Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Ni sư Thích Nữ Huỳnh Liên và những đóng góp cho Hệ phái Phật giáo Khất Sĩ ở Nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.18 KB, 7 trang )

NI SƯ THÍCH NỮ HUỲNH LIÊN VÀ NHỮNG ĐĨNG GĨP
CHO HỆ PHÁI PHẬT GIÁO KHẤT SĨ Ở NAM BỘ
Nguyễn Văn Tiến1
1. Khoa Đào tạo Kiến thức chung. Email:
TÓM TẮT
Hệ phái Phật giáo Khất Sĩ ra đời trong khoảng thập niên 50 của thế kỉ XX, trong đó hệ phái
khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng là một trong chín hệ phái Phật giáo đã gia nhập, hòa
hợp vào giáo hội Phật giáo Việt Nam. Bài viết sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương
pháp logic, phân tích và tổng hợp trình bày thân thế và những đóng góp của Ni sư Thích nữ Huỳnh
Liên đối với sự phát triển hệ phái Phật giáo Khất sĩ ở Nam bộ giai đoạn 1954-1975.
Từ khóa: Ni sư Thích nữ Huỳnh Liên, Phật giáo Khất sĩ, Nam bộ.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hệ phái Phật giáo Khất sĩ ở Nam bộ ra đời trong khoảng thập niên 50 của thế kỷ XX,
trong đó Hệ phái Khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng là một trong chín Hệ phái Phật
giáo đã gia nhập, hòa hợp vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại Đại hội Phật giáo năm 1981,
chùa Quán Sứ, Thủ đô Hà Nội. Cho đến nay thì các Hệ phái Khất sĩ đã rất phát triển ở Nam bộ,
một số tỉnh ở miền Trung và cũng truyền bá sang nước ngồi (Thích Hạnh Thành,2007).
Khi nói đến hệ phái Khất sĩ ở Việt Nam, hầu hết những người con Phật đều cung kính
trước Tổ sư Minh Đăng Quang - là tổ sư khai sáng ra hệ phái với lý tưởng nối truyền Thích ca
Chánh pháp – Đạo Phật khất sĩ ở Việt Nam (Thích Minh Cang, 2017). Trải qua những biến cố
thăng trầm của lịch sử, hệ phái khất sĩ cũng có nhiều đóng góp thiết thực cho đạo pháp và dân
tộc, được giáo hội Phật giáo cơng nhận là một hệ phái chính thống. Đặc biệt, từ sau khi Đức Tổ
Sư viên tịch (1954), việc hoằng truyền hạnh nguyện của Ngài vẫn liên tục được phát huy, đó là
nhờ cơng lao to lớn của chư vị giáo phẩm các thế hệ học trò của Đức Tổ Sư, đặc biệt chư vị
giáo phẩm trưởng thượng thế hệ đầu tiên được chính Đức Tổ Sư tiếp độ, khai đạo, giáo huấn,
mà ở phía Ni giới được rất nhiều người tơn kính đó là Ni sư trưởng thích nữ Huỳnh Liên (1923
- 1987), vị giáo phẩm Ni đã được Tổ Sư ủy thác lãnh đạo, hướng dẫn giáo đoàn Ni.
Ni Trưởng chủ trương đem đạo vào đời, nhập trần bất nhiễm, tùy duyên bất biến, bất biến
tùy duyên. Trước cảnh tổn thất của đồng bào, trong đó có tín đồ Phật Giáo chịu nhiều áp bức
bất công trong xã hội, tinh thần sa sút, tấm lòng Bồ Tát đau nỗi đau chung của dân tộc, không
thể bàng quan tọa thị, an trú Thiền môn, nên Ni Trưởng đã lãnh đạo hàng Ni Giới Khất Sĩ tích


