và dụ dỗ đồng bào các tơn giáo nói chung và đồng bào cơng giáo nói
riêng ở miền Bắc di cư vào Nam là một bộ phận trong toàn bộ âm mưu can thiệp vào Việt Nam
của đế quốc Mỹ, nhằm chống lại nhân dân ta, đồng thời cũng là lực lượng quan trọng và đơng
đảo về chính trị, xã hội, về kinh tế cho chính quyền Ngơ Đình Diệm.
Cho tới thời điểm năm 1954, giáo hội miền Nam Việt Nam so với giáo hội miền Bắc còn
hết sức nhỏ bé. Lúc bấy giờ giáo hội miền Nam chỉ có 5 địa phận là Quy Nhơn, Sài Gòn, Huế,
Kom Tum, Vĩnh Long. Số giáo dân chỉ có vài vạn người. Nhưng sau cuộc di cư lịch sử này lực
lượng giáo dân ở miền Nam Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Đó cũng là chỗ dựa vững chắc và
tin cậy cho chính quyền Ngơ Đình Diệm.
Trên cơ sở đó, ngày 26/05/1954, Ngơ Đình Diệm đã lên cầm quyền qua một “trò hề”
trưng cầu ý dân. Trong thời kì của Mỹ - Diệm thì Thiên chúa giáo Việt Nam thực sự có thời cơ
phát triển. Trước kia lực lượng Thiên chúa giáo miền Bắc là chủ yếu nhưng sau cuộc di cư 1954
lực lượng đã tập trung chủ yếu ở miền Nam. Trên cơ sở phát triển về số lượng tín đồ và đặc biệt
để lôi kéo giáo sĩ, giáo dân vào những hoạt động chống phá cách mạng, ngày 24/11/1960, Giáo
hoàng Gioan XXIII đã ra sắc chỉ Venevabilium Nostrorum về việc thiết lập phẩm luật của giáo
hội tại Việt Nam. Sắc chỉ đã quyết định thành lập ở Việt Nam 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế, Sài
Gòn. Như vậy là ở miền Nam, Thiên chúa giáo đã có 2 giáo tỉnh: Giáo tỉnh Huế và Giáo tỉnh
582


Sài Gịn. Nói tóm lại, với những tham vọng và mưu đồ sâu sa của mình, mà lại được bảo trợ
của Vatican cũng như sự ủng hộ của Mỹ. Ngô Đình Diệm đã xây dưng những cơ sở ban đầu
làm hậu thuẫn cho chính quyền của mình.
2. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CƠNG GIÁO CỦA CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM CỘNG
HỊA (1955 – 1963)
2.1. Chính sách chính trị đối với Cơng giáo
Ngay từ khi mới về miền Nam Việt Nam (6/1954), Ngô Đình Diệm đã thực hiện một ý định
mà ơng đã ấp ủ từ lâu đó là thành lập một đảng chính trị gọi là Đảng Cần lao Nhân vị (hay Đảng
Cần lao) để đối đầu với Đảng Cộng sản Việt Nam – Chính Đảng của giai cấp cơng nhân Việt Nam
được thành lập năm 1930. Đảng Cần lao Nhân vị là một đảng chính trị do Ngơ Đình Nhu khởi

