30 NĂM QUAN HỆ TRUNG QUỐC - HÀN QUỐC (1992-2022)
Nguyễn Thị Mai1
1. Chương trình Quốc tế học. Email:
TĨM TẮT
Ngày 24 tháng 8 năm 1992 Trung Quốc và Hàn Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ
kết thúc một giai đoạn căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước. Kể từ đây hai nước bước vào
một giai đoạn mới với những bước phát triển vượt bậc về các mặt: Về kinh tế, chính trị, ngoại
giao. Về kinh tế, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất, thị trường xuất khẩu lớn nhất, nguồn
nhập khẩu lớn nhất và điểm đến đầu tư lớn nhất của Hàn Quốc, trong khi đó Hàn Quốc là đối
tác thương mại lớn thứ ba của Trung Quốc. Về chính trị-ngoại giao quan hệ giữa hai nước được
đánh dấu bằng những cột mốc quan trọng: năm 1998 hai bên đã tuyên bố thiết lập quan hệ “hợp
tác hướng tới thế kỷ 21”. Năm 2003, hai bên tuyên bố thiết lập quan hệ đối tác toàn diện. Tháng
5 năm 2008, tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak thăm Trung Quốc và hai bên đã nâng quan
hệ hai nước lên tầm “đối tác chiến lược”. Về văn hóa - xã hội, từ khi hai nước bình thường hóa
quan hệ đến nay nhiều hoạt động trao đổi về văn hóa, nghệ thuật của hai quốc gia đã diễn ra, số
lượng khách tham quan du lịch của hai nước cũng tăng lên đáng kể, trao đổi học tập của hai
nước cũng đạt được nhiều thành tựu. Với những kết quả đạt được quan hệ Trung Quốc và Hàn
Quốc khơng chỉ góp phần phát triển kinh tế hai nước mà cịn góp phần ổn định tình hình khu vực
Đơng Bắc Á- khu vực vốn còn nhiều bất ổn ngay cả khi Chiến tranh Lạnh đã kết thúc. Bài viết
này trên cơ sở phân tích những thành tựu đã được trong quan hệ giữa hai nước Trung Quốc Hàn Quốc từ đó đưa ra những nhận xét đánh giá về những thành tựu, hạn chế trong quan hệ giữa
hai quốc gia này cũng như dự báo xu hướng trong quan hệ giữa hai nước trong tương lai.
Từ khóa: Hàn Quốc;; Hợp tác, Ngoại giao; Thương mại; Trung Quốc
ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 1989 bức tường Béc-lin sụp đổ, tiếp sau đó, năm 1991 Liên Xơ tan rã, đánh dấu sự
kết thúc của Chiến tranh Lạnh và sự tồn tại của trật tự thế giới hai cực. Nếu như trong giai đoạn
Chiến tranh Lạnh vấn đề chính trị được các quốc gia quan tâm thì giai đoạn sau Chiến tranh
Lạnh hầu như các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tập trung vào phát triển kinh
tế để xây dựng sức mạnh thực sự của mình. Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc sau
Chiến tranh Lạnh cũng phát triển theo xu hướng này. Trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh khu
vực Đông Bắc Á là khu vực bị chi phối nặng nề bởi sự tranh giành của Mỹ và Liên Xô và điều
này đã làm cho các nước trong khu vực bị chia rẽ sâu sắc: Đó là một nước Triều Tiên bị chia
làm hai miền với miền Bắc là ảnh hưởng của Liên Xơ và theo mơ hình XHCN, trong khi miền
Nam lại ảnh hưởng của Mỹ và theo mơ hình TBCN; Đó là một nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa nghiêng về Liên Xơ và một chính quyền của Tưởng Giới Thạch với sự hậu thuẫn hết mình
của Mĩ. Thế nhưng Chiến tranh Lạnh kết thúc, ý thức về sự tương đồng về địa lý, về một nền
văn hóa Á Đơng, nhu cầu về một mơi trường quốc tế hịa bình, ổn định để phát triển và hơn hết
493
là từ nỗi đau của của sự chia rẽ, Trung Quốc và Hàn Quốc đã xóa bỏ những bất đồng trong q
khứ để bình thường hóa quan hệ vào năm 1992. Ngay sau đó hai nước có có những tiến bộ vượt
bậc trong hợp tác kinh tế, chính trị, ngoại giao và văn hóa.