cực vận động Chư Ni và tín đồ Phật tử tham gia vào các phong trào xuống đường, đấu tranh
đòi quyền sống, đấu tranh cho hịa bình, độc lập dân tộc và trường tồn đạo pháp.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic, phân tích và tổng
266


hợp trình bày thân thế và những đóng góp của Ni sư Thích nữ Huỳnh Liên đối với sự phát triển
hệ phái Phật giáo Khất sĩ ở Nam bộ và những đóng góp của bà đối với sự nghiệp giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước giai đoạn 1954 – 1975.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Ni sư Thích nữ Huỳnh Liên
Ni Trưởng Huỳnh Liên, thế danh Nguyễn Thị Trừ, sanh ngày 19/3/1923 tại làng Phú Mỹ,
Thành Phố Mỹ Tho, tỉnh Định Tường nay là tỉnh Tiền Giang. Là Trưởng nữ sinh ra trong một
gia đình nho học, sống bằng nơng nghiệp, ngày ngày tiếp cận với đồng quê, tâm tính thảnh thơi,
điềm đạm, hịa nhã, đặc biệt là người có một tấm lịng từ bi bao la, ln trân trọng, yêu thương
mọi loài. Do ảnh hưởng này, nên đức tánh của Ni trưởng rất bình dị, hiền hịa và bác ái.
Thuở thiếu thời Ni Trưởng được gia đình ni ăn học đến hết chương trình Trung Học tại
quê hương, sau vì khơng đủ phương tiện, đành phải dở dang đường học vấn. Nhờ thông minh,
hiếu học, biết tiếp cận với tư tưởng mới, hằng suy tư, tìm tịi, học hỏi theo hạnh nguyện các bậc
hiền tài, đức hạnh, đồng thời cũng nhờ sự trợ duyên, về Văn hóa, Pháp văn, Văn chương, Thi
phú của người Cậu, ngoài ra, Ni trưởng cịn được bà ngoại tận tình chỉ dạy. Trưởng thành trong
điều kiện xã hội khó khăn, đất nước đang bị thực dân xâm chiếm, nên mặc dù đã là một Phật tử
tu tại gia theo truyền thống của một gia đình Phật Giáo từ năm 20 tuổi (1943) tại Phật Đường
Minh Sư, nhưng khi phong trào cách mạng bùng nổ vào năm 1945, Ni Trưởng tham gia giành
chính quyền cùng với chị em phụ nữ địa phương.
Năm 1960, khi chính quyền Ngơ Đình Diệm thực hiện chính sách kỳ thị và đàn áp Phật
giáo, mà cao điểm là năm 1963, với tư cách là người đứng đầu Ni giới Khất sĩ, Ni trưởng đã liên
lạc lãnh đạo toàn Ni giới trực tiếp tham gia các phong trào đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng và các
quyền dân sinh, dân chủ của Phật giáo, đặc biệt sự kiện đánh dấu cho bước phát triển toàn diện

