Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Sự biến động giá trị văn hóa kinh doanh ở Đông Nam bộ trong quá trình Âu hóa đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 10 trang )

SỰ BIẾN ĐỘNG GIÁ TRỊ VĂN HOÁ KINH DOANH Ở ĐƠNG NAM BỘ
TRONG Q TRÌNH ÂU HỐ ĐẦU THẾ KỶ XX
Nguyễn Thị Th Vy1
1. Khoa Cơng nghiệp Văn hố. Email:
TÓM TẮT
Đầu thế kỷ XX là khoảng thời gian văn hóa phương Tây có ảnh hưởng một cách đặc biệt
mạnh mẽ đối với các quốc gia ở khu vực Đông Á trong đó có Việt Nam. Để đẩy nhanh quá trình
khai thác thuộc địa, nhà cầm quyền Pháp đã thực thi các chính sách tác động gần như là tồn
diện trên các lĩnh vực kinh tế tại Việt Nam. Tất cả các hoạt động này vơ hình trung đã làm cho
nền kinh tế thuần nơng của Việt Nam có những biến động mạnh mẽ - đặc biệt là tại các đơ thị
lớn tại Đơng Nam bộ. Thơng qua việc tìm hiểu sự biến động giá trị trong lĩnh vực văn hố kinh
doanh ở Đơng Nam bộ đầu thế kỷ XX, bài viết rút ra những nguyên nhân, đặc trưng, quy luật,
xu hướng của sự biến động giá trị văn hóa kinh doanh ở đô thị Đông Nam bộ đầu thế kỷ XX
dưới tác động của q trình Âu hóa.
Từ khóa: Âu hoá, giá trị, biến động, văn hoá kinh doanh, Đông Nam bộ.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong tiếng Việt, khái niệm “Âu hóa” được hiểu một cách thơng dụng là “làm cho trở
thành có tính chất châu Âu” (Hồng Phê, 1995, tr 22). Trong tiếng Anh, theo Oxford Advanced
American Dictionary, “Âu hóa” (Europeanize) là “Làm cho ai đó/ một cái gì đó cảm thấy hoặc
trở nên giống châu Âu”, hoặc “đặt một cái gì đó dưới sự kiểm sốt của Liên minh châu Âu”.
Đối với cư dân các nước phương Đông, khái niệm “châu Âu” còn được hiểu rộng ra là “phương
Tây” nói chung (bao gồm cả Mỹ: “Âu-Mỹ”) nên “Âu hóa” có thể được thay thế bằng “Tây
hóa”, “phương Tây hóa” (westernization). Với cách hiểu như vậy thì westernization “là một
quá trình mà các xã hội chịu ảnh hưởng hoặc tiếp nhận văn hóa phương Tây trong các lĩnh vực
như cơng nghiệp, cơng nghệ, luật pháp, chính trị, kinh tế, lối sống, chế độ ăn uống, trang phục,
ngôn ngữ, bảng chữ cái, tôn giáo, triết học và các giá trị khác.” (Tezenlo Thong, 2012, tr. 893).
Tiền đề quan trọng để có thể “Âu hóa” chính là sự gặp gỡ, tiếp xúc giữa hai nền văn hóa
Đơng - Tây và hệ quả tất yếu của sự tiếp xúc này là quá trình Tiếp biến văn hóa (acculturation).
Tiếp biến văn hóa là hiện tượng xảy ra khi những nhóm cộng đồng có văn hóa khác nhau tiếp
xúc giao lưu với nhau tạo nên sự biến đổi về văn hóa của một hoặc cả hai nhóm. Điều kiện quan
trọng để tạo được sự biến đổi này là nhất định phải có sự trao đổi, di chuyển, đan xen các giá


trị văn hóa và địi hỏi phải có sự biến đổi về mơ thức của nền văn hóa ban đầu. Đầu thế kỷ XX,
ở Việt Nam tại các đô thị lớn - đặc biệt là khu vực Đông Nam bộ, vùng đất non trẻ nhất nước
và đồng thời lại cũng là vùng đất trực trị của Pháp tại Việt Nam - đã diễn ra q trình Âu hóa
mạnh mẽ khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây, cụ thể ở đây là văn hố Pháp. Tuy nhiên, do sự
chi phối của loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp mà q trình Âu hóa ở đây có những đặc điểm
7