Trên cơ sở những sự kiện nổi bật của quan hệ Trung Quốc-Hàn Quốc cũng như đặt hai
nước trong bối cảnh của khu vực Đông Bắc Á, bài viết sẽ làm sáng tỏ hơn mối quan hệ này
cũng như đánh giá về những khó khăn, hạn chế và thách thức của quan hệ Trung Quốc- Hàn
Quốc trong thời gian tới.
1. TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Quan hệ Việt Nam –Trung Quốc hay Việt Nam-Hàn Quốc ở Việt Nam đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu từ bài báo, đến những luận văn thạc sĩ, luận án Tiến sĩ. Tuy nhiên cơng trình nghiên
cứu về mối quan hệ song phương Trung Quốc và Hàn Quốc lại tương đối ít cơng trình nghiên cứu.
Đặc biệt năm 2022 là trịn 30 năm bình thường hóa quan hệ Trung Quốc- Hàn Quốc, để góp phần
làm rõ hơn mối quan hệ giữa hai quốc gia này- hai nước thuộc khu vực Đơng Bắc Á, một khu vực
cịn khá nhiều điều bất ổn do những hậu quả của lịch sử để lại, tác giả đã chọn quan hệ Trung QuốcHàn Quốc là đối tượng nghiên cứu. Nguồn tài liệu tác giả sử dụng gồm có ba nguồn tài liệu đó là
tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Trong đó có nguồn tài liệu tiếng Trung như: Văn kiện
Đại hội đảng lần thứ 15 và lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Trung Quốc để tìm hiểu về quan điểm
của Trung Quốc trong vấn đề đối ngoại. Bên cạnh đó là “Tuyên bố chung Trung Quốc- Hàn Quốc
ngày 28 tháng 5 năm 2008 tại Bắc Kinh”; “Thông cáo báo chí Trung Quốc- Hàn quốc” để làm rõ
hơn quan điểm của cả phía Hàn Quốc và Trung Quốc trong mối quan hệ của hai nước. Ngồi ra tác
giả cịn sử dụng các bài phát biểu “Ba Khai sáng của Vương Nghị về phát triển mối quan hệ Trung
Quốc-Hàn Quốc”; “Vương Nghị, Bài phát biểu tại Lễ ra mắt và Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của
Ủy ban phát triển tương lai mối quan hệ Trung Quốc-Hàn Quốc”; “Quan hệ ngoại giao Trung Quốc
và Hàn Quốc hiện trạng và triển vọng”để làm rõ những giải pháp mà cả Trung Quốc và Hàn Quốc
đang nỗ lực để mối quan hệ này đạt được những kết quả tốt đẹp hơn.
Trên cơ sở tiếp cận nguồn tại liệu từ những trang web chính thống của Đảng cộng sản
Trung Quốc cũng như những cơng trình nghiên cứu trong nước và nước ngồi, trên cơ sở cách
tiếp cận của khoa học lịch sử, sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử và logic, bài viết sẽ
khắc họa một cách rõ nét Quan hệ Trung Quốc-Hàn Quốc trong 30 năm để đánh giá về mối
quan hệ này trong 30 năm: những thành tựu, hạn chế và triển vọng trong tương lai.
2. QUAN HỆ TRUNG QUỐC-HÀN QUỐC (1992-2022)
2.1 Quan hệ Trung Quốc- Hàn Quốc trên lĩnh vực chính trị-ngoại giao
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc được đánh giá
là mối quan hệ “hợp tác hữu nghị-láng giềng tốt đẹp” (Yongmei Li, China and south Diplomatic
relation Present status and perspectives />Quan hệ giữa hai nước đã được tăng cường qua những chuyến viếng thăm của các nguyên thủ quốc
gia như: Tháng 10 năm 1998, tổng thống Hàn Quốc Kim Dae-jung thăm Trung Quốc, trong cuộc
gặp thượng đỉnh với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân, hai bên đã quyết định phát triển mối
quan hệ giữa hai nước thành “quan hệ đối tác hướng đến thế kỷ 21”. Tiếp theo sau đó, tháng 7 năm
494
2003 Tổng thống Hàn Quốc Roh Moo-hyun đã có chuyến thăm cấp nhà nước tới Trung Quốc.
Trong chuyến thăm này lãnh đạo hai nước đã tuyên bố thiết lập quan hệ “đối tác toàn diện”. Đến
tháng 5 năm 2008, Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak thăm Trung Quốc, trong cuộc gặp này
hai bên thiết lập mối quan hệ của hai nước từ “đối tác toàn diện” sang “đối tác chiến lược”.