các hoạt động yêu nước của mình, đó là việc Ni trưởng tham gia thành lập và giữ vai trò cố vấn
cho phong trào phụ nữ đòi quyền sống, được ra mắt tại chùa Ấn Quang ngày 2/8/1971 và trụ sở
của phong trào đặt tại Tịnh xá Ngọc Phương. Các năm tiếp sau, Ni trưởng tiếp tục tham gia thành
lập Mặt trận Nhân dân tranh thủ dân chủ hịa bình do cụ Đặng Văn Ký làm chủ tịch.
Từ năm 1971 đến năm 1975, Ni trưởng đã đứng ra lãnh đạo nhiều phong trào, tổ chức,
nhiều cuộc biểu tình như cuộc biểu tình khác bảo trợ các phong trào đấu tranh, đòi quyền sống,
phản đối Ngụy quyền phong tỏa Tịnh xá Ngọc Phương, yêu cầu thả tù chánh trị, các nhân sĩ
yêu nước, sinh viên học sinh, trí thức yêu dân tộc và đất nước (Thích Nữ Tịnh Nghiêm – Thích
Nữ Tuyết Liên, 2019).
Xuất thân trong một gia đình Phật giáo, trưởng thành trong hồn cảnh đất nước chiến tranh,
tư tưởng cách mạng đã thấm nhuần trong tâm trí của Ni trưởng, dù tuổi đời cịn trẻ nhưng khi phong
trào cách mạng bùng nổ, Ni trưởng đã cùng với chị em phụ nữ ở địa phương tham gia giành chính
quyền, tích cực tham gia các phong trào đấu tranh địi hịa bình, tự do cho dân tộc, thống nhất đất
nước đó là động lực để thơi thúc thanh niên nam nữ hăng hái góp cơng phụng sự đất nước.
Xuất gia khi tuổi đời còn rất trẻ nhưng năng lượng trí tuệ dạt dào, văn thơ lưu lốt, ý đạo
thâm sâu huyền diệu. Sau khi Tổ sư Minh Đăng Quang viên tịch, Ni trưởng đã khéo lèo lái Giáo
đoàn Ni giới và Giáo Hội Tăng Già Khất sĩ truyền thừa Phật pháp rộng sâu trong quần chúng
267


nhân dân. Với cương vị lãnh đạo Ni giới Hệ phái Khất sĩ, Người luôn luôn nhận thức được sứ
mạng cùng trọng trách của mình trước sự nghiệp phát triển và hoằng dương chánh pháp. Từ các
tỉnh miền Tây, miền Trung rồi đến miền Nam, mỗi miền có một cuộc sống dị biệt, việc hành
đạo lúc đầu tương đối khó, lại thêm khí hậu khắc nghiệt, tập quán khác nhau, đặc biệt là hạnh
khất thực rất lạ lẫm đối với người dân, từ đó họ rất xem thường Ni giới. Nhưng trải qua thời
gian, bằng sự tu hành sống đời đạo hạnh thanh bần, tịnh mặc, kết hợp với sự hoằng truyền
đường hướng chân chính, đúng với lối sống của Phật Tăng xưa nên dần dần được chấp nhận.
Là người có lịng từ bi, cho nên, bước chân Người đi đến đâu là Đạo tràng Tịnh xá mọc lên
đến đó. Ni trưởng hiện diện khắp các tỉnh thành, quận huyện, khắp Nam Trung và cao nguyên,
duyên hải, hội chúng xuất gia Ni giới càng lúc càng đông, lên đến cả ngàn; thiện nam tín nữ tu tập.