riêng biệt so với q trình Âu hóa của các quốc gia trong khu vực tạo nên sự biến động giá trị
văn hố. Thơng qua các phương tiện báo chí, văn chương, các hiệp hội, đồn thể… các doanh
nhân Đơng Nam bộ đầu thế kỷ XX đã tạo nên một phong trào đánh giá lại các giá trị văn hóa
kinh doanh truyền thống của người Việt, từ đó làm cơ sở để hướng dẫn cho nhau một đường
hướng kinh doanh mới theo mơ hình kinh doanh của phương Tây, tạo nên một sự biến động
mạnh mẽ trong nhận thức của cư dân nơi đây. Sự biến động giá trị văn hố kinh doanh ở Đơng
Nam bộ được diễn ra trên nhiều bình diện khác nhau nhưng tựu trung lại có thể thấy chủ yếu
tập trung vào hai phương diện chính: (1). Biến động giá trị trong nhận thức về văn hoá kinh
doanh và (2) Biến động giá trị trong phương pháp, kỹ năng, nghệ thuật kinh doanh.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành (cách tiếp cận liên ngành): Là một ngành
khoa học giáp ranh giữa khoa học xã hội và khoa học nhân văn, văn hoá học có thể được xem
là “ngành khoa học chuyên sâu đặc biệt”, tính đặc biệt của nó nằm ở chỗ văn hoá học là sự tổng
hợp và khái quát hoá thế giới con người về mặt định tính. Vì vậy, khơng có một khoa học xã
hội và nhân văn nào khơng liên quan đến văn hố học. Do đối tượng nghiên cứu của bài viết
“Sự biến động giá trị văn hố kinh doanh ở Đơng Nam bộ trong q trình Âu hoá đầu thế kỷ
XX” nằm ở giao điểm của Văn hoá học, Giá trị học, Kinh tế học, Nhân học, Xã hội học nên
việc sử dụng phương pháp liên ngành vào nghiên cứu là phù hợp và cần thiết. Nó cho phép sử
dụng các khái niệm, các lý thuyết, các kết quả nghiên cứu của các chuyên ngành trên vào hệ
thống, khái quát hoá các vấn đề mà bài viết đặt ra.
2.2. Phương pháp so sánh và đối chiếu: Để nghiên cứu“Sự biến động giá trị văn hoá
kinh doanh ở Đơng Nam bộ trong q trình Âu hố đầu thế kỷ XX”, tác giả phân loại tài liệu

theo các vấn đề chính được triển khai trong bài viết. Ở bước này, tác giả chủ yếu sử dụng
phương pháp phân loại - so sánh - đối chiếu, nhằm sắp xếp tài liệu một cách hợp lý thuận tiện
cho việc nhận định đánh giá về tình hình nghiên cứu ở các mảng vấn đề có liên quan.
2.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: Bài viết vận dụng phương pháp phân
tích - tổng hợp, phản biện - phê bình - đánh giá nhằm làm rõ giá trị của các nhận định liên quan
đến các vấn đề chính được đặt ra trong bài viết này. Trên cơ sở kế thừa kết quả từ những cơng
trình nghiên cứu đi trước, tác giả trình bày cách hiểu các khái niệm, kết hợp trình bày về mặt lý
luận và thực tiễn làm cơ sở triển khai đề tài nghiên cứu “Sự biến động giá trị văn hố kinh
doanh ở Đơng Nam bộ trong q trình Âu hố đầu thế kỷ XX”.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc trưng hoạt động kinh doanh ở Đơng Nam bộ thời kỳ tiền Âu hố
Trong xã hội truyền thống, người Việt chỉ chú trọng đến sự ổn định, an tồn mà khơng thích
phiêu lưu, mạo hiểm. Mong ước của người Việt truyền thống là có cuộc sống ấm no chứ khơng
phải là giàu có, mà kim chỉ nam cho việc xây dựng cuộc sống ấm no là tiết kiệm, là “thắt lưng
buộc bụng” chứ không phải là tư tưởng làm ăn lớn1.
Trong số hơn 5.038 quyển sách Hán Nôm được Trần Nghĩa và Phan Ngọc thống kê và phân loại thì khơng có
một quyển nào nói về nghề thương nghiệp cả (Đỗ Minh Cương, 2001, p. 255).
1

8


Ở Đông Nam bộ, lịch sử đã ghi lại sự phát triển rất sớm của các ngành nghề thủ công
nghiệp, tuy nhiên đó chỉ là những ngành nghề thủ cơng quy mô nhỏ mà người quản lý thường
là chủ gia đình. Trước khi tiến hành Âu hóa, nền kinh tế hàng hóa của Đơng Nam bộ về cơ bản
mang tính chất tự nhiên, mang đậm dấu ấn của nền kinh tế nơng nghiệp, nơng thơn. Tính chất
nơng nghiệp ấy thể hiện ở chỗ Đơng Nam bộ vẫn duy trì cách thức họp chợ trên sơng và hàng
hóa được mua bán trong những phiên chợ ấy vẫn chủ yếu là những sản phẩm nơng nghiệp và
hàng hóa được làm thủ cơng. Theo miêu tả của Louis Malleret, đến tận thế kỷ XIX mà cư dân
Sài Gòn vẫn sống chen chúc nhau trong những ngôi nhà lá ven các con sông (x. Hình 1), đường

sá thì hiếm hoi, ban đêm chỉ có một vài ngọn đèn dầu soi đường cho khách bộ hành (x. Hình
2), nơi nhộn nhịp nhất của Sài Gịn chính là các khu phố bn bán nằm ven sơng Thị Nghè và
các con rạch (x. Hình 3), ở những bến sơng đó có rất nhiều những “chiếc ghe chen chúc nhau
bên bờ sông tạo thành một thành phố nổi” (Malleret, 2004, tr. 106-111)

