BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HĨA PHI VẬT THỂ LỄ HỘI KỲ N ĐÌNH TÂN AN
Lê Thị Ninh1
1. Khoa Cơng nghiệp Văn hóa. Email:
TĨM TẮT
Bài viết sẽ đi vào tìm hiểu về nghi thức cúng tế, các hoạt động hội vui chơi được tổ chức
trong lễ hội Kỳ yên đình Tân An. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng, trải qua hơn 200 năm hình
thành và phát triển, đến nay, lễ hội Kỳ yên đình Tân An vẫn được người dân địa phương tổ
chức cúng tế theo đúng lệ xưa. Bên cạnh đó, lễ hội vẫn giữ được vai trị, vị trí quan trọng trong
đời sống của người dân: là dịp để người dân bày tỏ sự tri ân đối với thần Thành Hoàng Bổn
Cảnh, thể hiện lòng biết ơn đối với các bậc Tiền hiền, Hậu hiền và cũng là dịp để họ nghỉ ngơi,
vui chơi, tái tạo sức lao động, gắn kết tình làng nghĩa xóm. Với giá trị tiêu biểu đó, lễ hội Kỳ
n đình Tân An được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật
thể. Trong bối cảnh xã hội ngày càng hiện đại hóa, lễ hội Kỳ n đình Tân An ít nhiều cũng
chịu sự tác động. Vì vậy, để góp phần bảo tồn các nghi thức tế lễ và phát huy hơn nữa giá trị
của lễ hội trong đời sống người dân, chúng tôi cũng mạn phép đưa ra một số giải pháp.
Từ khóa: Đình Tân An, lễ hội kỳ n, di sản văn hóa.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đình làng từ xưa đã là một thiết chế văn hóa truyền thống của người Việt, motif “lập làng
- dựng đình - thờ thần” đã ăn sâu trong tâm thức của người dân. Vì thế, khi rời xa mảnh đất
“chơn nhau cắt rốn” đến vùng đất mới, khai hoang lập nghiệp thì người Việt vẫn tiếp tục “gieo
trồng” giá trị văn hóa truyền thống ấy. Trên vùng đất mới, đình làng và vị thần được thờ trong
đình khơng chỉ trở thành điểm tựa tâm linh cho lớp lưu dân trước cuộc sống đầy bất trắc mà
còn là điểm tựa tinh thần, là nơi lưu giữ những dấu vết của cố hương, để khi đến đây, người
dân có thể được sống lại trong bầu khơng khí quen thuộc và vì thế nỗi nhớ nhà phần nào được
xoa dịu. Đình Tân An cũng được tạo dựng trong hồn cảnh đó.
Đình Tân An (hay cịn gọi là đình Bến Thế hay đình Bến Thuế1) tọa lạc khu phố 1, phường
Tân An, TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, được lưu dân người Việt xây dựng vào khoảng
năm 1820. Thưở đầu, đình là cơ sở tín ngưỡng chung của bốn xã thuộc huyện Bình An xưa,
gồm: Tương Hiệp, Tương An, Tương Hòa và Cầu Định. Sau đó các xã Tương Hiệp, Tương
Bình, Cầu Định lần lượt xây dựng đình thần riêng, Tương An miếu trở thành ngơi đình riêng
của xã Tương An (nay là phường Tân An).
Trước đây ngơi chợ gần đình là nơi thu thuế của bà con nơng dân (thu thuế ngay trong lịng chợ) nên dân gian
gọi là chợ Bến Thuế (điểm thu thuế), đình gần chợ Bến Thuế nên cũng được gọi ln là đình Bến Thuế - dần dần
đọc chệch ra thành Bến Thế (Bảo Tàng tỉnh Bình Dương, 2019, tr.789).
1
17
Vị thần chủ được thờ trong đình là thần Thành Hoàng Bổn Cảnh được vua Tự Đức sắc
phong vào năm 1868 (năm Tự Đức 21) với mỹ tự “Bảo An Chánh Trực Hựu Thiện Đôn Ngưng”.
Tuy rằng, trên văn bản, thần chỉ có danh xưng chung chung mang ý nghĩa là vị thần của xứ này,
song trong tâm thức của người dân địa phương vị thần chủ trong đình chính là Quận công
Nguyễn Văn Thành - một vị quan từng giữ chức Khâm sai tiền quân chưởng cơ dưới đời vua
Gia Long. Chân dung Quận công Nguyễn Văn Thành được thờ tại gian chánh điện, kèm một
bảng ghi “cách dùng người của Quận cơng” nhằm giới thiệu thần tích của Thần.
Về việc thực hiện các nghi thức cúng tế và lễ hội hàng năm, đình Tân An đều thực hiện
các lễ giống như các ngơi đình khác ở Nam Bộ như lễ cúng Đưa thần; lễ Rước thần; lễ Khai
sơn (Khai hạ, Khai ấn); lễ Tam Nguyên (Tam Ngươn) là lễ cúng vào ba ngày rằm lớn tháng
Giêng, tháng Bảy, tháng Mười… Nhưng quan trọng hơn cả vẫn là những ngày lễ Hạ điền, lễ
Thượng điền và lễ Kỳ yên.