Đặc biệt trong mối quan hệ giữa hai nước các nhà lãnh đạo của Trung Quốc cũng như Hàn
Quốc đã đưa ra quan điểm về những vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Đánh giá về quan hệ hai
nước, tháng 7 năm 2014. Chủ tịch Tập Cận Bình thăm Hàn Quốc, hai nguyên thủ nhất trí cho rằng
kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992, quan hệ song phương giữa Trung Quốc và Hàn
Quốc đã đạt được bước phát triển nhảy vọt trên các lĩnh vực, góp phần nâng cao lợi ích chung giữa
hai nước và hiện thực hóa thịnh vượng chung ở Đơng Bắc Á. Hai bên nhất trí rằng Trung Quốc và
Hàn Quốc, với tư cách là các nước láng giềng và là đối tác thân thiết quan trọng ở Đông Bắc Á, là
đối tác vì sự phát triển chung, vì hịa bình khu vực và thế giới (中韩关, Quan hệ Trung Quốc- Hàn
quốc). Hai bên tái khẳng định lập
trường phản đối việc phát triển vũ khí hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Hai bên nhất trí rằng hiện
thực hóa việc phi hạt nhân hóa bán đảo và duy trì hịa bình, ổn định trên bán đảo là lợi ích chung
của các quốc gia thành viên của Đàm phán 6 bên (Đàm phán 6 bên gồm 6 nước: Trung Quốc, Hàn
Quốc, Triều Tiên, Hoa Kỳ, Nga và Nhật Bản ). Các bên liên quan cần giải quyết các vấn đề lớn nêu
trên thông qua đối thoại và tham vấn. Trung Quốc đánh giá tích cực cam kết của Hàn Quốc trong
việc cải thiện quan hệ Bắc-Nam, đồng thời bày tỏ ủng hộ việc cải thiện quan hệ giữa hai miền BắcNam thơng qua đối thoại, tiến hành hịa giải và hợp tác, tơn trọng thiện chí của Hàn Quốc nhằm đạt
được thống nhất hịa bình trên bán đảo, và ủng hộ sự thống nhất hịa bình cuối cùng của bán đảo.
Phía Trung Quốc cũng nhắc lại rằng trên thế giới chỉ có một Trung Quốc và Đài Loan là một phần
lãnh thổ Trung Quốc bất khả xâm phạm. Phía Hàn Quốc bày tỏ sự hiểu biết và tơn trọng hồn tồn
về điều này, đồng thời sẽ tiếp tục duy trì lập trường rằng Chính phủ Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa
là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho Trung Quốc và một Trung Quốc, đồng thời ủng hộ sự
phát triển hịa bình của quan hệ hai bờ eo biển (Thơng cáo báo chí Trung Quốc- Hàn Quốc (bản
tiếng Trung) />2.2. Hợp tác Trung quốc- Hàn Quốc trên lĩnh vực kinh tế và thương mại
Quan hệ kinh tế Trung Quốc-Hàn Quốc được nối lại vào đầu những năm 1980 cùng với việc
thực hiện các chính sách cải cách và mở cửa của Trung Quốc. Trong giai đoạn đầu trao đổi kinh tế
giữa hai nước còn khiêm tốn, chủ yếu tập trung vào thương mại hàng hóa và thực hiện gián tiếp qua
Hồng Kông. Tuy nhiên, với việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào ngày 24 tháng 8 năm
1992, trao đổi kinh tế song phương giữa Trung Quốc và Hàn Quốc đã tăng lên nhanh chóng. Trong
năm đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao, kim ngạch thương mại giữa Hàn Quốc và Trung Quốc theo
thống kê của Hiệp hội ngoại thương Hàn Quốc đã lên tới USD 6,38 tỷ. Bên cạnh đó, theo số liệu
thống kê đến cuối năm 2009, lượng xuất khẩu của Trung Quốc sang Hàn Quốc là 54,2 tỷ USD, trong
khi lượng xuất khẩu của Hàn Quốc sang Trung Quốc là 86,7 tỷ USD, tổng kim ngạch thương mại đạt
140,9 tỷ USD, tăng gấp 22 lần trong vòng 18 năm. Lượng giao dịch đạt 20,5% tổng lượng giao dịch