Hình 1: Rạch Thị Nghè những năm 60 của thế kỷ XIX
Nguồn: />
Hình 2: Đường phố Sài Gòn đầu thế kỷ XIX
Nguồn: />9


Hình 3: Bến đị của cư dân trên sơng Sài Gịn năm 1896
Nguồn: />Có thể thấy, trước khi tiến hành Âu hóa, nền kinh tế của Đơng Nam bộ nhìn chung vẫn là
một nền kinh tế thủ công nghiệp nông thơn làng xã quy mơ nhỏ thơ sơ mang tính chất gia đình,
chưa có được những cơ sở sản xuất cơng nghiệp với quy mơ lớn. Và cũng do hình thức giao dịch
chủ yếu là bán lẻ, trả tiền mặt nên khơng có tích tụ hàng hóa và vốn nên lúc này ở Đơng Nam bộ
vẫn chưa có tầng lớp đại phú thương người Việt - yếu tố quan trọng tạo nên diện mạo cho đô thị.
Tầng lớp đại phú thương ở Đơng Nam bộ thời kỳ tiền Âu hố hầu hết là những thương nhân người
Hoa với kinh nghiệm kinh doanh lão luyện, vô cùng nhanh nhạy với sự biến động của thời cuộc
và họ liên kết, hỗ trợ nhau rất chặt chẽ trong kinh doanh thông qua những tổ chức bang hội.
Bên cạnh nguyên nhân vốn và hàng hố thì nhận thức của người Việt về kinh doanh cũng
là một trở ngại không nhỏ cho việc phát triển hoạt động kinh tế ở đô thị khu vực này, lối tư duy
“ăn chắc mặc bền”, “buôn tàu buôn bè không bằng ăn dè hà tiện” đã khiến cho tầng lớp thương
nhân có thể gọi là giàu có ở Đơng Nam bộ không dám mạo hiểm bỏ hết vốn liếng ra để mở rộng
đầu tư kinh doanh mà họ luôn có xu hướng dùng tiền để mua ruộng đất. Nền kinh tế nông
nghiệp với quan niệm "tấc đất tấc vàng" đã ăn sâu vào nhận thức của nhiều thế hệ người Việt
nên đất đai là tài sản vô cùng quan trọng, tư tưởng càng có nhiều đất càng tốt và càng nắm trong
tay quỹ đất lớn thì càng chứng tỏ được sự giàu có với xã hội đã ăn sâu vào máu thịt họ. Mặt
khác, ôm đất không phải nơm nớp lo đánh rơi, bị trộm cướp. Chính vì vậy cho đến tận hiện nay
đất đai vẫn là kênh trú ẩn hàng đầu trong tư duy của người Việt. Chính lối tư duy “ăn chắc mặc

bền” này của người Việt đã khiến cho đơ thị Việt Nam nói chung và Đơng Nam bộ nói riêng
trước q trình Âu hố cứ mãi là một đô thị mang dáng dấp nông thôn, không thể bứt phá để
phát triển thành một đô thị phát triển mạnh về kinh tế thương nghiệp xứng đáng với vị thế là
một đô thị hàng đầu trên cả nước.
Về mặt quản lý, nếu như phương Tây hoặc Trung Hoa, Nhật Bản có những đơ thị mang
chức năng kinh tế từ rất sớm thì Đơng Nam bộ thời kỳ tiền Âu hố ln bị níu kéo bởi hai thế
lực: một bên là sự quản lý theo kiểu “trọng nông ức thương” của triều đình nhà Nguyễn, và bên
kia là sức mạnh níu kéo, bủa vây của cộng đồng làng xã nơng thơn. Chính sự co kéo hai đầu này
đã khiến cho Đông Nam bộ chưa thể vươn lên tồn tại như một đô thị tự do phát triển kinh doanh,
một đô thị mang chức năng kinh tế đúng nghĩa, một đơ thị khơng có tầng lớp đại phú thương, đại
10


tư bản người Việt và cũng chính vì vậy mà cộng đồng cư dân đô thị Đông Nam bộ cũng chưa thể
rũ bỏ được nguồn gốc nơng dân của mình để trở thành một cơng dân đơ thị đúng nghĩa.