Lễ Hạ điền là lễ tế thần vào đầu mùa mưa, có ý nghĩa là lễ xuống đồng, khai trương việc cày
cấy, cịn lễ Thượng điền thì tiến hành vào cuối mùa mưa, lúc việc mùa màng đã hoàn tất (đây là
hình thức biến dạng của tập tục Xuân Tế và Thu tế của đình làng truyền thống). Lễ Kỳ yên (lễ cầu
an) là dâng lễ vật cúng thần Thành Hoàng để bày tỏ lịng thành kính của mình với vị thần làng đã
bao bọc che chở cho họ trong suốt năm qua, là dịp để bày tỏ sự tri ân “uống nước nhớ nguồn” đối
với những bậc tiền nhân đã có cơng khai phá lập nên xóm làng, mở mang bờ cõi. Về bản chất thì
mục đích của các lễ này đều mang tính chất lễ nghi nơng nghiệp nhằm cầu quốc thái dân an, thiên
hạ thái bình, cầu mưa thuận gió hịa, mùa màng bội thu nên về sau, người dân trong làng đã tích
hợp lễ Kỳ yên vào lễ Thượng điền theo nghĩa “Tam niên đáo lệ Kỳ n”. Và trong năm đó, đình
có rước đồn hát bội về, trước là cúng thần, sau là tổ chức các suất diễn phục vụ bà con với những
tuồng tích có chủ đề lựa chọn để nhớ về tổ tiên, cội nguồn dân tộc. Trải qua hơn 200 hình thành
và phát triển, với bao biến cố thăng trầm của lịch sử, các nghi thức cúng tế của đình Tân An vẫn
được người dân địa phương bảo lưu và thực hành thường xuyên theo đúng lệ xưa.
Tháng 1/2022, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành quyết định công nhận lễ hội
Kỳ yên đình Tân An là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là niềm vinh dự và tự hào của
người dân Tân An nói riêng và người dân Bình Dương nói chung (là một trong bốn di tích văn hóa
phi vật thể cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bình Dương). Song cũng đặt ra cho họ trọng trách trong
việc làm thế nào để có thể bảo tồn và phát huy được tác dụng những giá trị văn hóa của lễ hội trước
những tác động của kinh tế - xã hội, đặc biệt là những tác động của q trình tồn cầu hóa.
Trong phạm vi bài nghiên cứu, ngoài việc giới thiệu khái quát về lễ hội Kỳ yên đình Tân
An, chỉ ra những giá trị văn hóa của lễ hội Kỳ n đình Tân An đối với đời sống của người dân
nơi đây, tác giả cũng đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của di
sản văn hóa phi vật thể này.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong bài nghiên cứu, tác giả sử dụng chủ yếu là phương pháp thu thập, phân tích dữ liệu
thứ cấp. Các dữ liệu thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn như: các cơng trình nghiên cứu, báo
cáo tổng kết của các cơ quan ban ngành tỉnh Bình Dương, hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể lễ
hội Kỳ yên đình Tân An... Các dữ liệu này được hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp nhằm phục
vụ cho bài viết.
18
Ngoài ra, tác giả cũng đi thực tế tại cơ sở thờ tự đến cơ sở thờ tự quan sát hỏi người quản
lý đình cũng như một số người dân xung quanh.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khái quát về lễ hội Kỳ yên đình Tân An
Lễ hội Kỳ yên đình Tân An được tổ chức vào tháng 11 âm lịch hàng năm. Vào các năm
Sửu, Dần, Thìn, Tỵ, Mùi, Thân, Tuất, Hợi, đình Tân An tổ chức lễ Kỳ yên với qui mô nhỏ chỉ
diễn ra trong 1 ngày, gồm các nghi lễ cơ bản như lễ Rước sắc, lễ An vị, lễ Thỉnh sanh, lễ cúng
Tiền Bối – Hậu Bối và lễ Đưa Sắc. Lễ thường niên thì chú trọng phần lễ nhiều hơn phần hội,
người dân chủ yếu đến lễ bái thần. Cứ 3 năm đáo lệ, vào các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu, đình Tân
An tổ chức Đại lễ Kỳ yên với quy mô lớn, kéo dài trong 3 ngày từ ngày 14, 15, 16 tháng 11 âm
lịch, bao gồm cả phần lễ và phần hội. Phần lễ gồm các nghi lễ như: lễ Thỉnh sắc, lễ An vị, lễ
Thỉnh sanh, lễ Túc yết, lễ Đàn cả, lễ Xây chầu đại bội, lễ cúng Tiền Bối – Hậu Bối, Chiến sĩ và
lễ Đưa sắc; phần hội gồm các chương trình hát bội, trị chơi dân gian,…
- Lễ Thỉnh sắc (ngày 14/11) hay còn gọi là lễ Rước sắc là nghi lễ rước sắc thần từ nơi cất
giữ về đình an vị để tổ chức lễ Kỳ yên. Hiện nay, sắc thần của đình Tân An được cất giữ tại nhà
cổ của ông Nguyễn Tri Quan (thuộc dòng dõi Tiền Hiền). Đến dịp lễ hội, sắc phong sẽ được
rước về đình an vị, xem đó như sự hiện diện của thần, Cho nên, trên hành trình thỉnh sắc, đồn
rước sẽ đi một vịng quanh khu dân cư với ý nghĩa để thần chứng kiến cuộc sống của dân làng
mà có những thưởng, phạt phân minh. Khi đồn rước sắc về tới đình, trong đình nổi 3 hồi mõ,
trống, chiêng và tất cả các đèn được thắp sáng để nghinh Thần.