Khơng những thế Ni trưởng cịn cứu vớt các em cơ nhi, đưa về ni nấng, để các em có
vịng tay ấm áp bảo bọc khi khơng cịn cha mẹ, Ni trưởng vốn có tài văn thơ, nên thường dạy
Ni chúng học và sáng tác thơ văn. Trong sự nghiệp văn chương, Ni trưởng đã lưu lại cho đời
những tác phẩm thi ca đậm đà bản sắc quê hương dân tộc và đạo pháp. Ni trưởng đã chủ trương
một di sản văn thơ thuần Việt, dân tộc hóa kinh điển Phật giáo, diễn dịch thành văn vần, với
nhiều thể loại khác nhau, để cho người tu tập dễ hiểu, dễ tụng, dễ nhớ và khơng sai chánh pháp.
Ðó chính là cách Ni trưởng đem đạo vào đời bằng chính trái tim, tâm hồn của người con Phật.
3.2 Đóng góp của Ni sư Thích nữ Huỳnh Liên đối với hệ phái Phật giáo Khất sĩ ở Nam Bộ
3.2.1. Thành lập các tịnh xá hệ phái Khất sĩ Nam Bộ
Ni giới Hệ phái Khất sĩ do Ni trưởng Huỳnh Liên, Trưởng tử Ni của Đức Tổ sư Minh
Đăng Quang, trực tiếp lãnh đạo hướng dẫn Ni chúng tu tập và hành đạo. Buổi đầu xuất gia theo
Đức Tổ Sư tu học, với chí nguyện phụng sự, được Đức Tổ Sư chứng nhận và giao trách nhiệm
tiếp chúng độ Ni.
3.2.1.1. Tịnh xá Ngọc Bình – phường Chánh Nghĩa, Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
Cách chợ Thủ Dầu Một khoảng 2km, Tịnh Xá Ngọc Bình, tọa lạc trên một gò đất cao,
rộng 8600 m2, nay là số 145/18 đường Bùi Quốc Khánh, thuộc khu 9, phường Chánh Nghĩa,
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Kiến trúc Tịnh Xá mang một nét đặt trưng với mơ
hình Chánh điện bát giác, một nét rất riêng của Hệ phái Khất sĩ.
Năm 1949, Tổ sư Minh Đăng Quang mở buổi thuyết pháp đầu tiên tại chùa Thuận Thiên
phường Phú Cường. Sau buổi thuyết pháp, quí Phật tử đã cung thỉnh Tôn sư ở lại để hướng dẫn
Phật tử tu tập. Đi với Tôn sư Minh Đăng Quang lúc bấy giờ có hai sư cơ Huỳnh Liên và Bạch
Liên, ngài Minh Đăng Quang thuận theo lời thỉnh cầu của Phật tử và cử hai Sư cô ở lại để hường
dẫn tu tập cho một số Phật tử có yêu cầu. Vào năm 1951 hai Sư cô phải mượn tạm chùa Vạn
Phước phường Chánh Nghĩa cất cốc để có cơ sở truyển bá giáo lý của Tôn sư. Đến năm 1952,
được sự phát tâm hỷ cúng một khu đất ở Hố Nứa của gia đình bà Nguyễn Thị The, đồng thời
được sự thuận ý, giúp đỡ của Hòa thượng Thiện Hương chùa Hội Khánh (bấy giờ) (Thích Huệ
Thơng, 2015). Ban đầu Tịnh Xá dựng lên rất đơn sơ, người dân địa phương đã gọi một cái tên
rất dân dã, gần gũi và thân thương: “Chùa Úp Nồi”. Theo sự giải thích của các vị tiền trụ trì
cũng như phật tử địa phương sống cùng thời sáng lập nên Tịnh Xá, do chánh điện Tịnh xá trong
lúc xây dựng một phần khá đơn sơ, rồi trong quá trình xây rơi vào mùa mưa, khi trời đổ mưa

vật che chắn cho chóp Tịnh xá tạm lấy nồi úp lên. Không ngờ rằng, tên gọi thân thương chùa
Úp Nồi đã được quen gọi từ đó.
268