Hình 4: Chợ Sài Gòn thế kỷ XIX.
Nguồn: />3.2. Sự biến động trong nhận thức về văn hoá kinh doanh của cư dân Đơng Nam bộ
Nhằm đẩy nhanh q trình khai thác thuộc địa, nhà cầm quyền Pháp đã có tác động trên
các lĩnh vực kinh tế như: thành lập hệ thống ngân hàng ở nhiều tỉnh thành Việt Nam (chi nhánh
Ngân hàng Đông Dương đầu tiên được thành lập ở Sài Gịn ngày 19-4-1875); xây dựng hệ
thống giao thơng cả đường bộ lẫn đường thủy; xây dựng một số nhà máy, xí nghiệp chế biến
nơng sản, sửa chữa tàu; mở các công trường khai thác mỏ…. Tất cả các hoạt động này vơ hình
trung đã làm cho nền kinh tế thuần nơng của Việt Nam có những biến động nhất định tạo điều
kiện cho người Việt tham gia vào cuộc cạnh tranh trên các lĩnh vực khai thác gỗ, khai thác mỏ,
vận tải… vốn là những lĩnh vực kinh doanh độc quyền của các nhà tư bản người Hoa, người
Pháp. Theo Nguyễn Cơng Bình, thống kê năm 1870 tại hai đô thị lớn của Đông Nam bộ là Chợ
Lớn và Sài Gịn cho thấy vẫn chưa hề có nhà bn và nhà sản xuất hàng hoá nào là người Việt
nhưng chỉ đến năm 1888 thì Chợ Lớn đã có 188 nhà bn và Sài Gịn có 102 nhà bn người
Việt (1959, tr. 22). Quá trình hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân người Việt xảy ra

đầu tiên tại đơ thị Sài Gịn - Chợ Lớn (từ nay sẽ gọi chung là Sài Gịn). Do Sài Gịn là đơ thị
trẻ, năng động, mối dây liên hệ với văn hóa truyền thống khá mỏng lại là vùng đất trực trị của
Pháp nên việc chuyển đổi giá trị văn hóa sang chiều hướng phương Tây có chiều hướng dễ
dàng, thuận lợi hơn so với các vùng khác trong cả nước. Cũng chính vì vậy mà khi phong trào
Duy tân diễn ra vào đầu thế kỷ XX, trong các lĩnh vực quan trọng nhất cần duy tân như giáo
dục, kinh tế, văn hóa… thì Sài Gịn tập trung vào duy tân kinh tế.
Do sớm tiếp cận với nền kinh tế hàng hóa của phương Tây, đầu thế kỷ XX những người
tiên phong trong phong trào Duy tân đã đã nhận ra sở dĩ phương Tây trở nên hùng mạnh như vậy
là do họ khơng những có một trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến mà họ cịn có một nền kinh tế
hàng hóa phát triển vượt bậc. Nhận định về những yếu kém của nền kinh tế Việt Nam, Lương
Văn Can – người được giới doanh nhân Việt xem là người Thầy đầu tiên dạy cho người Việt biết
cách thức kinh doanh một cách bài bản cho rằng: “Cổ nhân thường khinh sự bn là mạt nghệ,
bởi vì người xưa trọng đạo đức mà khinh công lợi, thấy người buôn bán tham lợi vơ yếm, ít có
nói thực, sợ mất cái lòng đạo đức đi, vả lại đời xưa thuỷ bộ giao thông chưa tiện lợi lắm, tin tức
11


chậm chạp, vận tải gian nan, buôn bán không được lợi lắm, cho nên thường khinh bỉ mà ít người
chịu làm…” (Lương Văn Can, 1928, Lời tựa). Nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh doanh đối
với sự phát triển của đất nước, Lương Văn Can đã chỉ rõ: “Đương buổi thế giới cạnh tranh này,
các nước phú cường không đâu mà chẳng đua tài thi sức ở trong trường thương chiến, văn minh
càng tiến bộ buôn bán càng thịnh đạt, buôn bán thịnh thời trong nước giầu mạnh khôn biết dâu
là cùng, buôn bán suy thời trong nước nghèo yếu khơng biết đâu mà kể, cứ xem cái trình độ buôn
bán một nước nào cao hay thấp, rộng hay hẹp thời xét được dân nước ấy giàu hay nghèo, văn
hay dã. Việc bn bán thịnh suy có quan hệ đến quốc dân thịnh suy như thế, ta há nên xem thường,
coi khinh” (Lương Văn Can, 1928, tr. 33). Trên nền tảng nhận thức mới đó, những doanh nhân
Việt thế hệ đầu tại Đông Nam bộ đã kêu gọi: “Nước nào ở dưới trời mà muốn chen vào chốn liệt
cường thì phải biết làm đủ thứ nghề tạo lập, làm ra đúc ra cho được rồi thì giữ cầm được thương
quyền, chở đồ của nước mình qua xứ mà bán, hoặc các nước đến xứ mình mà mua thì là thâu sự
giàu, sự mạnh là tiền bạc vô xứ” (dẫn theo Sơn Nam, 2003, tr. 247). Một phong trào Duy tân