- Lễ An vị (ngày 14/11) là lễ được thực hiện ngay sau khi đoàn rước sắc về tới sân đình.
Lễ vật gồm có một con heo đã mổ thịt làm sạch để nguyên con đặt ở ván son trước bàn thờ
Thần. Các bàn thờ trong chánh tẩm (Tiền Hiền, Hậu Hiền, Tả Ban, Hữu Ban) được kiếng một
tợ thịt nọng, các bàn thờ còn lại trong đình kiếng một bẹ sườn hoặc một tợ thịt. Nghi lễ diễn ra
trước bàn thờ Thần, 08 vị Học trò lễ chia thành hai hàng đứng hai bên chiếu tế, tay cầm một
cây nến và quan sát chánh tế, bồi tế thực hiện nghi lễ. Diễn tiến của nghi lễ cúng An vị được
thực hiện tuần tự theo lời của xướng quan, gồm mười hai bước, sau khi dâng một tuần hương,
một tuần rượu, một tuần trà, chấp sự viên đánh ba hồi trống kết thúc nghi lễ.
- Lễ Thỉnh sanh (ngày 14/11). Đây là nghi thức trình con vật tế lên Thần để báo với Thần
là con vật tế cịn sống, khơng bị dị tật.
Đúng 14h00, Ban q tế tập trung làm lễ Thỉnh sanh (hay Tỉnh sanh). Vật tế là một con
lợn (heo) đực còn sống, tuyền sắc, mập mạp, khỏe mạnh, không dị tật. Nghi lễ này được thực
hiện tuần tự theo lời xướng của xướng quan, qua các bước: niệm hương, dâng hương, dâng
rượu. Đến khi xướng quan xướng lớn “Tỉnh sanh”, Chánh tế, Tể giả và những người tham gia
nghi lễ mỗi người cầm một cây đèn, ba tờ vàng bạc theo sau học trò lễ đi vòng quanh heo tế để
kiểm tra lễ vật. Sau đó, Chánh tế đốt ba tờ vàng bạc đại huơ lên cổ heo tế, dùng rượu rửa sạch
chỗ nọng heo, rồi lấy dao miết lên đó một đường tượng trưng. coi như thần đã chấp nhận lễ vật
và Tể giả đưa heo đi yết. Chánh tế dâng trà lên bàn thờ Thần, kết thúc nghi lễ Thỉnh sanh. Thời
xưa, đình Tân An yết heo tại sân đình nhưng hiện nay heo tế được đưa đến lò mổ hoặc đến nhà
Tể giả để yết. Mặc dù vậy, nghi thức lấy mao huyết vẫn được người dân thực hành đầy đủ.
19
- Lễ Túc yết (ngày 14/11). Đây là nghi thức báo cáo với Thần về buổi lễ hôm nay và kính
mời Thần về dự lễ. Lễ vật trong nghi Túc yết là con heo được làm trong lễ Thỉnh sanh, trên
lưng cắm một con dao, sáu chung mao, huyết đặt trên bàn thờ Thần, cùng với hương, đăng, trà,
quả bày sẵn trước đó. Thực hiện lễ Túc yết gồm có: Chánh tế, Bồi tế, Đơng hiến, Tây hiến, Học
trị lễ (16 người), Đào thài (06 người), các thị lập cùng với các thành viên trong Ban quý tế phụ
bàn hương. Nghi lễ thực hiện tuần tự theo lời của xướng quan, trải qua nghi thức Ế mao huyết,
dâng một tuần hương, ba tuần rượu, một tuần trà, chúc văn đọc sau tuần rượu thứ hai. Trong
quá trình thực hiện nghi thức, các đào thài đứng hoặc đi sau các vị Học trò lễ để hát tán chúc
tụng và các Đào thài chỉ tham gia trong lễ Túc yết và lễ Đàn cả.
Một nghi lễ đầy đủ gồm 74 bước, mỗi bước đều mang tính chất trang nghiêm, tạo một
một khơng gian lễ hội linh thiêng.
Sau khi thực hiện xong lễ Túc yết, heo tế được đưa xuống nhà bếp, phân ra thành nhiều
tợ thịt và luộc chín tiếp tục đưa lên các bàn: bàn thờ Thần đặt bộ thủ vĩ (đầu, đi, móng, lịng,
thịt), các bàn thờ khác kiếng mỗi nơi một tợ thịt, một bẹ sườn và một ít lòng luộc. Nước luộc
heo dùng nấu cháo phục vụ bà con dân làng và những người túc trực tại đình. Bà con trong
vùng tới đình rất đơng vừa cúng đình vừa xem hát Bội.
- Lễ Xây chầu đại bội (diễn ra vào khoảng 20h00 ngày 14/11). Lễ này còn được gọi là lễ
khai tràng, diễn ra ngay sau lễ Túc yết. Mục đích là để cầu mong âm dương hịa hợp, mưa thuận
gió hịa, mùa màng tốt tươi, quốc thái dân an.