xướng và Ngơ Đình Diệm chỉ chấp nhận Đảng Cần lao là đảng duy nhât ở miền Nam Việt Nam.
Về tổ chức, Đảng Cần lao Nhân vị được chia làm 3 vùng hoạt động. Ngơ Đình Nhu lãnh
đạo Đảng Cần Lao ở Sài Gịn và những nơi có giáo dân Cơng giáo di cư miền Cao Ngun.
Ngơ Đình Cẩn lãnh đạo tổ chức Đảng Cần Lao tại miền Trung với hỗn danh “Lãnh chúa miền
Trung”. Sở dĩ có hỗn danh đó vì thực tế Ngơ Đình Cẩn nắm hết quyền hành, nhất là quyền bổ
nhiệm nhân sự ở miền Trung và miền Cao Ngun.
Cịn địa phận Vĩnh Long do Ngơ Đình Thục Lãnh đạo. Chính quyền Ngơ Đình Diệm lấy
Đảng Cần lao làm nòng cốt cho Phong trào Cách mạng Quốc gia. Phong trào Cách mạng Quốc
gia được tổ chức theo cơ cấu của một chính thể quốc gia, bất cứ ai muốn làm tỉnh trưởng, quận
trưởng, xã trưởng, giáo sư hay công chức và các chức quyền cao đều phải là đảng viên Đảng
Cần lao. Hệ tư tưởng của Đảng Cần lao và Phong trào Cách mạng Quốc gia là “thuyết nhân vị”.
Do đó, Ngơ Đình Diệm lấy Chủ nghĩa Nhân vị do Ngơ Đình Nhu khởi xướng làm tư tưởng của
chế độ. Chủ nghĩa nhân vị chủ trương: “Nhân vị ở trên gia đình, ở trên các đồn thể, ở trên
quốc gia và trên cả chủ quyền quốc gia, những việc ấy trước hết phải nhằm vào sự nảy nở nhân
vị chứ khơng đè bẹp nó” (Lê Cung, 2003).
Tổng thống Ngơ Đình Diệm khẳng định “Chủ nghĩa nhân vị là linh hồn của chính thể Cộng
hồ”. Chỉ có một trường đào tạo duy nhất về “thuyết nhân vị” đó là “Trung tâm Huấn luyện nhân
vị Vĩnh Long”, do Ngô Đình Thục sáng lập. Theo đó, là Cơng giáo hay không Công giáo, miễn
là cán bộ công chức, viên chức thuộc chính quyền Ngơ Đình Diệm thì phải học một khố học ít
nhất một tháng ở trung tâm này. Các lớp học đều do các linh mục và tín đồ Công giáo đảm nhiệm,
truyền thụ những khái niệm về Công giáo, giảng về những điều sài lầm của Phật giáo, Khổng
giáo, về tội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà… Do vậy, dưới chính quyền Ngơ Đình Diệm muốn
thăng quan tiến chức trước hết phải nghe, phải học theo các giáo lý của Cơng giáo.
Mặc dù, Ngơ Đình Diệm khơng chính thức tun bố lấy Cơng giáo làm quốc giáo, nhưng
những gì diễn ra cho thấy chính quyền Ngơ Đình Diệm căn bản dựa trên Công giáo cả về hệ tư
tưởng lẫn lực lượng vật chất. Trong khi đề cao Cơng giáo thì các tơn giáo khác, nhất là Phật
giáo lại bị kỳ thị. Chỉ thị số 10 của Tổng thống Diệm, lấy lại đạo dụ của chế độ thuộc địa, quy
định: Tất cả các hiệp hội tôn giáo, văn hố, thể dục, chỉ trừ Cơng giáo, khơng được quyền mua
các bất động sản nếu khơng có phép riêng của Phủ Tổng thống. Bản đạo dụ trên đặt Công giáo
ra ngồi. Trong khi đó, các tơn giáo khác bị hạ xuống hàng các hiệp hội văn hoá thể thao.

583


Coi các tôn giáo khác là hiệp hội, đề cao Cơng giáo với một “Chính quyền Cơng giáo”,
biến Đảng Cần lao thành đảng của Công giáo gọi là “Đảng Cần lao Công giáo’, lấy Công giáo
làm yếu tố ưu tiên và độc nhất cho mọi chính sách, nhất là chính sách nhân sự. Cũng từ đó,
những đảng viên khơng theo Công giáo lần lượt bỏ đảng, nên những người trong đảng hầu hết
là người Công giáo. Không những chỉ trong đảng, mà ngay cả ở cấp tỉnh cho đến cấp thơn xã
thì những chức vụ tỉnh trưởng, thị trưởng, xã trưởng, thơn trưởng đều bị “Cơng giáo hố” bộ
máy chính quyền. Lê cung đã viết: “Cần lao là con đường duy nhất để đưa người Công giáo,
và chỉ người Công giáo mà thơi vào chính quyền” (Lê Cung, 2003).Từ đó, Cơng giáo có quyền
lực tối cao trong chính quyền Đệ nhất Cộng hoà Việt Nam mà linh mục Trần Tam Tỉnh cũng
phải nhận xét rằng: “Từ 1955 đến 1963 là thời vàng son của chủ nghĩa cha chú, với những lợi
ích thật chẳng có bao nhiêu, nhưng với những hà lạm gây nhiều tiếng tăm hơn, nhất là trong
khi dân chúng gồm 90% là ngồi cơng giáo mà bị kìm hãm dưới một thứ “Chính phủ Cơng
giáo” Khắp nơi, chiếc áo chùng thâm là biểu tượng của quyền thế” (Trần Tam Tĩnh,1988).
Tại miền Nam, do có sự hiện diện của nhiều tơn giáo như Cao Đài, Hồ Hảo, Phật giáo…
và đời sống tín ngưỡng của người Việt Nam nên buổi đầu khi Ngơ Đình Diệm mới nắm quyền,
ơng dè dặt trong chủ trương “Cơng giáo hố bộ máy chính trị”. Tuy nhiên, bộ máy cai trị của
chính quyền Ngơ Đình Diệm cũng thể hiện rõ tính chất “Giáo trị”. Chính quyền Ngơ Đình Diệm
chủ trương bổ nhiệm tín đồ Cơng giáo giữ chức tỉnh trưởng, quận trưởng ở một số nơi như Gia
Định, Định Tường, Long Khánh, Phước Long, Phước Thành, Kiến Hồ, Vĩnh Long… Tại Sài
Gịn – Chợ Lớn vì đã có bộ máy chính quyền trung ương nên khơng cần có một Đơ trưởng
Cơng giáo, nhưng Phó Đơ trưởng kiêm thủ lĩnh Thanh niên Công giáo Đô thành (Trung tá
Nguyễn Văn Phước) và hầu hết các quận trưởng là người Công giáo. Đầu năm 1963, hầu hết
các tỉnh trưởng, thị trưởng, xã trưởng, thôn trưởng và các công chức, viên chức đều là người
Cơng giáo. Bộ máy chính quyền ra sức bạo hành, ức hiếp nhân dân, mà nạn nhân chủ yếu là
những người không phải đạo Công giáo. Hoàng Linh Đỗ Mậu trong cuốn hồi ký đã viết: “Vào
những năm đầu của chế độ Diệm, tai họa do Đảng Cần Lao Nhân Vị gây ra cho nhân dân miền
Nam chưa đến độ trắng trợn như từ khi Đảng Cần Lao Nhân Vị biến thành Đảng Cần Lao