tại Hàn Quốc, cao hơn tổng lượng giao dịch 71,2 tỷ USD giữa Hàn Quốc và Nhật Bản và 66,7 tỷ USD
giao dịch giữa Hàn Quốc và Mỹ. Bên cạnh đó, mức xuất siêu của Hàn Quốc đối với Trung Quốc là
32 tỷ USD, cũng là mức giá trị cao nhất (Yongmei Li, Quan hệ ngoại giao Trung Quốc và Hàn Quốc
Hiện trạng và triển vọng (China and South Korea Diplomatic Relations Present Status and
Perspectives) Li, China and south
495
Diplomatic relation Present status and perspectives). Năm 2018 tổng kim ngạch thương mại song
phương giữa Trung Quốc và Hàn Quốc là 313,43 tỷ USD, tăng 11,8% so với năm2017. Trong đó,
xuất khẩu của Trung Quốc là 108,74 tỷ USD, tăng 5,9%; nhập khẩu là 204,64 tỷ USD, tăng 5,3%
(Jang Won Suh, Quan hệ kinh tế Hàn Quốc - Trung Quốc: xu hướng và triển vọng (South KoreaChina economic relations: trends and prospects), />Các mặt hàng xuất khẩu của Hàn Quốc sang Trung Quốc chủ yếu tập trung vào thép và
sản phẩm kim loại, chiếm hơn 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc sang Trung Quốc.
Tiếp theo các sản phẩm thép và kim loại, máy móc, sản phẩm hóa chất, hàng dệt, nhựa, cao su,
da và các sản phẩm điện, điện tử là những mặt hàng xuất khẩu của Hàn Quốc sang Trung Quốc
trong những năm gần đây. Các sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm nhập khẩu chính mà
Hàn Quốc mua từ Trung Quốc, chiếm khoảng 30% tổng nhập khẩu của Hàn Quốc từ Trung
Quốc. Ngoài các sản phẩm nơng nghiệp, Hàn Quốc có xu hướng nhập khẩu các sản phẩm khác
Trung Quốc, bao gồm dệt may, khống sản, sản phẩm hóa chất và sản phẩm điện, điện tử. Trong
số này, các sản phẩm điện, điện tử đứng đầu danh sách về tốc độ tăng trưởng gần đây(Jang Won
Suh, Quan hệ kinh tế Hàn Quốc - Trung Quốc: xu hướng và triển vọng (South Korea-China
economic relations: trends and prospects), />Về dự án đầu tư: Trong năm 1992, có tổng cộng 269 dự án đầu tư mới trị giá 222 triệu đô
la Mỹ đã được Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc phê duyệt, trong khi 211 dự án mới trị giá
280 triệu đô la Mỹ đã được phê duyệt trong 5 tháng đầu năm 1993. Trong số 211 dự án được
phê duyệt của năm 1993 hơn một nửa số các trường hợp đầu tư ra nước ngoài được Ngân hàng
Trung ương Hàn Quốc chấp thuận đều dành cho Trung Quốc. Đây là một sự gia tăng đáng kể
so với con số tương đương là 21 phần trăm vào năm 1991( Jang Won Suh, Quan hệ kinh tế Hàn
Quốc - Trung Quốc: xu hướng và triển vọng (South Korea-China economic relations: trends
and prospects), />Ngoài ra vào tháng 7 năm 2014, Trung Quốc và Hàn Quốc đã công bố thiết lập cơ chế giao
dịch trực tiếp từ Nhân dân tệ sang KRW tại Hàn Quốc và thỏa thuận thanh toán bù trừ Nhân dân tệ
tại Seoul, Hàn Quốc. Vào tháng 11 cùng năm, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thanh tốn bù trừ
được khởi động. Hàn Quốc chính thức gia nhập AIIB vào tháng tháng 3 năm 2015. Vào tháng 6 năm
2016, giao dịch trực tiếp từ Nhân dân tệ sang đồng won của Hàn Quốc đã chính thức được triển khai
tại Trung Quốc. Vào tháng 10 năm 2017, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và Ngân hàng Trung
ương Hàn Quốc đã gia hạn thỏa thuận hoán đổi nội tệ, được gia hạn thêm 3 năm, với quy mô 360 tỷ
nhân dân tệ (Quan hệ Trung Quốc - Hàn quốc (China and Republic of Korea).
/>_663538).