kinh tế đã diễn ra rầm rộ tại Sài Gòn và lan ra khắp Nam kỳ đã diễn ra vào đầu thế kỷ XX mà nổi
bật nhất trong cuộc vận động Duy Tân kinh tế giai đoạn này là hoạt động thành lập Duy Tân công
ty. Trong bài báo “Duy Tân công ty”, Trần Chánh Chiếu – tiên phong của phong trào Duy tân
kinh tế ở Nam kỳ − đã kêu gọi mọi người “mở cuộc tác tân dân lập 20.000 phần hùn, mỗi phần
hùn 5 đồng mà thôi, chẳng phải là nhiều” nhưng cũng đủ để “dùng lập nhà nghề ra rước các thợ
về xứ dạy em cháu, trước bán đồ ra trong xứ rẻ, có đại lợi, sau lần lần kẻ đồng bang noi biết
nghề, lại sanh phương ra nữa thì trong năm năm cuộc hốn dân phải thành nghiệp cả mà chớ!
Ấy vậy tôi mở cuộc hùn này lấy hiệu là Duy tân cơng ty…” (Nơng Cổ Mín Đàm, 13/7/1907).
Các nhà Duy tân đã phân tích, chỉ ra cho người Việt ở Đơng Nam bộ nói riêng và Nam kỳ
nói chung thấy chính tâm lý coi thường kinh doanh mua bán của người Việt đã làm cho bao nhiêu
lợi nhuận kinh tế đều rơi vào trong tay của ngoại bang, từ đó kích thích người dân tích cực tham
gia vào hoạt động kinh doanh của Duy Tân công ty do Trần Chánh Chiếu đề xướng: “Cũng bởi
khi trước chê bai ngoại quốc những là hồn-noản chi khu, cịn mình thì kiêu-ngạo, gọi cẩm-tú
giang-san chi địa. Đến chừng cắt đất chia ranh, mới biết liệt cường là tại Trí. Trải xem lại ngoạiquốc; nước nào chẳng dụng nghề buôn là bực nhứt, chẳng khai tông-học mà văn minh, tệ thay có
một nước mình, cịn hãy mơ màng chưa tỉnh” (dẫn theo Sơn Nam, 2003, tr. 233). Sau khi vua Duy
Tân lên ngôi, để tránh phạm húy nên Trần Chánh Chiếu đã xin đổi tên Duy Tân thành Minh Tân.
Tiếp nối thắng lợi của Minh Tân công ty, đầu năm 1908 Minh Tân công nghệ được thành
lập với nhận thức là để học hỏi “lề lối quản trị giống như Tây phương đối với các xí nghiệp lớn.
Mục đích nhằm dạy cho con trẻ trong xứ cho biết nghề nghiệp, làm ăn dệt vủ, dệt hàng lụa, làm
pha ly, savon, thuộc da, đóng giấp v.v…” (Nơng Cổ Mín Đàm, ngày 25/2/1908). Theo Sơn
Nam, Minh Tân công nghệ “là công ty gồm nhiều cổ phần, đa số người đóng góp là giới điền
chủ và công chức, cổ động vào đầu năm 1908, thành lập công khai theo luật lệ hiện hành vào
ngày 1-6-1908 trong buổi họp tại văn phòng viên chưởng khế Aymard ở Sài Gòn với bản điều
lệ gần giống như các công ty của người Pháp lúc bấy giờ” (Sơn Nam, 2003, tr. 233). Chỉ trong
vòng chưa đầy nửa năm Minh Tân công nghệ đã thu hoạch được một số thành tựu hết sức đáng
phấn khởi: “Tháng 7-1908, mua đất xong và công ty cho người ra Bắc kỳ để học cách thức làm
hộp quẹt (quẹt diêm) và mướn thầy thợ; bạc thâu vô được gầm 9.000 đồng. Tháng 9-1908, xà
bông của công ty Minh Tân lại tung ra thị trường, cạnh tranh rất hiệu quả với xà bông trên thị
trường đồng thời, có thêm người đóng tiên mua cổ phần của công ty” (Sơn Nam, 2003, tr. 233).
12