Công giáo” (Hồng Linh Đỗ Mậu, 1995).
Như vậy, chính sách của chính quyền Ngơ Đình Diệm về chính trị cho thấy sự ưu đãi, coi
trọng và đề cao Công giáo, tạo điều kiện cho Công giáo giữ hầu hết những chức vụ quan trọng
trong bộ máy chính quyền nhằm chủ trương “Cơng giáo hố bộ máy chính trị” biến Cơng giáo
trở thành “Quốc giáo” ở miền Nam Việt Nam.
Để thực hiện chính sách “Cơng giáo hố” miền Nam Việt Nam, chính quyền Ngơ Đình
Diệm cho rằng phải chèn ép các tơn giáo khác, nhất là Phật giáo, vì các tơn giáo này có thể cạnh
tranh quyền lợi trực tiếp với Cơng giáo và có khả năng đứng về chính quyền Việt Nam Dân chủ
Cộng hồ. Trong thực tế, Phật giáo có tín đồ đơng đảo, chiếm đa số trong nhân dân miền Nam
Việt Nam; các tôn giáo khác như Cao Đài, Hồ Hảo lại từng đối đầu trực tiếp với Ngơ Đình
Diệm khi ơng chưa nắm quyền. Ngồi ra, các tơn giáo này đã từng gắn bó chặt chẽ với dân tộc
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, từng tham gia tích cực vào những cuộc kháng chiến chống
giặc ngoại xâm, phục hưng đất nước. Trong khi đó, Ngơ Đình Diệm lại dựa vào Mỹ để nắm
quyền lực, đi ngược lại với quyền lợi dân tộc nên Ngơ Đình Diệm lấy chính sách “Cơng giáo
hố” miền Nam, tiêu diệt và kìm hãm sự phát triển của các tơn giáo khác làm một trong những
584


biện pháp hàng đầu để giữ vững chính quyền và đối phó với Việt Nam Dân chủ Cộng hồ cũng
là một điều dễ hiểu.
2.2. Chính sách văn hố – giáo dục đối với Cơng giáo
Trong văn hố: Chính quyền Ngơ Đình Diệm giành cho Cơng giáo nhiều đặc quyền, đặc
lợi trong việc trùng tu, xây mới các nhà thờ, tượng chúa… và nâng cấp nhà thờ. Điển hình là
việc trùng tu và xây dựng nhà thờ Đức Mẹ La Vang (Quảng trị). Sau đó, Ngơ Đình Thục đã vận
động nâng nhà thờ Đức Mẹ La Vang lên hàng “Vương cung Thánh đường”. Khi “Vương cung
Thánh đường” bị hư hại trong cơn bão năm 1962, Bộ Quốc phịng chính quyền Ngơ Đình Diệm
đã thành lập “Ủy ban Quân nhân trùng tu Trung tâm Thánh mẫu La Vang”. Ngày 27/4/1963,
chính quyền Ngơ Đình Diệm ban hành nghị định số 256-BNV/NĐ cho phép: “Ủy ban Quân
nhân trùng tu Trung Trung tâm Thánh mẫu La Vang được phép tổ chức dưới sự chịu trách
nhiệm của Trung tướng Trần Văn Minh, Chủ tịch Ủy ban này, một cuộc lạc quyên trong giới