Do đó có thể nói Tịnh xá Ngọc Bình là tịnh xá đầu tiên của hệ phái Khất sĩ ở Bình Dương,
đưọc Tơn su Minh Đăng Quang giao cho Ni sư Huỳnh Liên đứng ra xây dựng tại Bình
Dương.Tơng phái Tăng già Khất sĩ Việt Nam có mặt tại Thủ Dầu Một Bình Dương từ năm
1949, nhưng mãi đến năm 1951, hai Sư cô Huỳnh Liên và Bạch Liên mới dựng am cốc tại chùa
An Phước, phường Chánh Nghĩa. Đến năm 1952, Tông phái Tăng già Khất sĩ Việt Nam Thủ
Dẩu Một, Bình Dương mói chính thức xây tịnh xá Ngoc Bình. Sau khi xây dựng được tịnh xá,
ngài Minh Đăng Quang thường xun đến thuyết pháp do đó tín đổ càng đông và tịnh xá cũng
được xây dựng khang trang.
Nói về sự kế thừa trụ trì Tịnh xá cũng mang một nét rất riêng biệt, để không chấp trước
vào trú xứ hiện, hằng năm sau mùa lễ tự tứ chư Tăng ni khất sĩ sẽ bốc thăm, hễ bốc trúng thăm
theo địa phương nào thì luân chuyển đến nơi đó hành đạo. Vì thế, theo sự ln phiên sau cố nhị
vị Ni trưởng Huỳnh Liên, Bạch Liên tiếp theo là quý Ni Trưởng Diệu Liên, Khương Liên, Ngân
Liên, Hậu Liên, Nhuận Liên, Đỗ Liên… cho đến năm 1975, khi đất nước hồn tồn giải phóng,
để tiện cho việc sinh hoạt tịa địa phương thì các vị Tăng Ni Khất Sĩ sẽ trụ lại ln trú xứ mình
đang sinh hoạt, và Ni Trưởng Tập Liên đã ở lại Tịnh Xá Ngọc Bình từ năm 1975 cho đến nay
Tịnh xá Ngọc Bình là tịnh xá có lịch sử đầu tiên được xây dựng ở Bình Dương thuộc hệ
phái Tăng già Khất Sĩ Việt Nam và cũng là ngôi tịnh xá được tổ sư Minh Đăng Quang xây dựng
và đặt tên. Chính vì vậy khi nhắc đến tịnh xá Ngọc Bình chúng ta không thể không hồi tưởng
lại ký ức một thời, khơng chỉ là Tổ sư Minh Đăng Quang mà cịn phải nói đến những người đệ
tử nổi tiếng của Người, trong đó có ni trưởng Huỳnh Liên – một ni sư đã kết hợp giữa đạo pháp
và vận mệnh của dân tộc qua chống lại sự áp bức độc tài của chính quyền Ngơ Đình Diệm đối
với Phật giáo và nhân dân miền Nam.
Ngồi ra, tịnh xá Ngọc Bình cịn là ngôi tịnh xá tiêu biểu cho sự xuất hiện của tổ chức hệ
phái khất sĩ ở đất Bình Dương nói riêng, miền Nam nói chung, từ đây lần lược nhiều ngơi tịnh
xá khác cũng được hình thành. Ngồi ra cịn có Giáo hội Ni giới Khất Sĩ do Ni Trưởng Thích

Nữ Huỳnh Liên đứng ra thành lập. Giáo hội Ni Giới Khất sĩ Việt Nam, đặt trụ sở tại tịnh xá
Ngọc Phương, quận Gị Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2.1.2. Tịnh Xá Ngọc Phương - ngôi tịnh xá gắn liền với tên tuổi Ni sư Huỳnh Liên, người
đứng đầu hệ phái Ni giới Khất sĩ Việt Nam
Sau khi Tổ sư viên tịch (1954), trên cương vị là Trưởng tử Ni, Ni trưởng đã lèo lái Ni giới
Khất sĩ dần ổn định, đồn kết, góp phần giữ vững đường lối tu tập mà Tổ sư đã xây dựng. Năm
1958, Ni trưởng xây dựng Tịnh xá Ngọc Phương làm trung tâm hoạt động của Ni giới Khất sĩ.
Tịnh xá còn là địa chỉ nổi tiếng, một trong những ngọn cờ đầu của phong trào đấu tranh của nhân
dân Sài Gòn trước năm 1975 dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ni trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên.
Ngày 11/01/1958, Ni giới hệ phái khất sĩ được chính thức có tư cách pháp lý, pháp nhân
qua nghị định số 7-BNV-NA-P5, được cho phép thành lập Giáo Hội do Tham lý Nội - An Vũ
Tiến Huân ký, với danh xưng Giáo Hội Khất Sĩ Ni Giới Việt Nam (thường gọi là Giáo Hội Liên
Hoa Khất Sĩ), trụ sở đặt tại Tịnh xá Ngọc Phương, nay là Tổ đình Ngọc Phương, phường 1,
quận Gị Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1960 đến 1975, với tâm từ bi và trí dũng, Ni trưởng Huỳnh Liên đã lãnh đạo trực
tiếp Ni giới Khất Sĩ và nhất là Ni chúng Tịnh xá Ngọc Phương tích cực tham gia vào các phong
269