2.3. Quan hệ Trung Quốc-Hàn Quốc trên lĩnh vực văn hoá – xã hội
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Hàn Quốc đều nhất trí rằng lịch sử giao lưu lâu đời giữa hai
nước là tài sản quý giá của quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Hàn Quốc (Tuyên bố chung Trung
Quốc- Hàn Quốc ngày 28 tháng 5 năm 2008 tại Bắc Kinh ( 中 韩 发 表 联 合 声 明 ( 全 文 ),
Do đó kể từ khi bình thường hóa
quan hệ hoạt động giao lưu giữa nhân dân hai nước trở nên sôi động hơn. Vào tháng 11 năm 2013,
cuộc họp đầu tiên của Ủy ban hỗn hợp giao lưu nhân dân Trung Quốc-Hàn Quốc đã được tổ chức tại
Seoul. Vào tháng 12, Đối thoại Chiến lược chung Trung Quốc-Hàn Quốc đầu tiên giữa các Viện
496
Nghiên cứu Chính sách Quốc gia đã được tổ chức tại Seoul. Có 47 đường bay chở khách thường
xuyên giữa các thành phố chính của hai nước với hơn 830 chuyến bay hàng tuần. Trung Quốc là điểm
đến lớn nhất của Hàn Quốc cho các chuyến du lịch nước ngoài. Có 62.000 sinh viên Hàn Quốc ở
Trung Quốc và 65.000 sinh viên Trung Quốc ở Hàn Quốc, khiến hai quốc gia trở thành nguồn cung
cấp sinh viên nước ngoài lớn nhất cho nhau. Trung Quốc đã thành lập 19 Viện Khổng Tử (18 trong
số đó đã được chính thức hoạt động) tại Hàn Quốc và 4 Phòng học Khổng Tử. Các ứng viên Hàn
Quốc tham gia kỳ thi Năng lực tiếng Trung chiếm hơn một nửa tổng số trên thế giới và có nhiều ứng
viên trong Kỳ thi năng lực tiếng Hàn đến từ Trung Quốc hơn bất kỳ quốc gia nào khác (Quan hệ
Trung Quốc- Hàn quốc (China and Republic of Korea) />Các hoạt động trao đổi địa phương sâu rộng giữa hai nước đã được thực hiện. Tính đến
cuối năm 2013, đã có 153 cặp thành phố hữu nghị giữa hai nước.
Đặc biệt trong thời gian gần đây đối mặt với đại dịch COVID-19, Trung Quốc và Hàn Quốc
đã giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn. Bộ trưởng ngoại giao vương Nghị đã nói rằng: “Sự hợp tác
chống đại dịch và các mối quan hệ hữu nghị đã đi đôi với nhau, minh họa sinh động cho tình bạn
láng giềng của "khoảng cách xa khơng thể chia cắt chúng ta, tất cả chúng ta đều sống trong một thế
giới thống nhất" ( Vương Nghị, Bài phát biểu video tại Lễ ra mắt và Hội nghị toàn thể lần thứ nhất
của Ủy ban phát triển tương lai mối quan hệ Trung Quốc-Hàn Quốc (Wang Yi Delivers Video
Speech at the Launch Ceremony and First Plenary Meeting of the Committee for Future
Development of China-ROK Relations). ( />Năm 2021 và năm 2022 sắp tới đánh dấu là “năm Giao lưu Văn hóa Trung Quốc-Hàn Quốc”
và cũng là mốc đánh dấu kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Hàn Quốc.
Để đánh dấu cho sự kiện trọng đại này lãnh đạo và nhân dân hai nước đã cho ra đời “Ủy ban Phát
triển tương lai quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc”. Ủy ban là nơi tập hợp giới tinh hoa từ mọi tầng lớp
xã hội ở hai quốc gia và có một đội hình hùng hậu. Với mục đích của Ủy ban là sẽ trao đổi ý kiến,
đóng góp trí tuệ, xây dựng sự đồng thuận, nghiên cứu sâu hơn về cách củng cố nền tảng quan hệ
Trung Quốc-Hàn Quốc, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm và đề xuất chiến lược, các khuyến
nghị chính sách hướng tới tương lai, ở cấp độ cao, khả thi và hiệu quả nhằm giúp quan hệ hai nước
vượt qua sóng gió để tăng trưởng ổn định và bền vững trong 30 năm tới (Wang Yi Delivers
VideoSpeech at the Launch Ceremony and First Plenary Meeting of the Committee for Future
DevelopmentofChinaROK.Relations) />3. ĐÁNH GIÁ NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG QUAN HỆ TRUNG
QUỐC - HÀN QUỐC
3.1 Thành tựu trong quan hệ Trung Quốc -Hàn Quốc
Nhìn nhận quan hệ Trung Quốc và Hàn Quốc, giữa hai nước đã đạt được những thành tựu
nổi bật:
Thứ nhất, với sự nỗ lực của hai nước đã góp phần tăng cường hịa bình và ổn định trên
Bán đảo Triều Tiên và khu vực Đông Bắc Á.