Công giáo quân đội, bảo an, dân vệ lấy tiền trùng tu Trung tâm Thánh mẫu La Vang vì trận
bảo lụt năm 1962) (Lê Cung, 2003). Ngày 16/2/1959, nhân kỷ niệm 300 năm ngày thành lập
Giáo hội Công giáo ở Việt Nam, Đức Hồng y Agagianian – Tổng trưởng Bộ truyền giáo người
Armenia, đại diện Giáo hồng đến dự buổi lễ và tơn vinh nhà thờ Sài Gòn lên hàng “Vương
cung Thánh đường”. Trong những ngày Đức Hồng y Agagianian có mặt tại miền Nam Việt
Nam thì các buổi lễ của Cơng giáo diễn ra vơ cùng náo nhiệt, cờ của Tồn thánh chen lẫn với
cờ Việt Nam Cộng hoà tung bay khắp mọi nơi.
Trong các ngày lễ của Cơng giáo, chính quyền Ngơ Đình Diệm đã tạo điều kiện hết sức
to lớn cho việc hành lễ, nhất là các ngày lễ lớn như lễ Giáng sinh, lễ rước kiệu Đức mẹ La Vang,
lễ Tạ ơn Chúa, các ngày lễ đăng quang Giáo hoàng… Ngày 16/12/1960, Simon Nguyễn Văn
Lập gửi Đổng Lý Văn phòng Phủ Tổng thống về việc tổ chức một lễ Tạ ơn Thiên chúa tại nhà
thờ Đức Bà Sài Gòn ngày 18/12/1960, nhân dịp Tòa Thánh thiết lập Phẩm trật Giáo hội trên
toàn lãnh thổ Việt Nam. Nhận được thư, “Ngày 18/12/1960, Tổng Thống Việt Nam Cộng hoà
đến dự lễ Tạ ơn, Hiến dâng Giáo hội và Tổ quốc Việt Nam cho Trái Tim Vơ Nhiễm Đức Mẹ tại
Nhà Thờ Chính Tòa Sài Gòn” (Phủ tổng thống Đệ nhất VNCH, 1960). Năm 1963, Tồ Khâm
sứ Tồ Thánh tại Sài Gịn tổ chức lễ tạ ơn Chúa tại nhà Thờ Chánh toà Sài Gịn nhân dịp đăng
quang tân Giáo Hồng Paul VI. “Tổng thống Việt Nam Cộng hồ và rất đơng quan khách Việt
Nam và ngoại quốc đã đến dự lễ. Tổng thống sau khi trào Quốc Thiều và duyệt qua các đơn vị
dân chào cùng với Phó Tổng thống và Đại tướng Lê Văn Tụy, tổng tham mưu Trưởng Liên
quân, Tổng thống được Đức cha Salvatore Asta, khâm sứ tòa thánh tiếp đón và hướng dẫn vào
chính điện” (Phủ tổng thống Đệ nhất VNCH, 1963).
Khơng những vậy, chính quyền Ngơ Đình Diệm cịn cho phép các ngày lễ của Cơng giáo
được tổ chức quy mơ, trang hồng trong qn đội. Điều này được phản ánh qua Công văn số
20.688-TTM/P3/I ngày 8/12/1958 của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam Cộng hồ gửi
các đơn vị qn đội của chính quyền Ngơ Đình Diệm tại Sài Gịn: “Thể theo lời u cầu cuả Nha
Tuyên uý Công giáo Quân đội Việt Nam Cộng hoà, Bộ Tổng tham mưu chấp nhận cho Sở Tuyên
uý Công giáo quân khu Thủ đô được tổ chức lễ Giáng sinh năm nay vào đêm 24/12/1958 tại sân
vận động Gia đình Binh sĩ Đại đội Trung hạng sửa chữa Quân cụ 91 theo thời khắc như sau: 21
giờ vui Noel; 24 giờ dự lễ; Để cho cuộc lễ thêm phần long trọng và khả quan, yêu cầu các đơn vị
trưởng và các cơ quan đồn trú trong Quân khu Thủ đô cho phép các quân nhân công giáo và gia

585


đình họ đến dự đơng đủ cuộc lễ nói trên; Ngoài ra tuỳ theo khả năng, các đơn vị sẽ hết sức giúp
đỡ phương tiện chuyên chở và tổ chức lễ khánh tiết tại địa điểm hành lễ; Các quân nhân đi dự lễ
từ Thượng sĩ trở lên mang quân phục kaki dài, cầu vai, cà vạt đen và cát két, từ cấp Trung sĩ trở
xuống mặc quân phục kaki dài; Quân khu Thủ đô cắt cử một số Hiến binh và Quân cảnh để giữ
trật tự an ninh chung quanh địa điểm hành lễ”(Lê Cung, 2003).
Để phô trương Công giáo và làm cho tín đồ Cơng giáo trung thành với chế độ Việt Nam
Cộng hồ, chính quyền Ngơ Đình Diệm đã huy động và kêu gọi hầu hết các viên chức từ cấp
cao đến cấp thấp và gia đình của họ đến dự lễ. Đồng thời, bản thân Tổng thống Diệm và các
quan chức cấp cao trong chính quyền cũng tham gia tích cực các ngày lễ của Cơng giáo. Điều
này được thể hiện qua Công văn số 154/TTP/ĐL ngày 17/12/1958 của Đổng lý Văn phòng Phủ
Tổng thống gửi Thủ trưởng các cơ quan trung ương thuộc chính quyền Ngơ Đình Diệm tại Sài
Gịn, thư viết: “Nhân dịp lễ giáng sinh năm nay, một dạ hội sẽ được tổ chức tại Dinh Độc lập
trong đêm 24 rạng sang 25 tháng 12 năm 1958, theo chương trình đính hậu. Thừa lệnh Tổng
thống, Văn phịng trân trọng mới q ơng cùng nhân viên q Nha Sở và gia đình, các ơng sĩ
quan Nha Tổng Thư ký Thường trực Quốc phòng, Tham mưu Biệt Bộ và Lữ đồn Liên binh
Phịng vệ đến dự dạ hội nói trên. Để tiện việc sắp xếp, xin q ơng vui lịng tin cho Sở Nghi lễ
Phủ Tổng thống biết trễ lắm cũng trước ngày 22/12/1958, danh sách các nhân viên cùng một
số người trong gia đình đến dự buổi lễ”…Nổi bật hơn cả là việc tổ chức hành hương tại nhà thờ
Đức Mẹ La Vang, ba năm một lần. Đây là dịp để chính quyền Ngơ Đình Diệm phơ trương thế
lực của Cơng giáo. Cơng văn số 104/TTP/ĐL ngày 12/8/1958 của Đổng lý Văn phòng Phủ
Tổng thống gửi các Giám đốc và Chánh sự các Nha, Sở, viết: “Đại hội Kính mẹ sẽ cử hành tại
La Vang (Quảng Trị) từ ngày 17/8/1958 đến ngày 22/8/1958. Những nhân viên muốn đi La
Vang dự đại hội nói trên với phương tiện riêng của mình có thể xin phép nghỉ từ ngày 20 đến
cuối ngày 22 tháng 8 năm 1958. Văn phịng trân trọng u cầu q Ơng Giám đốc và Chánh
Sự Vụ thông báo cho nhân viên trực thuộc rõ và lập gởi đến văn phòng trước ngày 17/8/1958
danh sách những nhân viên xin đi dự cuộc lễ” (Lê Cung, 2003). Rõ ràng, việc làm trên cho thấy
chính quyền Ngơ Đình Diệm coi trọng ngày lễ Cơng giáo cịn hơn cả cơng việc ở các cơ quan.