Trong lễ Kỳ yên, thì đây là một phần quan trọng, bởi mỗi nghi trong lễ là biểu trưng cho
từng giai đoạn trong quá trình vận hành của vũ trụ từ hỗn mang sinh thái cực, thái cực sinh
lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quát, hay là mối quan hệ giữa Âm
Dương, Tam Tài, Ngũ hành… Âm dương có hài hịa, con người, vạn vật mới sinh sơi, cuộc
sống mới thái bình, thịnh vượng. Vì tầm quan trọng đó, mà lễ Xây chầu được chuẩn bị kỹ càng.
Người đứng xây chầu không chỉ là người am hiểu về nghi thức hành lễ mà còn phải là người
có đạo đức, uy tín trong làng, gia đình hịa thuận, con cháu đề huề, có như vậy mới “trên thuận
Trời Đất, dưới hợp lòng Người”.
Trước giờ xây chầu, người xây chầu phải đặt trống theo hướng đại lợi (hướng tốt nhất
trong năm2), sau đó lấy khăn đỏ che mặt trống lại nhằm che thái cực (ý muốn chỉ lúc này thế
giới cịn hỗn mang, chưa có thái cực âm dương). Từ khi che mặt trống, tuyệt đối khơng được
xê dịch trống chầu, vì khơng làm ảnh hưởng tới tính bất động của vơ cực.
Lễ Xây chầu ở đình Tân An thuộc loại Xây chầu văn3, về cơ bản chia làm 2 phần: Thỉnh
chầu và Xây chầu.
Sau lễ Xây chầu là lễ Đại bội do đoàn hát Bội đảm nhiệm. Nếu như lễ Xây chầu có ý
nghĩa khai thơng thái cực, thì lễ Đại bội diễn lại q trình dịch lý từ Thái cực – Lưỡng nghi –
Cách lấy hướng đại lợi, căn cứ vào sự chỉ dẫn của Bát quái Sơn Hương thường có sẵn trong lịch Tàu hoặc lịch
Tam Tông Miếu của Việt Nam (Huỳnh Ngọc Trảng và nnk, 1999).
3
Trong Đình Nam bộ xưa và nay, các tác giả cho biết, về cách thức cử hành xây chầu, có 3 loại: xây chầu văn,
xây chầu võ, xây chầu bán văn bán võ. Trong đó, xây chầu văn và xây chầu bán văn bán võ không khác nhau lắm.
Xây chầu văn là các câu chú được đọc thầm trong miệng, xây chầu bán văn bán võ là các câu chú được đọc lớn,
oai nghi, dõng dạc. Xây chầu võ thì khác, các cử chỉ, cách ăn mặc, lối đọc các câu chú được biểu lộ một cách dũng
mãnh như một võ sĩ (Huỳnh Ngọc Trảng và nnk, 1999).
2
20
Tam tài – Tứ tượng – Ngũ hành – Bát quái, qua 6 phần: Khai thiên tịch địa, Xang nhật nguyệt,
Tam tài, Tứ thiên vương, Đứng cái và Gia quan Tấn tước. Sau gần ba tiếng thực hiện, lễ Đại
bội kết thúc ngày thứ nhất của Đại Lễ hội Kỳ yên.
- Lễ tế Tiền Bối, Hậu Bối và chiến sĩ (ngày 15 tháng 11). Đây là nghi lễ tưởng nhớ đến
công ơn của các bậc “tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ” – lớp người có cơng trong việc xây
dựng hương thơn, lập làng, dựng đình, tạo chợ, đắp đê, làm đường… và cả những người sẵn
sàng hy sinh để bảo vệ hương thôn.
Vào lúc 9h00, Ban lễ tế tiến hành nghi lễ tế Hậu bối và Chiến sĩ. Tại gian Hậu đình có 3
hương án thờ Tiền vãng Viên Quan (前往員官), Tiền Vãng Hương Chức (前往鄉職), Tiền
Vãng Dịch Mục (前往役目) – gọi chung là Hậu bối. Bên hông Chánh điện có hương án thờ
Liệt sĩ (列士) và miếu thờ Chiến sĩ – gọi chung là Chiến sĩ. Thực hiện nghi lễ gồm có: Chánh
tế, Bồi tế, Học trị lễ, Ban nhạc lễ. Lễ vật gồm có 01 tợ thịt, 01 tợ xương sườn, hương, đăng,
trà, quả, rượu. Diễn tiến của lễ tế Hậu bối và Chiến sĩ được thực hiện tuần tự theo lời xướng
quan trước bàn thờ Tiền Vãng Viên Quan, gồm có các nghi thức: dâng hương, dâng rượu, dâng
trà, đọc chúc văn, đốt chúc văn. Trong văn tế Hậu bối và Chiến sĩ có ghi rõ các vị được thờ như:
Tiền Đại Tiên Hiền Tiên Triết chi vị, Tiền Vãng Viên Quan chi vị, Tiền Vãng Viên Chức chi
vị, Tiền Vãng Dịch Mục chi vị, Tiền Vãng liệt sĩ chi vị. Sau khi đọc chúc văn, thầy lễ hóa chúc,
kết thúc nghi lễ tế Hậu bối và Chiến sĩ.