Theo đà thắng lợi của Minh Tân công ty và Minh Tân cơng nghệ, Minh Tân khách sạn cũng
hình thành. Có thể nói, cơng cuộc Duy tân kinh tế tại Đơng Nam bộ đã góp phần quan trọng làm
biến đổi hệ giá trị văn hóa của người Việt từ chỗ chỉ chú trọng đến sự ổn định, an tồn, khơng
thích phiêu lưu, mạo hiểm sang một xã hội biết kinh doanh và bảo trợ kinh doanh. Chính nhờ
sự biến chuyển trong nhận thức của người dân Đông Nam bộ đầu thế kỷ XX về vai trị quan trọng
của văn hố kinh doanh đối với sự phồn thịnh của đất nước mà có thể nói, lần đầu tiên trong lịch
sử kinh doanh nước nhà, một phong trào duy tân kinh tế của xứ sở, đấu tranh để giành thế đứng
cho các cơ sở kinh doanh của người Việt trên chính quê hương của mình đã diễn ra vơ cùng sơi
nổi, nhận được sự hưởng ứng tham gia tích cực của đơng đảo người Việt.
3.3. Sự biến động trong phương pháp, kỹ năng, nghệ thuật kinh doanh của doanh
nhân Đông Nam bộ
3.3.1. Để khuếch trương nền kinh tế của xứ sở, các doanh nhân Đông Nam bộ đã linh
hoạt tận dụng triệt để mọi phương tiện vật chất của văn minh phương Tây để phục vụ cho mục
tiêu của mình và một trong những cơng cụ hữu hiệu nhất đó chính là Báo chí. cơ quan ngơn
luận chính của phong trào Duy tân kinh tế chính là tờ Nơng Cổ Mín Đàm. Với 81 số báo từ số
260 đến số 341, Nông Cổ Mín Đàm đã trở thành diễn đàn kinh tế chung của các độc giả Đơng
Nam bộ nói riêng và miền Nam nói chung. Các doanh nhân Đơng Nam bộ đã sử dụng Báo chí
để hướng dẫn cho nhau các kiến thức cơ bản trong lĩnh vực kinh tế, ví dụ trên lĩnh vực sản xuất
thì tờ Nơng Cổ Mín Đàm có các bài báo với nội dung hướng dẫn cách lập lò rượu, nấu rượu
trắng; cách chế biến cá biển, cách làm chuối khô; trên lĩnh vực nuôi trồng thì có các bài báo
hướng dẫn phương pháp trồng lúa nổi, trồng thuốc trong nước, trồng cao su, lấy mủ cao su;
cách diệt trừ loài chuột để chúng khỏi phá hoại mùa màng; cách phối giống và ni bị,… Ở
lĩnh vực kinh doanh mua bán, chiếm số lượng đáng kể trên Nơng Cổ Mín Đàm là những thơng tin
hướng dẫn người làm kinh doanh các kiến thức về các vấn đề thương nghiệp như quy định mở
công ty, các cách thức hợp tác, hùn hạp trong kinh doanh, các luật lệ cạnh tranh trên thương
trường… vốn là những kiến thức cịn khá xa lạ với đại đa số người Việt.

Hình 5. Quảng cáo trên Gia Định báo (số 22, 3/6/1890)

Bên cạnh việc sử dụng báo chí như một kênh hướng dẫn kiến thức về kinh doanh, sản
xuất, doanh nhân Đông Nam bộ cũng đã sớm biết dùng báo chí để quảng bá sản phẩm của
doanh nghiệp mình đến với rộng rãi người tiêu dùng. Hầu hết những tờ báo lớn ở Đông Nam
13


bộ đầu thế kỷ XX đều để dành “đất” trên tờ báo để làm trang quảng cáo. Nội dung thông tin
trong quảng cáo buổi ban đầu rất chân phương và đầy đủ, từ mô tả sản phẩm đến cách sử dụng,
đối tượng sử dụng, giá tiền, nơi bán…(Hình 5)
Qua những thông tin quảng cáo trên những tờ báo này, chúng ta có thể thấy đa phần những
mặt hàng được tiêu thụ, buôn bán nhiều trong xã hội thời bấy giờ chủ yếu là nhóm thực phẩm
có nguồn gốc phương Tây như sữa, bánh mì, rượu, muối, thuốc, thuốc lá,… mà một số nhãn
hiệu vẫn còn tồn tại và giữ được tín nhiệm của người tiêu dùng đến ngày nay như các sản phẩm
sữa, bột dinh dưỡng của Nestlé. Nghệ thuật quảng cáo trên báo chí ở Đơng Nam bộ cũng ngày
càng được thiết kế bắt mắt hơn với những “thủ thuật” gây ấn tượng như đóng khung, dùng font
chữ lớn, chữ cách điệu, có hình ảnh minh hoạ…để tạo sự chú ý cho độc giả (Hình 6).

Hình 6. Quảng cáo trên Phụ nữ tân văn (số 84, 28/5/1931, ảnh trái)
và Lục tỉnh tân văn (số 521, 28/2/1918, ảnh phải)
Càng về sau, nội dung quảng cáo càng ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Nếu như
buổi ban đầu chỉ có những quảng cáo thuốc, rượu, thực phẩm chiếm đa số thì chỉ sau vài năm
nhiều loại hình dịch vụ khác cũng xuất hiện trên các trang quảng cáo như nhà may Âu phục,
cửa hàng nữ trang, cho thuê phòng, thuê xe hơi, bán máy hát, bán đồng hồ, xe máy, chụp hình,
xây nhà, hớt tóc, vẽ chân dung… điều này cho thấy, chính nhờ biết dùng quảng cáo để phục vụ
cho việc phát triển kinh doanh mà các loại hình dịch vụ vừa mới hình thành mới có điều kiện
tiếp cận với người tiêu dùng và ngày càng phổ biến, góp phần làm hồn thiện cấu trúc của văn
hố kinh doanh với đầy đủ các hoạt động: Sản xuất – Mua bán – Dịch vụ. Có thể nói, chính sự
linh hoạt áp dụng các phương pháp kinh doanh mới lạ theo cách thức phương Tây của các doanh
nhân Đông Nam bộ đã góp phần làm biến đổi hệ giá trị văn hóa của người Việt, từ một nền kinh
tế tự cấp tự túc sang một nền kinh tế mở, phát triển, biết kinh doanh một cách năng động.