Trong các buổi lễ, thường có một phần tín đồ Cơng giáo làm lễ tun thề trung thành với
chính quyền Ngơ Đình Diệm và Giáo hội. Đây là cách để chính quyền Ngơ Đình Diệm làm cho
tín đồ Cơng giáo trung thành với chế độ của mình. Thánh lễ Tạ ơn Chúa và Đức mẹ được tổ chức
tại Vương cung Thánh đường La Vang năm 1962 cho thấy rõ điều này: “Sáng ngày 8/2/1962,
Đức cha Ngơ Đình Thục, Tổng Giáo mục Giáo khu Huế đến viếng Vương cung Thành đường La
Vang và cử hành Thánh lễ tại đây. Sáng ngày 24/4/1962, Đức cha Ngơ Đình Thục đã cử hành
một Thánh lễ Tạ ơn chúa và Đức mẹ ban sự bình an cho dân tộc Việt Nam tại một kỳ Đại lộ thiên
thiết lập trong khu Vương cung Thánh đường La Vang (Quảng Trị). Nhân dịp này, 2.000 thanh
niên công giáo tham dự trại đã làm lễ tuyên thề nguyện trung thành tuyệt đối với tổ quốc Việt
Nam (Chế độ Việt Nam Cộng hoà) và giáo hội” (Phủ tổng thống Đệ nhất VNCH, 1963).
Nói tóm lại, chính quyền thời Ngơ Đình Diệm, nhất là khi Ngơ Đình Thục nhận chức
Tổng giám mục địa phận Huế thì các ngày lễ của Cơng giáo được tổ chức tưng bừng, hồnh
tráng: “Cờ Cơng giáo treo dọc đường ăn lan đến cầu Trường Tiền. Cổng chào dựng lên khắp
nơi, nhất là phía tả ngạn sơng Hương. Điều này làm cho quần chúng Phật giáo bất bình. Vì từ
xưa những cuộc lễ lớn về Công giáo chỉ tổ chức quy mô bên địa phận Phú Cam mà thôi”….Lễ
586


dâng hiến “Trung tâm Thánh mẫu” và khánh thành “Vương cung Thánh đường” diễn ra từ ngày
17/8 đến ngày 22/8/1961 tại La Vang cũng thể hiện rõ sự trang hoàng. Ngay cả ngày lễ Ngân
khánh của Ngơ Đình Thục, ơng cũng biến thành một quốc lễ. Ngơ Đình Thục cho thành lập
một Ủy ban tổ chức mừng lễ Ngân khánh mà thành phần đều là những quan chức cấp cao của
chính quyền Ngơ Đình Diệm như: “Ơng chủ tịch Quốc hội đứng đầu, gồm cả ông Bộ trưởng
Giáo dục Nguyễn Quang Trình và Viện trưởng Đại học Sài gịn Lê Văn Thới với vài ông Bộ
trưởng nữa” (Lê Cung, 2003).
Trong giáo dục, Ngơ Đình Diệm cho Giáo hội Cơng giáo chi phối các trường (bao gồm
cả những trường không phải Công giáo) về mặt tinh thần, nhằm đảm bảo thực hiện nội dung
giáo dục “duy linh”, “nhân vị”, mà thực chất là dạy những nội dung về thần học theo lối kinh
viện trung cổ. Đồng thời, mở các trường tư thục Công giáo để làm tê liệt các trường Công lập
và trường của các tôn giáo khác. Tháng 7/1958, Ngô Đình Nhu mở hội nghị tồn quốc tại Sài