- Lễ Đàn cả hay còn gọi là Cúng Chánh, Đoàn Cả, Đại đoàn 4 (ngày 15/11). Đây là lễ
chánh tế trong lễ Kỳ yên, mang ý nghĩa là tạ ơn thần đã phù hộ cho dân làng được bình an,
khang thái, mưa thuận gió hịa, mùa màng tốt tươi. Lễ vật dâng lên thần là một con heo tuyền
sắc, không dị tật. Heo được yết, mổ bụng, làm sạch, đặt trong máng dâng trên bàn hội đồng, ở
giữa lưng heo có cắm một con dao, bên cạnh là một đĩa lòng.
Nghi thức diễn ra giống lễ Túc yết, nhưng có nhiều học trị lễ hơn, gồm 16 người và trên
điện thờ thần có 6 học trị lễ đứng ở 3 cửa hộ vệ cho thần, nghi thức được thực hành trang nghiêm,
cẩn trọng. Khi dâng lễ vật, học trò tiến lên bàn thần bằng bốn hàng, có Đào thài hát bài thài phía
sau. Nghi lễ qua 2 phần: phần đầu dâng hương, 3 tuần rượu (sơ hiến, á hiến, chung hiến), dâng
trà, dâng hoa quả. Khác với nghi Túc yết, nghi Đàn cả cịn có thêm “thọ tợ”, nghĩa là sau khi dâng
1 tuần hương, 2 tuần rượu, 1 tuần trà thì Ban quý tế được hưởng lộc của Thần, học trò lên lấy
rượu, trái cây trên bàn thờ thần xuống cho Ban quý tế ăn, uống tượng trưng cho có lộc.
- Lễ Đưa sắc (ngày 16/11). Trong suốt 3 ngày tổ chức lễ hội, Sắc phong an vị trên bàn
thờ Thần. Đến 14h00 ngày cuối cùng, tức là chiều ngày 16 tháng 11, dân làng làm lễ đưa sắc
về lại nơi cất giữ tại nhà cổ Nguyễn Tri Quan – gọi là lễ Đưa sắc. Về cơ bản, nghi thức cúng tế,
đội hình đồn đưa sắc cũng giống trong lễ Thỉnh sắc, nhưng số lượng người tham gia thường ít
hơn và ít có sự tham gia của các đội lân sư rồng.
Ngoài phần lễ, phần hội trong lễ Kỳ yên đình Tân An cũng thu hút đơng đảo người dân
tham gia qua các trị chơi dân gian như kéo co, đẩy gậy… Khoảng vài năm trở lại đây, nhằm
làm phong phú thêm nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc, Đồn Thanh niên và Ban Văn
Đàn cả: đàn ở đây được hiểu là nơi tế lễ, thường đắp bằng đất cao); cịn Đồn cả thì có nghĩa là tụ họp đơng đúc,
đầy đủ. (Huỳnh Ngọc Trảng và nnk, 1999).
4
21
hóa – Thơng tin của phường Tân An tổ chức thêm các trị chơi, cuộc thi như Giải bóng chuyền
truyền thống, bịt mắt đạp heo đất.. Nhờ đó, lễ hội đã thu hút được sự chú ý và tham gia của giới
trẻ khiến cho khơng khí lễ hội đơng vui, rộn ràng hơn.
Nhìn chung, qua phần trình bày trên, chúng ta thấy rằng, về cơ bản các nghi thức tế lễ
trong lễ Kỳ yên đình Tân An với lễ Kỳ n ở các đình làng Nam Bộ nói chung và đình làng
Bình Dương nói riêng có sự tương đồng. Sở dĩ có điều đó là vì, chủ thể văn hóa của tín ngưỡng
thờ thần Thành Hồng là người Việt, và trong quá trình Nam tiến, họ đã mang thiết chế văn hóa
làng truyền thống lập làng – dựng đình – thờ thần để tạo dựng trên những mảnh đất mới được
khai khẩn. Đó vừa là điểm tựa tâm linh cho kẻ lưu dân, vừa là sự hoài vọng, hướng về cố hương.
Cho nên, đẳng trật các nghi lễ trong đại lễ cúng đình (lễ Kỳ yên) ở đình làng Nam Bộ có thể
khác nhau, song vẫn đảm bảo các phần lễ quan trọng như Nghinh thần, Tế thần và tổ chức phần
hội cho dân làng vui chơi. Tuy nhiên, trong điều kiện tự nhiên – xã hội khác biệt thì các nghi
thức trong Đại lễ cúng đình ở mỗi vùng, hoặc mỗi địa phương sẽ có những sắc thái văn hóa
riêng. Đơn cử như, trong lễ Kỳ n đình Tân An khơng có lễ Tế Thần Nơng, trong khi đó lễ Tế
Thần Nông là một trong những nghi thức đầu tiên ở nhiều đình làng Nam Bộ như đình Châu
Phú (An Giang), đình Mỹ Phước (An Giang), đình Bình Thủy (Cần Thơ)…
3.2. Những giá trị văn hóa của lễ hội Kỳ yên đình Tân An
Trước hết, lễ hội Kỳ yên đình Tân An là dịp để người dân tạ ơn các vị thần được thờ trong
đình – những vị có quyền năng siêu nhiên đã luôn bảo bọc, che chở giúp đỡ họ trước những bất
trắc của cuộc sống. Trong tâm thức của người dân, tín ngưỡng thờ thần Thành Hồng khơng phải
là một tơn giáo. Nó khơng chủ trương tôn thờ Đấng Sáng Thế, Đấng Tối Cao cũng không có hệ
thống giáo lý, giáo điều hồn chỉnh mà chỉ phảng phất một nội dung Kính và Sợ với các nghi thức
tế lễ nhằm mục đích kỳ yên (cầu an) cho cuộc sống hiện tại của cộng đồng. Thế nên thần Thành
Hồng và các vị thần phối tự trong đình là chỗ dựa tinh thần cho nhiều tầng lớp nhân dân, “làng
khơng có Thành Hồng làng bất an”. Họ đại diện cho các mặt trong cuộc sống và độ trì cho người
dân “tai qua nạn khỏi”, “mưa thuận gió hịa”, “thái bình thịnh trị” để họ yên tâm làm ăn sinh sống.