trào Phật giáo, ủng hộ phong trào sinh viên học sinh, ni dạy trẻ mồ cơi, đấu tranh cho hịa
bình độc lập dân tộc và trường tồn đạo pháp.
Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng (30/4/1975), dưới sự lãnh đạo của Đệ nhất cố
Ni trưởng và tiếp theo đó là các cố Ni trưởng Đệ nhị, Đệ tam, đương kim Ni trưởng Tràng Liên
cùng Ni trưởng trụ trì Ngoạt Liên, quý Ni trưởng, Ni sư trong hàng Giáo phẩm Ni giới Hệ phái,
và chư Ni Tịnh xá Ngọc Phương đã vận động kết hợp với các tịnh xá và đồng bào Phật tử, tích
cực tham gia đóng góp vào các công tác từ thiện xã hội như: viếng thăm và ủy lạo người nghèo,
bệnh tật, nhà dưỡng lão, trẻ mồ côi, ủng hộ tài vật cho đồng bào bị lũ lụt thiên tai, đồng bào dân
tộc vùng sâu, vùng xa,..
Với sự đóng góp của Ni trưởng Huỳnh Liên nói riêng và của Ni chúng, Tịnh xá Ngọc
Phương không những là trung tâm tu học của Ni chúng Khất sĩ trong thành phố Hồ Chí Minh

mà cịn là nơi đào tạo Ni tài Khất sĩ cho cả nước vì vậy Tịnh xá Ngọc Phương đã được Bộ Văn
hóa - Thơng tin cơng nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 2754 – QĐ/BT,
ngày 15/10/1994.
3.2.2. Ni sư Huỳnh Liên trong phong trào cách mạng của hệ phái Phật giáo Khất sĩ (1955
– 1975)
Ni trưởng Huỳnh Liên là người nữ tu sĩ Phật giáo có tấm lịng yêu nước cùng với sự kiên
cường, mạnh mẽ, quyết liệt, dám trực tiếp đối đầu với chính quyền Sài Gịn thơng qua nhiều
lần tổ chức biểu tình, tuyệt thực, tham gia các phong trào đấu tranh của nhiều tầng lớp nhân dân
mà không hề nao núng, sợ hãi cường quyền, bạo lực.
Từ năm 1960, ni sư đã lãnh đạo hàng Ni giới Khất sĩ, tín đồ Phật tử tham gia các cuộc
biểu tình đấu tranh địi quyền sống, đấu tranh cho hịa bình, độc lập và cho sự trường tồn của
Đạo pháp. Năm 1963, để chống lại sự kỳ thị và đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngơ Đình
Diệm, Ni trưởng đã trực tiếp vận động Ni chúng, Phật tử xuống đường biểu tình địi bình đẳng
cho Phật giáo, sau đó là các hoạt động ủng hộ phong trào đấu tranh của học sinh – sinh viên Sài
Gòn – Gia Định cũng như các tầng lớp yêu nước ở thành phố.
Ni trưởng còn tham gia thành lập và giữ vai trò cố vấn cho phong trào phụ nữ đòi quyền
sống ra mắt tại Chùa Ấn Quang vào ngày 02/8/1970, trụ sở phong trào đặt tại Tịnh xá Ngọc
Phương. Những năm tiếp theo, Ni trưởng tiếp tục tham gia Mặt trận Nhân dân tranh thủ dân
chủ hịa bình. Từ đó về sau, Ni trưởng liên tục tổ chức thành công “Xuống tóc vì hịa bình”
(18/10/1970), mít-tinh chống Mỹ và ngụy quyền (25/10/1970), mít-tinh ra tun ngơn mười
điểm về Hịa bình của Mặt trận Nhân dân tranh thủ dân chủ hòa bình(7/11/1970), triển khai
thành lập chi nhánh phong trào Phụ nữ đòi quyền sống tại Cần Thơ, Trà Vinh (22/11/1970), tổ
chức biểu tình địi thả tù nhân chính trị (01/01/1971), đấu tranh buộc Chính quyền Nguyễn Văn
Thiệu trả Luật sư Ngơ Bá Thành (06/9/1971), phối hợp với sinh viên, học sinh Sài Gịn, Gia
Định chống “Qn sự hóa học đường” (18/9/1971),… và nhiều hoạt động sôi nổi, mang ý nghĩa
khác như địi thả tù nhân chính trị, tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền dân sinh dân chủ,…
Tinh thần dũng cảm cùng sự linh hoạt và nhạy bén của Ni trưởng đã làm cho chính quyền lúng
túng, phải thực hiện một số yêu sách chính đáng của Phật giáo và nhân dân.
Ni trưởng cịn ni giấu chiến sĩ, ủng hộ vật chất cho cơ sở bí mật của cách mạng trong
nội thành. Do vậy giai đoạn những năm 1973 – 1975, Ni trưởng Huỳnh Liên bị bao vây, cô lập,