Gịn bàn về vấn đề giáo dục nhằm xét lại chương trình giáo dục học đường. Sau khi hội nghị
kết thúc một nghị định mới của chính phủ được ban hành, trong đó có vấn đề “Kiểm sốt chặt
chẽ các trường tư thục”, thực chất là làm tê liệt và chi phối các trường ngồi Cơng giáo.
Tồn miền Nam có “Văn phịng Trung ương Giáo dục Công giáo”, nằm trong tổ chức
“Trung tâm Công giáo”. Trực thuộc cơ quan này là Viện Đại học Cơng giáo Đà Lạt. Tồn miền
Nam thời Ngơ Đình Diệm có ba Viện Đại học: Viện Đại học Sài Gòn do linh mục Cao Văn
Chiển làm Viện trưởng; Viện Đại học Huế do linh mục Cao Văn Luận làm Viện trưởng; Viện
Đại học Công giáo Đà Lạt lo linh mục Nguyễn Văn Lập làm Viện trưởng. Hầu hết giáo sư triết
học, giảng viên đều là linh mục và tín đồ Cơng giáo. Những học bổng đi du học phần lớn cũng
thuộc về tay tín đồ Cơng giáo. Đặc biệt, cách tuyển chọn thầy giáo giỏi cũng như đánh giá kết
quả học tập của học sinh đều dựa vào tiêu chí trên cơ sở ý thức hệ Cơng giáo. Theo Nguyễn
Văn Trung – Giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gịn, một tín đồ Cơng giáo viết: “Trong lãnh vực
nhà trường, người ta có thể ghi nhận những vi phạm sau đây như những hành động chống lại
tinh thần dân chủ và tự do tín ngưỡng. Ví dụ, bắt buộc phải theo một tơn giáo và khơng thể nói
khác được hoặc tuyển mộ giáo sư theo tôn giáo, ý thức hệ mà chính quyền muốn nâng đỡ, có
thiện cảm hay theo ý thức hệ của chính quyền. Đối với sinh viên, học sinh thí dụ phải biểu lộ
trong bài vở những ý nghĩ, lập trường với tôn giáo, ý thức hệ chính thực được nâng đỡ hay phải
là người theo tơn giáo, ý thức hệ chính thức mới được nhận vào học” (Lê Cung, 2003).
Đồng thời, trong việc bình chọn các tác phẩm văn chương hằng năm, chính quyền Ngơ
Đình Diệm đánh giá cao những tác phẩm chỉ trích Phật giáo, đề cao Cơng giáo. Điển hình là
năm 1957, hai tác phẩm được giải nhất trong số 13 giải thưởng văn trương tồn quốc là tác
phẩm “Văn chương bình dân” của Thanh Lãng: “Đối với phật cũng như đối với hạng thầy tu,
dân chúng đều coi khinh; theo họ, Phật đi tu vì bất mãn duyên tình, nhà chùa đi tu vì thích ốn
chuối… Người Việt Nam có một quan niệm rất cao siêu về trời mà họ coi như một Thiên Chúa
toàn năng. Người dân quê, qua các tài liệu văn hố, ta thấy ln có tính cách chống đối Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo… Nhưng không bao giờ có ý tưởng chống trời” và “Xây dựng trên
nhân vị” của Bùi Tuân: “Chân lý mặc khải của đạo Công giáo cho ta biết Thiên Chúa đã tạo
dựng con người theo hình ảnh của Ngài (chỉ có Thiên Chúa, Thiên thần là người có vị. Các
lồi khác đều vơ vị)” (Lê Cung, 2003). Rõ ràng, hai tác phẩm trên đã đề cao Công giáo và đánh
giá quá thấp các tôn giá khác, nhưng lại được khen thưởng và đánh giá cao. Qua đó thấy rõ

587


chính sách ưu đãi cơng giáo, kỳ thị các tơn giáo khác của chính quyền Ngơ Đình Diệm. Đồng
thời, giáo dục học sinh đi theo Công giáo, từ bỏ những thứ nằm ngồi Cơng giáo.
Hệ thống các trường tư thục Công giáo từ mẫu giáo, tiểu học đến trung học, đại học được
đầu tư xây dựng nhiều và nhận được sự quan tâm, đầu tư từ chính quyền Ngơ Đình Diệm. Năm
1957, phái đồn gồm có Ngơ Đình Nhu, Bộ trưởng giáo dục Nguyễn Dương Đôn, Viện trưởng
Đại học Sài Gịn Nguyễn Quang Trình và nhiều giáo sư, chun viên khác. Sau đó là một cuộc
họp được tổ chức tại Tồ tỉnh Thừa Thiên có Tỉnh trưởng và nhiều tri thức tham dự. Nội dung
chính của cuộc họp và vấn đề đặt ở Huế một sơ sở giáo dục mới. Như Ngơ Đình Diệm đã nói
thì sẽ đặt ở đây một Viện Đại học lớn, nhưng khi phái đoàn Sài Gịn ra Huế họp thì thống nhất
chỉ đặt ở Huế một chi nhánh của Viện Đại học Sài Gòn.
Năm 1958, Ngơ Đình Thục thành lập trường Đại học Cơng giáo ở Đà Lạt. Để chuẩn bị,
từ đầu năm 1957, Ngô Đình Thục đã dự định mở trường Đại học Cơng giáo tại Đà Lạt và đưa
ý kiến lên Bộ trưởng Quốc gia Giáo Dục. Ngày 14/5/1957, Phủ bản khế ước dài hạn khai thác
lâm sản tại La Ngà (Đồng Nai) được ký kết. Ngày 16/5/1957, Văn phòng Phủ Tổng thống ký
phê chuẩn khế ước dài hạn khai thác lâm sản tại La Ngà giữa bộ canh nông và Hội Việt Nam
Viện trợ Cao đẳng Giáo dục.
Ngoài ra, để trường Đại học Cơng giáo Đà Lạt sớm hồn thành, Ngơ Đình Thục yêu cầu
Bộ trưởng Bộ Kiến thiết và Thiết kế đô thị gửi Công văn số 1392/BKTĐT/KOC đến Tổng
thống Diệm đề nghị ứng trước 5.000.000 đồng để sử dụng vào việc xây trường (Lê Cung, 2003).
Vào thời điểm này 5.000.000 đồng là số tiền rất lớn, giá trị của nó có thể xây được một trường
đại học quy mơ lớn hiện nay. Biết rõ yêu cầu trên là không hợp lý, nhưng để làm vừa lịng Tổng
giám mục, Ngơ Đình Diệm vẫn chi số tiền trên. Những yêu cầu của các linh mục về giáo dục
hầu hết được chính quyền Ngơ Đình Diệm chấp thuận. Với chính sách ưu đãi Công giáo trong
giáo dục, khắp miền Nam, thành phố thị, xã nào cũng có ít nhất hai trường Trung học Cơng
giáo trở lên. Từ trước khi Ngơ Đình Diệm chưa làm Tổng thống, nhiều nơi chưa có trường phổ
thơng cơ sở thì trường tư thục Cơng giáo đã được xây dựng. Khi Ngơ Đình Diệm lên nắm quyền
thì hệ thống trường tư thục Công giáo ở miền Nam Việt Nam phát triển rất nhanh.