Thứ hai, hai nước mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại góp phần nâng cao mức sống của
nhân dân hai nước và cùng nhau thúc đẩy hội nhập kinh tế của Đông Á, phục hồi kinh tế thế
giới và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế khu vực và thế giới.
497
Thứ ba, thơng qua giao lưu văn hóa hai chiều mà người dân hai nước có thể trực tiếp cảm nhận,
tình cảm gắn bó giữa cơng dân hai nước được củng cố và xây dựng mối quan hệ tin cậy lẫn nhau.
3.2 Những mặt hạn chế trong quan hệ Trung Quốc-Hàn Quốc
Mặc dù vậy quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc đã đạt được những kết quả tốt đẹp
tuy nhiên có lúc quan hệ giữa hai nước cũng rơi vào tình trạng đóng băng bởi những vấn đề sau:
Trong lĩnh vực chính trị: Hai nước vẫn cịn những bất đồng do lịch sử để lại như tranh chấp
về lịch sử Vương triều Koguryo, trong vấn đề này phía Hàn Quốc đã kịch liệt phản đối Trung
Quốc và gọi đây là một hành động "bóp méo lịch sử" của Bắc Kinh. Bộ Ngoại giao Hàn Quốc có
hẳn một mục riêng trên trang chủ của họ về đề tài này "Chính quyền Hàn Quốc coi vấn đề lịch sử
Goguryeo là vấn đề bản sắc dân tộc với ưu tiên cao nhất", trang web thông báo (Trung Quốc lôi
kéo Hàn Quốc làm đồng minh: Liệu có “đồng sàng, />Hay như năm 2017 khi Hàn Quốc đồng ý cho phép Hoa Kỳ triển khai hệ thống tên lửa
THAAD để đề phòng mối đe dọa hạt nhân của Triều Tiên, Trung Quốc tuyên bố rằng hệ thống
này sẽ đe dọa an ninh quốc gia của Trung Quốc, và mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc
rơi vào tình trạng căng thẳng. Trước tình hình đó, chính quyền Moon Jae-in của Hàn Quốc bắt
đầu cải thiện quan hệ với Trung Quốc, thể hiện quan điểm "ba khơng", đó là khơng bổ sung hệ
thống THAAD, không gia nhập hệ thống chống tên lửa của Mỹ, không phát triển quân đội ba
bên, liên minh giữa Hàn Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản, và xác nhận rằng họ khơng có ý định làm
tổn hại đến lợi ích an ninh của Trung Quốc. Chính động thái mang tính xây dựng này đã góp
phần cải thiện quan hệ của Trung Quốc- Hàn Quốc.
Về kinh tế: Mặc dù Trung Quốc là quốc gia thương mại lớn nhất của Hàn Quốc, nhưng
Hàn Quốc đang cạnh tranh với Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực giống nhau. Ngoài ra ngày càng
nhiều người lo lắng rằng sự phụ thuộc của Hàn Quốc vào thương mại Trung Quốc hiện đang
gia tăng nhanh chóng và họ cho rằng Trung Quốc đe dọa sự an toàn của Hàn Quốc.