3.3.2. Học tập kinh nghiệm kinh doanh của các doanh nhân người Hoa, bên cạnh chiến
lược quảng cáo, hạ giá thành, các doanh nhân Việt cũng đã lập ra một số tổ chức hội bn với
mục đích hỗ trợ, liên kết với nhau như Trần Chánh Chiếu và Nguyễn Chánh Sắt đã mở ra Nam
Kỳ Minh Tân công nghệ, Nam Kỳ khách sạn, Nam Trung khách sạn, Minh Tân khách sạn. Ở
những cơ sở này, ngoài hoạt động kinh doanh khách sạn, các doanh nhân cịn nhiệt tình tư vấn
pháp luật, tổ chức các bài diễn thuyết về các đề tài duy tân kinh tế và mở lớp dạy kế tốn, bn
14


bán… cho những ai có nhu cầu. Cuối năm 1918, Hội Nam Kỳ Thương mại kỹ nghệ xã hội ra
đời với sự tham gia của các doanh nhân thành đạt như Nguyễn Văn Của, Trương Văn Bền...
với mục đích “Giữ gìn cho nhau sự giao thiệp trong cuộc thương mại và bằng bối. Chịu đựng
với nhau và giúp đỡ cho nhau trong cuộc thương mại và kỹ nghệ. Song trí người An Nam
chuyên về đường thương mại và kỹ nghệ, dìu dắt và giúp đỡ người An Nam bởi lời khuyên
khuyến khích và sự song trí khi người An Nam mới lập tiệm bn” (dẫn theo Nguyễn Cơng
Bình, 1959, tr.111). Tiếp theo đó, năm 1919, Hội Thương mại An Nam (Société Commerciale
Annamite) và tổ chức Hội nghị Kinh tế Nam Kỳ (Congrès Économique de la Cochinchine)
được thành lập quy tụ đại diện của 16 tỉnh ở miền Nam. Chính nhờ sự đấu tranh chống lại sự
o ép của nhà cầm quyền Pháp cũng như tư bản Hoa Kiều của những hiệp hội này mà những
doanh nhân Việt mới có cơ hội được hoạt động và phát triển một cách chuyên nghiệp, ngày
càng có thêm chỗ đứng và đủ lực để tiến tới cạnh tranh, giành thị phần với tư bản Hoa kiều,
Ấn kiều trên chính xứ sở của mình.
3.4. Những phi giá trị nảy sinh từ sự biến động giá trị văn hố kinh doanh ở đơ thị
Đơng Nam bộ đầu thế kỷ XX
Bên cạnh những thành tựu đạt được bước đầu, phương thức hoạt động đấu tranh giành lại
thị trường trong nước từ trong tay các doanh nhân người Hoa, người Ấn,… của các doanh nhân
Việt cũng bắt đầu có phần thái quá và có nguy cơ dẫn đến bạo lực, khơng giống như tính cách
ơn hồ vốn có của người Việt. Từ chỗ chưa biết gì về kinh doanh buôn bán, các doanh nhân Việt
buổi đầu đã phải tự mị mẫm, học hỏi kinh nghiệm từ chính những doanh nhân Hoa kiều, Ấn kiều,
thế nhưng đến khi cần phải khuếch trương kinh doanh thì thái độ của doanh nhân Việt đối với