Và mỗi dịp hội đình là dịp để tạ ơn thần, cầu mong thần tiếp tục gia ân linh phù cho dân thôn.
Đây cũng là dịp để người dân tưởng nhớ, tri ân đến các bậc tiền nhân – những người đã
có cơng đối với thơn làng trong buổi đầu khai khẩn. Các nghi thức diễn ra trong lễ hội, tất thảy
đều mang tính tưởng niệm hướng về những công trạng của thần, của các Tiền bối và Hậu bối.
Xuyên suốt tinh thần của lễ hội chính là đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng
cây”. Nó trở thành nền tảng cơ sở để giáo dục chân, thiện, mỹ cho hậu thế. Hơn nữa, mỗi dịp
hội đình là dịp để người dân xa quê hương hướng về cội nguồn. Dù đi dâu, làm gì, đến ngày
hội đình họ cũng cố gắng thu xếp trở về quê hương để được sống trong những giây phút thiêng
liêng tế thần, để được thở trong bầu khơng khí náo nhiệt của ngày hội, được cảm nhận sự gắn
kết giữa người với người, thắt chặt tình làng xóm.
Lễ hội Kỳ n đình Tân An là một hoạt động văn hóa có tính cộng đồng cao. Từ lâu,
trong văn hóa truyền thống Việt Nam, đình đã trở thành một biểu tượng của tính cộng đồng.
Đình là trung tâm văn hóa, trung tâm hành chính, trung tâm kinh tế, trung tâm tín ngưỡng của
một làng. Và vị thần Thành Hoàng được thờ trong đình là vị thần chung của cả cộng đồng làng.
Tất cả mọi người trong làng đều phải có trách nhiệm trong việc thờ thần. Bởi nếu có điều gì sai
sót, thần sẽ quở phạt cả làng chứ không phải riêng ai. Vì thế, mỗi dịp lễ kỳ yên là dịp mà tất cả
22
mọi người trong làng đều tham gia vào các khâu từ việc dọn dẹp, trang trí đến biện lễ, tế lễ,
rước thần,… Mỗi công đoạn tuy là do mỗi người, nhóm người phụ trách, song vẫn phải được
phối hợp nhịp nhàng, theo đẳng trật nhất định. Hội làng cũng là dịp để mọi người gặp gỡ, trao
đổi, là dịp hòa nhập giữa cái tơi với cái ta. Ngồi khơng khí thiêng liêng của buổi lễ thì ở phần
hội, khơng khí náo nhiệt, cũng dễ khiến cho tâm lý con người trở nên hứng khởi, hưng phần và
vì thế cũng dễ dàng quên đi những hiềm khích, bất đồng, con người cũng trở nên rộng rãi, thân
thiết với nhau hơn, thậm chí, ngay cả đối với khách thập phương. Ngồi sự gắn kết những người
dân trong làng, trong xóm, lễ hội Kỳ n đình Tân An cịn thể hiện sự gắn kết, giao lưu liên
đình. Theo ghi nhận trong Hồ sơ tư liệu di sản đình Tân An của Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tỉnh Bình Dương (2021), hiện đình Tân An có mối giao lưu với 29 đình, miếu trong khu
vực Nam Bộ. Việc giao lưu này ngoài ý nghĩa củng cố tình đồn kết giữa các đình, giữa những
cộng đồng có chung tín ngưỡng thờ Thành Hồng Bổn Cảnh cịn hỗ trợ, chia sẻ thơng tin trong
việc quản lý đình, lễ cúng đình.
Lễ hội Kỳ yên đình Tân An là dịp để người dân giải tỏa những phiền muộn, lo âu trong
cuộc sống, tái tạo lại sức lao động. Trước đây, lễ hội thường được tổ chức vào thời điểm người
dân đã ngơi tay với những công việc đồng áng. Sau chuỗi ngày vất vả, lam lũ “bán mặt cho đất,
bán lưng cho trời”, người dân được nghỉ ngơi, vui chơi giải trí để lấy lại sự thăng bằng trong
cuộc sống, tái tạo sức lao động để sản xuất. Vì thế, nếu như phần lễ sẽ giúp họ cân bằng về đời
sống tâm linh, có niềm tin vào thế giới siêu nhiên, vào cuộc sống tốt đẹp ở phía trước, thì phần
hội sẽ giúp họ cân bằng đời sống tinh thần, quẳng gánh lo đi để sống hết mình cho những trị
chơi, cuộc thi.... Và rồi ngày mai, khi trở về với đời sống thường nhật họ vẫn giữ cho mình
nguồn năng lượng tích cực để lao động sản xuất.