hăm dọa, một số Ni chúng lung lạc do tuyên truyền, riêng Tịnh xá Ngọc Phương liên tục giám
270


sát bởi cảnh sát và bị kẽm gai phong tỏa từ tháng 8/1970 đến trưa ngày 29/4/1975, thời gian
này, ni sư đã dựng một “lò thiêu dã chiến” tại tịnh xá, để khi cảnh sát tấn cơng, đàn áp thì các
chư ni sẽ tự thiêu tập thể để chống đối.
Với tinh thần nhập thế, người luôn quan tâm đến sự khổ của mn người, chính vì vây
trong giai đoạn chiến tranh Ni trưởng đã chủ trương lập cô nhi viện cũng như Ký nhi viện ở các
miền Tịnh xá để nuôi dạy những trẻ em nghèo cơ nhỡ, trẻ em là nạn nhân của chiến tranh. Đạo
hạnh của Ni trưởng được tạc khắc vào trang sử vàng của Giáo hội. Công hạnh của Ni trưởng đã
được xã hội ghi nhận trên trang sử Việt Nam, nên tại phường 10, quận Tân Bình, TP. Hồ chí
Minh đã có con đường mang tên “Ni sư Huỳnh Liên”.
3.2.3. Đóng góp thơ, văn và phát triển triết lý của Phật giáo Khất sĩ ở Nam Bộ
Là một người vốn thông minh, một thiên tài về văn chương thi phú, chính vì vậy đạo
nghiệp Pháp bảo thơ văn của Ni trưởng cũng vô cùng đa dạng. Ni sư Huỳnh Liên cũng biên
soạn một số kinh như Kinh Di giáo, Từ Bi kinh, Kinh Vô ngã tướng, Kinh Pháp cú… Những
bài kinh này được tập hợp lại thành quyển Tinh Hoa bí yếu (Kinh chọn lọc). Ngoài ra ni sư
cũng biên soạn Kinh Tam Bảo và Kinh Xưng tụng Tam Bảo. Người đã biên soạn, phiên dịch
và diễn thơ các Kinh tạng chữ Hán và Pāli ra chữ Quốc ngữ để Ni chúng và Phật tử dễ học, dễ
lãnh hội ý nghĩa súc tích, dễ nhớ, dễ đọc tụng và phổ biến.
Người làm thơ không chỉ đơn thuần yêu thơ, mà làm thơ để gởi gấm những hoài bảo, gọi
hồn dân tộc, làm thơ đấu tranh cho hịa bình, cho quyền bình đẳng nhân sinh, đặc biệt là bình
đẳng nam nữ. Người ln thể hiện hạnh từ bi, lịng nhân hậu, tình đồn kết thương u vạn loại,
không từ bỏ một ai.
Thuở sanh thời, Người thường nhắc lấy sự tu chứng làm chính, chứ khơng phải tu suông.
Hãy quán niệm bốn ơn và lập công bồi đức sống có đạo hạnh và trí tuệ để hoằng dương chánh
pháp và giáo hóa chúng sanh. Người mở lớp dạy Thiền cho Ni chúng, dạy cho chư Ni Giáo lý
tại tịnh xá Ngọc Phương và Cần Thơ, đích thân dạy thi phú văn chương,thiệt học, vừa hiền thục
khiêm cung, vừa đạo hạnh trang nghiêm, viên minh tuệ giác.