doanh nhân Hoa kiều, Ấn kiều lại thay đổi. Trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày thậm chí là cả
trên báo chí, người Ấn được gọi là “Chà”, người Hoa được gọi là “Chệt” hay “Chệc” hoặc
“Khách”, “Khách trú”… với ý miệt thị. Từ năm 1918, cùng với phong trào đẩy mạnh các hoạt
động công thương nghiệp, trên các báo bắt đầu xuất hiện các bài viết chỉ trích người Hoa là những
người “sang ăn gửi nằm nhờ” nhưng đã chiếm hầu hết những mối lợi về kinh tế của người Việt
(Thượng Chi, 1919, tr. 228). Đỉnh điểm của sự cạnh tranh này là sự kiện “Tẩy chay Khách trú”
hay “Để chế đồ hàng Khách” bùng nổ vào tháng 8.1919 tại Sài Gòn, tiếp theo là Thủ Dầu Một
rồi nhanh chóng bùng nổ khắp Đơng Nam bộ và phong trào nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ
của cư dân ở các đô thị lớn của cả ba miền. Theo Phạm Quỳnh, “Tẩy chay” là tiếng của người
Quảng Đông đọc hai từ “Để chế”. Để chế nghĩa là kháng cự, ngăn cầm kẻ nghịch, kẻ thù mình,
nghĩa là tuyệt giao với người mình khơng ưa, nhất là đường giao dịch buôn bán. (Thượng Chi,
1919, tr. 227). Phản ứng lại phong trào tẩy chay này, các nhà buôn Hoa kiều liền tăng giá thuê
nhà ở các phố lớn để người Việt không thể thuê được nhà của họ để sinh sống và kinh doanh,
thẳng tay đuổi nhiều người Việt đang làm công trong các nhà máy xay xát gạo của họ… Họ đến
biểu tình trước trụ sở tờ báo Tribune Indigène và đỉnh điểm là ngày 25 tháng 8 có 7 người Hoa
đã “vác gạch lượm vơ qn Thời Báo” (Công Luận báo, 9/9/1919, tr.2)… Cuộc đấu tranh giữa
hai bên càng lúc càng căng thẳng, có lúc q khích đã dẫn đến sự xung đột của học sinh với cảnh
sát (Nam Phong 9/1919, tr. 281-282), vì vậy ngày 15/9/1919 Chánh tham biện chủ tỉnh thành phố
Chợ Lớn đã đăng yết thị “ngăn cấm những việc hung bạo và các sự húng hiếp, ép buộc làm cho
người người mất sự tự do trong việc làm ăn của mình” (Lục tỉnh tân văn, 22/9/1919, tr.2). Tuy
rằng phong trào tẩy chay này bị nhà cầm quyền đánh giá là “có phần cực đoan” thế nhưng trong
báo cáo chính trị của Phủ Tồn quyền Đông Dương năm 1919 họ cũng thừa nhận: “tuy rằng quá
15


trớn, nhưng cũng có ý nghĩa rằng tư tưởng đã đổi mới, mới đây ít năm thì người Nam Kỳ chẳng
những khơng thích mà cịn sợ cái việc bn bán, bây giờ thì họ thấy thương mại quan trọng cho
họ và họ cần phải cố gắng trên cái hướng này” (Dẫn theo Dương Trung Quốc, 2005, tr.16-17).
4. KẾT LUẬN
Từ bức tranh tổng quan về quá trình biến động giá trị văn hố kinh doanh ở Đơng Nam

bộ đầu thế kỷ XX, có thể thấy ở Đơng Nam bộ đầu thế kỷ XX đã diễn ra sự biến động giá trị
văn hóa rất mạnh mẽ dưới tác động của q trình Âu hóa. Dù rằng về cách thức thực hiện, q
trình Âu hóa ở Đơng Nam bộ đầu thế kỷ XX có mang tính chất tự phát, phần nào manh mún,
thụ động, thiếu sự kiểm sốt, điều phối từ phía nhà nước. Do hồn cảnh riêng của mình mà ở
Đơng Nam bộ nói riêng và các đơ thị lớn trong cả nước nói chung, phong trào Âu hóa chủ yếu
là do tầng lớp trí thức và doanh nhân thực hiện. Chính bởi tính chất tự phát, thiếu cái nhìn hệ
thống và khơng có kế hoạch, khơng được định hướng bài bản đã khiến cho những giá trị tích
cực và những phi giá trị tồn tại đan xen vào nhau trong quá trình Âu hóa. Những ảnh hưởng
tích cực là động lực của sự phát triển cho vùng đất này, chính “Âu hóa” đã mở rộng và làm
phong phú thêm những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần theo mơ hình văn hóa phương Tây
cho người dân nơi đây, đem đến cho họ một nền kinh tế hàng hóa đơ thị, một cơ sở hạ tầng theo
xu hướng đô thị hóa, hiện đại hóa và cũng chính sự biến động giá trị này đã góp phần hồn
thiện kiểu tính cách “năng động, sáng tạo” của người Đông Nam bộ những năm đầu thế kỷ XX.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Bình (1959). Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc. Hà Nội: Nhà xuất
bản Văn - Sử - Địa.
2. Lương Văn Can (1928). Thương học phương châm. Hà Nội: Nhà in Thuỵ ký.
3. Đỗ Minh Cương (2001). Văn hoá kinh doanh và triết lý kinh doanh. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia
4. Thượng Chi (1919). Bàn về việc tranh thương với người Khách - Bắc Kỳ nên lập một Thương Hội
lớn. Nam Phong tạp chí, tập 27, tr. 226-228.
5. Louis Malleret (2004). Hình ảnh xưa của Sài Gòn. In trong: Tỉnh thành xưa ở Việt Nam. Nhà xuất
bản Hải Phòng.
6. Sơn Nam (2003). Phong trào Duy tân ở Bắc Trung Nam. TP. HCM: Nhà xuất bản Trẻ.
7. Hoàng Phê (cb) (2003). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng: Trung tâm Từ điển học.
8. Dương Trung Quốc (2005). Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945). Hà Nội: Nhà xuất bản
Giáo dục.
9. Tezenlo Thong. (2012). To Raise the Savage to a Higher Level: The Westernization of Nagas and
Their Culture. Modern Asian Studies 46, (no.4), 893-918 p.


16



×