3.3. Một số giải pháp trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể
Trải qua những thăng trầm của lịch sử và cả sự tác động của cơ chế thị trường, đến nay,
thời gian tổ chức lễ hội và nghi thức cúng tế trong lễ hội Kỳ yên đình Tân An về cơ bản vẫn
được người dân địa phương bảo lưu, thực hành đầy đủ và khá trọn vẹn. Đó là do người dân nơi
đây, nhất là Ban quản trị, Ban quý tế đình Tân An đã xem trọng những giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc, họ đã tạo được nguồn nhân lực kế cận và truyền dạy lại cho họ, đồng thời
các nghi thức, nghi lễ cũng đã được ghi chép bằng văn bản để có thể lưu lại cho hậu thế.
Việc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cơng nhận Lễ hội Kỳ n đình Tân An là di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia đối với người dân nơi đây là niềm vinh hạnh và tự hào. Tuy nhiên,
việc này cũng đã đặt ra vấn đề là làm thế nào để những giá trị văn hóa của lễ hội Kỳ n đình
Tân An được phát huy trong đời sống hiện đại ngày nay. Bởi chỉ khi nó thực sự “sống” trong
đời sống của người dân thì nó mới được bảo tồn. Trong phạm vi bài viết này, tác giả mạnh dạn
đưa ra một số ý kiến góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội Kỳ n đình Tân An.
- Số hóa hình ảnh kiến trúc cảnh quan đình và lễ hội Kỳ n đình Tân An. Số hóa đã và
đang là xu thế chung của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, trong đó, việc ứng dụng các cơng nghệ
số vào lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa đã được nhiều cơ quan, tổ chức áp dụng và nhận được
những phản hồi tích cực. Trong đó, cơng trình được coi là “phát súng” mở màn cho xu hướng
ứng dụng cơng nghệ vào bảo tồn di sản văn hóa là việc dùng công nghệ thực thế ảo 3D (Virtual
Reality 3D-VR3D) tái hiện khơng gian đình Tiền Lệ (huyện Hồi Đức). Cơng nghệ VR3D cho
phép người xem có thể tương tác, xoay lật mọi góc nhìn để quan sát hiện trạng di tích một cách
23
cụ thể trong khơng gian 3 chiều. Nhờ số hóa, di sản văn hóa có thể được lưu giữ và có thêm
điều kiện để quảng bá ra thế giới, tăng tương tác với cơng chúng.
Việc số hóa cũng sẽ giúp ích cho công tác tu bổ, phục hồi di tích sau này, góp phần gìn
giữ được tính ngun gốc về toàn bộ các yếu tố vật thể và phi vật thể từ kiến trúc, văn hóa chữ
Hán Nơm, sắc phong, thần tích của thần đến các nghi thức cúng tế, hình thức diễn xướng…
- Khai thác các giá trị văn hóa của đình và lễ hội Kỳ n đình về cả phương diện vật chất
và tinh thần trong du lịch. Mối quan hệ, tác động giữa di sản văn hóa và du lịch là mối quan hệ,
tác động hai chiều. Di sản văn hóa là tiềm năng, nguồn tài nguyên quý giá để đẩy mạnh phát
triển du lịch. Việc khai thác di sản văn hóa để phát triển du lịch khơng những đem lại lợi ích
kinh tế - xã hội, mà cịn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích văn hóa. Nói cách
khác, di sản văn hóa là tài lực của du lịch và du lịch là động lực cho di sản văn hóa tồn tại và
phát triển mạnh mẽ, vững chắc. Chính vì thế, cơ quan ban ngành hữu quan cùng với ban quản
trị đình Tân An nên cùng ngồi lại và đưa ra định hướng trong việc phát triển du lịch. Đơn cử
như liên kết với các công ty du lịch trên địa bàn tỉnh Bình Dương đưa đình/ lễ hội Kỳ yên đình
vào các điểm tham quan cho tour ngắn ngày.
Từ góc độ kiến trúc cảnh quan đình Tân An thì đây cũng được xem là thế mạnh. Đình có
khn viên rộng, gần 14.000m2, tọa lạc trên đồi cao, mặt tiền hướng ra sơng Sài Gịn. Cổng
đình được thiết kế theo kiểu Tam quan, 2 cổng phụ ở phía Đơng và phía Tây xây dựng theo lối
cổ lầu (hình dáng chữ U ngược). Đặc biệt là, trên các cổng phụ của đình Tân An có cây đa mọc
tự nhiên trên đó. Cây đa sống lâu ngày làm cho rễ và thân cây bám chặt, chằng chịt vào trụ
cổng. Nhất là cổng phụ ở phía Đơng, cây đa có niên đại trên 100 năm tuổi này ơm chặt tồn bộ
thân cổng, làm cho cổng đình trơng vững chãi, cổ kính và khác lạ so với các ngơi đình khác.
Chính bối cảnh đẹp, cổ kính mang đậm nét văn hóa thuần Việt này mà Đình Tân An được nhiều
đồn phim, nhiếp ảnh gia lựa chọn làm bối cảnh cho tác phẩm nghệ thuật của mình. Ngồi ra,
đình cịn lưu giữ nhiều hiện vật cổ có giá trị, thể hiện qua các bức hồnh phi, câu đối, bao lam,
tủ thờ, các bức tranh trang trí, lư đồng, trống, mỏ, chiêng, lỗ bộ...