Trong “Phong trào phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963” tác giả Lê Cung đã nêu lên
một số con số nổi bật: “Từ năm 1953 đến 1963, Diệm xây dựng 145 trường cấp II và cấp III,
riêng ở Sài Gịn có 30 trường với tổng số 62.324 học sinh. Trong cùng thời gian Giáo hội Thiên
Chúa giáo ở miền Nam Việt Nam, từ chỗ có 3 trường cấp II và III trong năm 1953, đến năm
1963 đã lên tới 1060 trường”.
Các tổ chức Công giáo được thoải mái xuất bản kinh sách, phát thanh suốt ngày đêm và tổ
chức các ngày lễ của Công giáo trong nhà trường. Năm 1961, một Đại hội cầu nguyện cho Giáo
hội Thầm lặng địa phận Vinh đã khai mạc tại Hội trường trung học tư thục Ngơ Đình Khơi, đường
cơng chúa Huyền Trân thị xã Phan Thiết (Bình Thuận). “Khai mạc đại hội, hai linh mục Trương
Cao Khẩn và Lê Trọng Khiêm đã cử hành Thánh lễ tại kỳ Đài lộ thiên thiết lập tại đây để cầu
nguyện cho các ân nhân, các hàng giáo phẩm và các giáo dân thuộc Giáo hội thầm lặng địa phận
Vinh. Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế đã giảng thuyết về đức tin Công
giáo để thắng cộng sản nhân dịp này” (Phủ tổng thống Đệ nhất VNCH, 1963). Hay sáng ngày
25/10/1961, Tu viện và Trung tiểu học tư thục Đắc Lộ thành lập từ năm 1957 quy tụ khoảng 1000
học sinh đã tổ chức lễ bế mạc năm kỷ niệm Đệ Tam Bách Chu niên giáo sĩ Đắc Lộ.
588


Tóm lại, chính quyền Ngơ Đình Diệm rất ưu đãi Cơng giáo trong văn hố – giáo dục. Nhà
thờ, tượng đài, trường học Công giáo mọc lên khắp nơi. Các ngày lễ của Công giáo được tổ
chức quy mô, trang hồng, phơ trương thế lực… Giáo hội Cơng giáo chi phối các trường học.
Các tổ chức công giáo được tự do xuất bản kinh sách, tự do phát thanh…
Trong khi các hoạt động văn hố của Cơng giáo được tự do hoạt động, được chính quyền
đầu tư tổ chức; nhà thờ, tượng đài mọc lên nhanh chóng, ngay cả trong qn đội… Thì ngược
lại, hoạt động văn hố của các tơn giáo khác bị cấm đốn, có hoạt động cũng chỉ được hoạt
động cho có, nhiều tín đồ chủ chốt thì bị chính quyền theo dõi gắt gao, nhiều nhà chùa Phật
giáo, Cao Đài, Hoà Hảo bị san bằng hoặc bị biến thành nhà thờ Công giáo. Sự bất công giữa
Cơng giáo với các tơn giáo khác cịn được thể hiện trong lĩnh vực học đường, tín đồ Cơng giáo
chi phối tất cả trường học từ trường công đến trường tư; Các trường tư thục Cơng giáo mọc lên
nhanh chóng, giáo viên hầu hết là tín đồ Cơng giáo, Cơng giáo tha hồ xuất bản báo chí, kinh