Năm
1985
1990
1995
2000
2003
2007
2009
Tỉ lệ phụ thuộc thương mại của Hàn Quốc vào Trung Quốc
1.9
2.8
6.4
9.4
15.3
19.8
20.5
Nguồn: Yongmei Li, China and South Korea Diplomatic Relations Present Status
and Perspectives, />Một kết quả do Cơ quan Điều tra Dư luận Tư nhân vào tháng 3 năm 2006 của Hàn Quốc cho
thấy: trong số hơn 1.000 người trưởng thành Hàn Quốc được hỏi về quốc gia sẽ gây ra mối đe dọa
lớn nhất đối với sự an toàn của Hàn Quốc trong thập kỷ tới, câu trả lời là Trung Quốc chiếm 37,7%,
tiếp theo là Nhật Bản 23,6%, Triều Tiên 20,7% và Mỹ với và 14,8% (Yongmei Li, Quan hệ ngoại
giao Trung Quốc và Hàn Quốc Hiện trạng và triển vọng (China and South Korea Diplomatic
Relations Present Status and Perspectives). />Bên cạnh đó, Hàn Quốc cịn cáo buộc Trung Quốc gây ra các vấn đề môi trường nghiêm
trọng cho Bán đảo Triều Tiên, đặc biệt là ô nhiễm khơng khí do sulfur dioxide gây ra. Mối quan
498
tâm và lo lắng về các vấn đề liên quan đến những người đào tẩu Triều Tiên cũng là một trong
những lý do chính khiến giới tinh hoa chính trị Hàn Quốc tỏ ra thận trọng với Trung Quốc. Bởi
vì Chính phủ Hàn Quốc cho rằng đây là vấn đề nhân quyền, trong khi Trung Quốc chỉ trích
rằng đây là hành vi vi phạm chủ quyền.
Trong khi đó phía Trung Quốc lại đặc biệt quan tâm đến vấn đề Đài Loan. Trung Quốc luôn
đưa ra một quan điểm cứng rắn về vấn đề Đài Loan: “Trung Quốc phản đối sự can thiệp của nước
ngồi và khơng bao giờ cho phép bất kỳ thế lực nào thay đổi địa vị Đài Loan như một phần của Trung
Quốc theo bất kỳ cách nào. Chúng ta phải cố gắng đạt được thống nhất bằng các biện pháp hịa bình,
nhưng chúng ta khơng thể hứa từ bỏ việc sử dụng vũ lực” (Văn kiện đại hội đảng lần thứ 15 của Đảng
Cộng sản Trung Quốc Chính vì
vậy, vấn đề Đài Loan ln là vấn đề nhạy cảm trong quan hệ của Trung Quốc với Hàn Quốc khi Hàn
Quốc là đồng minh thân thiết của Mỹ. Những cuộc tập trập chung của Mỹ và Hàn Quốc rất dễ gây
nên sự căng thẳng trong quan hệ ngoại giao của hai nước.
4. DỰ BÁO XU HƯỚNG QUAN HỆ TRUNG QUỐC-HÀN QUỐC TRONG TƯƠNG LAI
Thế giới đã bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI với những chuyển biến sâu sắc.
Hịa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn khách quan, đồng thời cũng là nguyện vọng của
các dân tộc trên thế giới. Hơn nữa, bước vào thế kỷ XXI q trình tồn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ địi hỏi các nước phải tự điều chỉnh và thay đổi cho phù hợp. Trước hết đó là thay đổi
về tư duy nhận thức, theo đó khơng một quốc gia nào có thể đóng cửa để tự phát triển kinh tế
mà không cần đến nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường, nhiên liệu từ bên
ngoài. Nhận thức này thúc đẩy các nước ngày càng mở cửa rộng hơn về kinh tế, hội nhập sâu
rộng hơn và từ đó đẩy nhanh hơn tình trạng tuỳ thuộc lẫn nhau. Và quan hệ Trung Quốc- Hàn
quốc cũng khơng đúng ngồi dịng chảy đó.
Trung Quốc và Hàn Quốc đều ở Đơng Bắc Á, có lập trường và quan ngại tương tự về
nhiều vấn đề lớn. Trước những chuyển biến sâu sắc và phức tạp của tình hình quốc tế và khu
vực, hai nước sẽ tiếp tục duy trì và tăng cường liên lạc và phối hợp, cùng nhau ứng phó với các
thách thức, bảo vệ lợi ích chiến lược chung và cơ hội phát triển, nâng cao vị thế và vai trị của
mình trên trường quốc tế. Điều này cũng đã được Đảng cộng sản Trung Quốc thể hiện trong
văn kiện Đại hội đảng lần thứ XIX: “Trung Quốc kiên trì xây dựng cộng đồng vì tương lai
chung cho nhân loại. Giấc mơ của người dân Trung Quốc gắn với giấc mơ của nhân dân các
nước, việc thực hiện giấc mơ Trung Quốc không thể tách rời mơi trường hịa bình và trật tự
quốc tế ổn định. Chúng ta phải điều phối các tình hình trong nước và quốc tế, kiên định đi theo
con đường hịa bình, theo đuổi chiến lược cởi mở cùng có lợi và đơi bên cùng có lợi”
(g/2017/10/27/ARTI1509103656574313.shtml?_x_tr_sl=zh
-CN&_x_tr_tl=vi&_x_tr_hl=vi&_x_tr_pto=nui,sc&_x_tr_sch=http).