Nhắc đến sự đóng góp của Ni sư, ngồi sự cống hiến về hoằng dương đạo pháp, Người
còn để lại cho Phật giáo nói riêng, và nền văn học nói chung một sự nghiệp lớn lao về văn thơ
Phật giáo. Nổi bật hơn, thơ văn của Ni trưởng không xa rời cuộc đời, bằng nghệ thuật sống
động, gần gũi với người dân, thông qua sự quan sát cảnh vật núi rừng sông nước, người vật, đất
nước, quê hương… Trong đó đã hàm chứa một triết lý sống, có thể giáo dục con người, đưa họ
trở về với chính mình theo tinh thần đạo Phật nhập thế, có một tâm hồn cao đẹp, thanh thốt,
vơ ngã, vị tha, vì q hương, đất nước. Chỉ với một ánh trăng, dòng nước, chòm núi, cảnh vật
nhà nông lam lũ với đồng ruộng hoặc đứng dưới gốc cây… cũng làm cho thi nhân miêu tả cái
đẹp, của giải thoát, an lạc, nhắc nhở hậu thế suy tư về cách sống, về hành động, tư tưởng. Do
vậy, trong tập thơ Đóa Sen Thiêng của Ni sư đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công
nhận kỷ lục là tập thơ được viết theo nhiều thể loại nhất.
4. KẾT LUẬN
Với tinh thần tinh thần yêu nước, về ý thức trách nhiệm của người con Phật, Ni sư Huỳnh
Liên đã dẫn đầu các hoạt động vì tự do, dân chủ, hịa bình cho dân tộc, thực hiện các hoạt động
271


xã hội, qua đó thể hiện phẩm chất đạo đức sáng ngời về một tấm gương giới hạnh, là bậc danh
Ni đầu tiên của Hệ phái Khất sĩ, tiêu biểu của Ni giới thời đại đã góp cơng rất lớn trong việc
dẫn dắt Ni giới và Phật tử Hệ phái Khất sĩ trên con đường chánh pháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hệ phái Khất Sĩ (2014), 100 ngôi tịnh xá tiêu biểu, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
2. Ni giới Hệ phái Khất Sĩ (1994), Kỷ yếu Ni trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh
3. Thích Hạnh Thành (2007), Tìm hiểu Phật giáo Khất Sĩ ở Nam Bộ Việt Nam (trong thế kỷ XX), Nxb
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh
4. Thích Nữ Tịnh Nghiêm – Thích Nữ Tuyết Liên (2019), Ni giới Việt Nam – Ni giới Tiền Giang tiếp
bước tiền nhân phát huy Chánh pháp, NXB. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Thích Huệ Thơng (2015), Lịch sử Phật giáo Bình Dương, NXB văn hóa văn nghệ Thành phố Hồ
Chí Minh.

6. Thích Minh Cang (2017), Biên niên sử Hệ phái Khất sĩ Việt Nam, NXB Hồng Đức.
7. Thích Hạnh Thành (2007), Tìm hiểu Phật giáo khất sĩ ở Nam Bộ Việt Nam (trong thế kỉ XX), NXB
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

272



×