Trong q trình tổ chức lễ hội, bên cạnh việc tổ chức các nghi lễ thì cũng nên chú trọng
đến phần hội. Vì người tham gia lễ hội không chỉ tham gia lễ bái để thỏa mãn nhu cầu tâm linh
mà họ còn muốn được đắm mình trong khơng khí hội hè, vui chơi.
- Chú trọng đào tạo thế hệ kế cận. Để bảo tồn di tích văn hóa nhất là văn hóa phi vật thể thì
khơng thế khơng nhắc đến yếu tố con người. Vì một trong những đặc trưng của di sản văn hóa
phi vật thể là “được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề,
trình diễn và các hình thức khác” (Quốc hội, 2013). Mà “truyền miệng”, “truyền nghề” thì phải
được “cầm tay chỉ việc”, hướng dẫn một cách bài bản chứ không thể hời hợt. Người thực hành
nghi lễ phải hiểu được ý nghĩa của nghi lễ đó chứ khơng phải đơn thuần là sự “bắt chước”.
- Tăng cường công tác truyền thơng, quảng bá. Ban quản lý di tích, Ban q tế đình, chính
quyền địa phương cùng phối hợp để tun truyền quảng bá thơng tin, hình ảnh về đình và lễ hội
đình trên các phương tiện truyền thơng đại chúng. Kết hợp với các trường học trên địa bàn tổ
chức các buổi học ngoại khóa tại đình hoặc tham gia trải nghiệm ở lễ hội để từ đó gợi lên bài học
về niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, yêu giá trị văn hóa do cha ông để lại.
Thực tế, trong quá trình giảng dạy tại trường Đại học Thủ Dầu Một, tác giả thường tổ
chức cho sinh viên các khóa đến đình Tân An (và nhiều di tích lịch sử - văn hóa trên địa bản
24
tỉnh Bình Dương) để trải nghiệm thực tế, tìm hiểu về di sản văn hóa. Kết quả cho thấy, giới trẻ
rất hào hứng tìm hiểu, lắng nghe chia sẻ trực tiếp từ các vị quản lý, chức sắc trong cơ sở tín
ngưỡng, tơn giáo. Điều đó cũng có thể thấy rằng, thay vì những buổi lên lớp với “lý thuyết
sng” thì việc được tận mắt thấy, nghe, cảm nhận sẽ kích thích được tính hiếu kỳ, ham học
hỏi của giới trẻ, từ đó gieo mầm cho thế hệ trẻ yêu mến, tơn trọng di sản văn hóa hơn.
4. KẾT LUẬN
Mặc dù phải trải qua nhiều biến cố của lịch sử, bị mất mát, huỷ hoại bởi chiến tranh và
điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng đến nay đình Tân An và lễ hội Kỳ yên vẫn có ý
nghĩa to lớn trong đời sống của người dân nơi đây. Lễ hội Kỳ yên diễn ra hàng năm vẫn là dịp
để mọi người tập trung, gặp gỡ, chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống, góp phần thắt chặt
hơn tình làng nghĩa xóm. Bên cạnh đó, lễ hội Kỳ yên cũng là dịp để hướng tâm thức con người
về với cội nguồn, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đối với thần và các vị tiền nhân. Lễ
hội cũng là dịp làm “sống” lại tinh thần dân tộc, để thế hệ hơm nay khi được sống trong bầu
khơng khí đó cũng cảm nhận và thấm hơn bài học về tình yêu quê hương đất nước, tự hào về
lịch sử, văn hóa dân tộc. Chính vì những giá trị tiêu biểu đó mà người dân địa phương cũng như
các cấp chính quyền địa phương, Ban quý tế đình Tân An trong thời gian qua đã có ý thức giữ
gìn, bảo lưu và thực hành các lễ thức cúng đình khá đầy đủ, đúng với lệ xưa của làng. Tuy nhiên,
trong xã hội hiện đại ngày nay, giới trẻ dần có xu hướng quan tâm nhiều hơn đến các lễ hội
ngoại nhập, có phần thờ ơ với những lễ hội truyền thống, hoặc khi tham gia lễ hội chủ yếu là
tham gia vào phần hội cịn phần lễ khơng thu hút được sự chú ý của họ. Vì vậy, làm thế nào để
thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước - quan tâm đến lễ hội truyền thống nhiều hơn, góp
phần vào việc bảo lưu các lễ thức và phát huy được giá trị của lễ hội truyền thống trong đời
sống hiện đại là vấn đề cấp thiết. Bởi giá trị cốt lõi của lễ hội truyền thống nói chung và lễ hội
Kỳ n nói riêng ln hướng con người đến với những điều Chân – Thiện – Mĩ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo tàng tỉnh Bình Dương (2019). Đình thần Bình Dương, giá trị lịch sử và văn hóa.
2. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường (1999). Đình Nam bộ, xưa và nay. Đồng Nai: Nhà xuất
bản Đồng Nai.
3. Linh Tâm (2021). Số hóa di sản - ''cây cầu'' nối tương lai. />4. Quốc hội (2013), Văn bản hợp nhất 10/VBHN-VPQH 2013 hợp nhất Luật di sản văn hóa.
/>5. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2021). Hồ sơ tư liệu di sản đình Tân An.
25