sách, giáo lý Cơng giáo được nói ngày đêm trên đài truyền thanh. Trong khi đó, các tơn giáo
khác bị kìm hãm hoạt động, báo chí, kinh sánh Phật giáo bị kiểm sốt chặt chẽ…
KẾT LUẬN
Dưới thời Mỹ - Diệm, giữa tôn giáo và chính trị có một sự đan xen, hịa nhập, thống nhất
ở mức độ cao trong đời sống chính trị miền Nam. Với chủ trương “Cơng giáo hố” bộ máy
chính trị từ trung ương tới địa phương, lấy chủ thuyết “Nhân vị” làm hệ tư tưởng cho chính
quyền, xây dựng trong hệ thống quân đội “Chế độ Tuyên uý Công giáo”, thành lập các đội quân
Công giáo dưới quyền chỉ huy trực tiếp của các linh mục, hỗ trợ cho tín đồ cơng giáo về kinh
tế - xã hội như cấp lương thực, chăn mền, phương tiện di chuyển, ổn định chỗ ở, cung cấp đất
sản xuất, tự do hoạt động văn hố mà cịn được chính quyền tạo mọi điều kiện thuận lợi để tiến
hành và phô trương thế lực; nhiều nhà thờ, tượng đài, trường học tín đồ Công giáo được xây
dựng và nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của chính quyền. Từ những việc làm trên, cho thấy
chính quyền Ngơ Đình Diệm có chính sách ưu đãi đối với Công giáo rất rõ ràng, tạo mọi điều
kiện cả vật chất lẫn tinh thần cho Giáo hội Công giáo hoạt động và phát triển. Điều không thể
phủ nhận là bất chấp mọi điều kiện lịch sử và tâm lý dân tộc, Mỹ - Diệm đã chủ trương “Cơng
giáo hố” nhân dân ta, biến Cơng giáo trở thành quốc giáo ở miền Nam Việt Nam.
Chính sách ưu đãi Cơng giáo của chế độ Ngơ Đình Diệm đã tiến hành một cách hồn
thiện và có hệ thống, nó được thực thi bằng nhiều biện pháp dể dãi, ưu ái từ khuyến khích dụ
dỗ đến bảo vệ, che giấu cả các tội ác mà một số linh mục đã làm. Chính sách độc tơn Cơng giáo,
kỳ thị phật giáo và các tơn giáo khác được chính quyền Ngơ Đình Diệm xem như là một trong
những “Quốc sách” hữu hiệu hàng đầu để đẩy lùi lực lượng cách mạng, đẩy lùi kháng chiến
của Mặt trận dân tộc giải phóng, giữ vững chế độ gia đình trị và chính quyền Cộng hồ Việt
Nam trong quỹ đạo chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.
Nhưng cũng chính sách ưu đãi Cơng giáo của chế độ Ngơ Đình Diệm đã gây ra biết bao
sự chia rẽ, khổ nhục, uất hận đối với quần chúng nhân dân miền Nam nói chung và các tín đồ
tơn giáo nói riêng. Do đó, dưới chế độ Ngơ Đình Diệm, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với chế độ Mỹ - Diệm thể hiện qua chính sách tơn giáo là rất rõ ràng. Sự chia rẽ, bất bình,
bất mãn trong hàng ngũ cơng chức của bộ máy chính quyền và trong các tầng lớp quần chúng
nhân dân ngày càng sâu sắc. Nổi đau bất cơng trong chính sách tơn giáo do chính quyền Ngơ
589



Đình Diệm gây ra là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bùng nổ của Phong trào
Phật giáo miền Nam và sự sụp đổ của chế độ Ngơ Đình Diệm tháng 11 năm 1963. Chính phong
trào Phật giáo và phong trào cách mạng miền Nam đã góp phần làm sụp đổ chế độ độc tài, độc
tôn tôn giáo của chính quyền Ngơ Đình Diệm.
Từ đây, chúng ta có thể rút ra bài học về mối quan hệ giữa đạo và đời. Giữa đạo và đời
không thể tách rời mà phải luôn đi song hành với nhau. Tôn giáo ln gắn liền với dân tộc, biết
sống hịa đồng, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, trong một cộng đồng dân tộc chung của
Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Cung. (2003). Phong trào phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963. Huế: Nxb Thuận Hóa.
2. Đỗ Quang Hưng. (2003). Tiểu luận nghiên cứu, Công giáo trong mắt tôi. Hà Nội: Tơn giáo.
3. Hồng Linh Đỗ Mậu. (1995). Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi. Hà Nội:
Nxb Công an nhân dân.
4. Phủ tổng thống Đệ nhất VNCH. (1960). Về hoạt động Công giáo tại Việt Nam năm 1960. Hồ sơ số
17372, TTII: Đổng lý Văn phịng Phủ Tổng thống, sở báo chí.
5. Phủ tổng thống Đệ nhất VNCH. (1963). Về hoạt động Công giáo tại các tỉnh năm 1961 - 1963. Hồ
sơ số 19485, TTII.: Tập bản tin của Việt Tấn Xã.
6. Trần Tam Tĩnh. (1988). Thập giá và lưỡi gươm. Nxb Trẻ.

590



×