KẾT LUẬN
Quan hệ Trung Quốc - Hàn Quốc là một trong những quan hệ song phương quan trọng ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ngồi ra quan hệ của hai quốc gia này cũng có vai trị rất
quan trọng trong việc thúc đẩy tiến trình hịa bình hợp tác ở khu vực Đông Bắc Á. Bản thân các
nhà lãnh đạo hai nước cũng có cái nhìn khá tích cực về nhau:
499
Về phía Trung Quốc: Trung Quốc đánh giá cao những nỗ lực tích cực của Chính phủ Hàn
Quốc nhằm phát triển kinh tế, thúc đẩy hịa bình và thịnh vượng trên Bán đảo Triều Tiên và khu vực.
Về phía Hàn Quốc cũng đánh giá cao những thành tựu mà Chính phủ Trung Quốc đã đạt
được trong việc đẩy mạnh cải cách, mở cửa và hiện đại hóa, đồng thời đánh giá cao chính sách
ngoại giao hữu nghị tốt đẹp và hợp tác với các nước láng giềng của Trung Quốc.
Mặc dù vậy, trong quan hệ giữa hai nước nếu xảy ra bất đồng thì những vấn đề của qua
khứ lại nhanh chóng trỗi dậy làm cho tình hình càng trở nên phức tạp. Do đó, để quan hệ Trung
Quốc và Hàn Quốc ngày càng phát triển, điều quan trọng là cả Trung Quốc và Hàn Quốc cần
phải tôn trọng lẫn nhau: tôn trọng con đường phát triển của nhau, tôn trọng lợi ích cốt lõi và
mối quan tâm lớn của nhau, tơn trọng dân tộc, truyền thống văn hóa và tình cảm dân tộc của
nhau. Như lời bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã từng nói: “Yêu thương mọi
người và đối xử tử tế với hàng xóm là rất quan trọng đối với sự tồn vong của một đất nước"
(Wang Yi talks about Three-point Experience in China-ROK Relations)
/>TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ba Khai sáng của Vương Nghị về phát triển mối quan hệ Trung Quốc-Hàn Quốc (原标题:王毅谈中韩
关系发展三点启示) />2. Jang Won Suh, Quan hệ kinh tế Hàn Quốc - Trung Quốc: xu hướng và triển vọng (South Korea-China
economic relations: trends and prospects), />3. Tập Cận Bình, Báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19
4. g/2017/10/27/ARTI1509103656574313.shtml?_x_tr_sl=zhCN&_x_tr_tl=vi&_x_tr_hl=vi&_x_tr_pto=nui,sc&_x_tr_sch=http.
5. Trung Quốc lôi kéo Hàn Quốc làm đồng minh: Liệu có “đồng sàng, />6. Tuyên bố chung Trung Quốc - Hàn Quốc Ngày 28 tháng 5 năm 2008 tại Bắc Kinh (中韩发表联合声明),
/>7. Quan hệ Trung Quốc- Hàn quốc (中韩关) />8. Văn kiện đại hội đảng lần thứ 15 của Đảng Cộng sản Trung Quốc
/>9. Vương Nghị, Bài phát biểu video tại Lễ ra mắt và Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Ủy ban phát triển
tương lai mối quan hệ Trung Quốc-Hàn Quốc (Wang Yi Delivers Video Speech at the Launch Ceremony
and First Plenary Meeting of the Committee for Future Development of China-ROK Relations).
/>769_663542/t1901683.shtml.
10. Vương Nghị nói về Kinh nghiệm ba điểm trong mối quan hệ Trung Quốc-Hàn Quốc (Wang Yi talks about
Three-point
Experience
in
China-ROK
Relations)
/>11. Yongmei Li, Quan hệ ngoại giao Trung Quốc và Hàn Quốc Hiện trạng và triển vọng (China and South
Korea
Diplomatic
Relations
Present
Status
and
Perspectives)
/>
500