Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Giáo trình Dân tộc học, tôn giáo học: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.42 KB, 73 trang )

Chương 6
QUAN HỆ DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI
VÀ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
6.1. Các xu hướng của quá trình tộc người trên thế giới và ở Việt Nam
6.1.1. Các xu hướng của quá trình tộc người trên thế giới
Quá trình tộc người là quá trình vận động, biến đổi của tộc người trong những
điều kiện lịch sử cụ thể và trong tồn bộ tiến trình lịch sử trước sự tác động của các
yếu tố tự nhiên và xã hội. Quá trình tộc người trên thế giới ln ln vận động và
biến đổi không phải ngẫu nhiên, tuỳ tiện mà tuân theo hai xu hướng cơ bản là xu
hướng liên hợp tộc người và xu hướng phân tách tộc người.
Xu hướng liên hợp tộc người (liên kết, đoàn kết, hợp nhất tộc người). Đây là
xu hướng đặc trưng, chủ đạo của quá trình tộc người, phản ánh quy luật khách quan
của lịch sử phát triển tộc người, thúc đẩy sự hình thành các quốc gia dân tộc. Xu
hướng này bao gồm 3 dạng thức: cố kết tộc người, hoà hợp tộc người và đồng hoá
tộc người cả đồng hoá tự nhiên và đồng hoá cưỡng bức.
Xu hướng phân tách tộc người (phân ly, phân chia tộc người). Đây là xu
hướng của quá trình tộc người từ một tộc người chia tách ra thành các cộng
đồng tộc người độc lập. Xu hướng phân tách bắt đầu ngay từ thời công xã
nguyên thuỷ, đó là sự chia tách các thị tộc, bộ lạc thành các bào tộc. Sau đó,
trong q trình thiên di tiếp tục chia tách tộc người. Trong xã hội có giai cấp, do
bị áp bức, bóc lột, ý thức tộc người phát triển - đặc biệt thời kỳ cận đại, các tộc
người muốn tách ra thành lập quốc gia riêng. Sự thiên di tộc người càng mạnh
thì phân li tộc người càng nhiều.
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân: lịch sử để lại, sự bừng tỉnh ý thức dân
tộc, sự lợi dụng của chủ nghĩa đế quốc... xu hướng li khai tộc người, dân tộc
đang nổi lên ở một số quốc gia, nhất là ở châu Âu.
Cả hai xu hướng trên đều là xu hướng cơ bản, diễn ra đồng thời, đan xen,
lồng xoắn vào nhau phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng tộc người, đều phản
ánh xu thế vận động biện chứng, khách quan của lịch sử trước sự tác động của
các yếu tố tự nhiên và xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản, do mục đích vụ lợi của nó,


Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


cả hai xu hướng đều bị ngăn cản; dưới chủ nghĩa xã hội, cả hai xu hướng đó đều
được tơn trọng và phát huy tác dụng.
6.1.2. Các xu hướng của quá trình tộc người ở Việt Nam
Quá trình tộc người ở Việt Nam cũng tuân theo hai xu hướng trên, nhưng
có những đặc thù của nó.
Xu hướng liên hợp tộc ngườiX, được thể hiện ở q trình cố kết, hồ hợp
và q trình đồng hố. Q trình cố kết, hồ hợp là quá trình chủ đạo ở nước ta,
diễn ra đồng khắp và mạnh mẽ trong suốt quá trình hình thành, phát triển của
dân tộc Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu khách quan của điều kiện tự nhiên lịch
sử phải cố kết thành dân tộc.
Q trình đồng hố cũng diễn ra phổ biến ở Việt Nam cả đồng hoá tự nhiên và
đồng hố cưỡng bức. Trong các thời kì đều có một bộ phận tộc người thiểu số đồng
hố vào người Việt và sự đồng hoá giữa các tộc người thiểu số, có lúc người Việt cư
trú ở vùng các dân tộc thiểu số và bị đồng hoá tự nhiên. Trong thời kỳ đô hộ, xâm
lược Việt Nam, người Hán, người Pháp, người Mỹ thực thi chính sách đồng hố
cưỡng bức các tộc người Việt Nam Nhưng nhờ có ý thức tộc người, dân tộc của các
tộc người Việt Nam mà chính sách đồng hố của chúng khơng thực hiện được. Các
tộc người ở Việt Nam không những không bị đồng hố mà cịn tiếp biến văn hố,
làm giàu văn hố của mình.
Xu hướng phân tách tộc người cũng đã, đang diễn ra ở Việt Nam. Nhiều tộc
người trong quá trình phát triển đã phân chia thành nhiều ngành như: Người Thái
chia ra Thái trắng, Thái đen; Hmơng (có đen, đỏ, xanh, Hoa); Dao (ngành Đại
bản, tiểu bản, Quần trắng, Thanh y, Quần chẹt, áo dài, Cóc ngáng, Cóc mùn);
Bru - Vân kiều (ngành Vân kiều, Tri, Măng con); Xinh mun có Dạ, nghẹt.. .Hiện
nay, các tộc người được tơn trọng lợi ích, bản sắc văn hóa, ngơn ngữ, phong tục,
tập quán...trong quan hệ với các tộc người khác và trong quốc gia dân tộc Việt
Nam

Hiện nay, hai xu hướng này cũng được tôn trọng, phát huy, Đảng, Nhà
nước có quan điểm, chính sách đúng đắn nên q trình tộc người và quan hệ tộc
người ở nước ta cơ bản ổn định, tốt đẹp, vận động theo xu hướng Đoàn kết,
thống nhất. Mặt khác, các tộc người được bảo lưu lợi ích, bản sắc văn hóa, phát
triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, phồn vinh, hạnh phúc, đấu tranh chống
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


các thế lực phản động chia rẽ các dân tộc Việt Nam nhằm thực hiện mục đích, ý
đồ chính trị của chúng.
6.2. Quan hệ dân tộc, sắc tộc trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay
6.2.1. Quan hệ dân tộc, sắc tộc trên thế giới hiện nay
Trong quá trình tộc người, các tộc người vận động, biến đổi tất yếu có
mối quan hệ với nhau. Đó chính là là quan hệ tộc người, dân tộc
Quan hệ dân tộc là sự gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các
tộc người trong quốc gia đa tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong
quan hệ quốc tế, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như quan hệ về
lãnh thổ, chính trị, kinh tế, văn hố, ngồi giao, qn sự...
Theo Từ điển tiếng Việt quan hệ sắc tộc là quan hệ giữa các cộng đồng
người có sự khác biệt nào đó về ngơn ngữ, văn hố, tín ngưỡng, tơn giáo, tộc
người, dân tộc, chủng tộc (thường hàm ý miệt thị, theo quan điểm kì thị dân tộc,
chủng tộc).
Quan hệ dân tộc, sắc tộc là mối quan hệ đa dạng, sinh động phụ thuộc vào
điều kiện lịch sử cụ thể, diễn ra trên mọi lĩnh vực, phản ánh cả những vấn đề lịch sử
và hiện tại, quốc gia và quốc tế; là vấn đề thực tế, rất nhạy cảm, tế nhị bởi nó đụng
chạm đến tâm lí ý thức, lợi ích, bản sắc văn hố tộc người, dễ bị kẻ thù kích động,
chống phá; là vấn đề phức tạp, và còn tồn tại lâu dài.
Ngày nay quan hệ dân tộc, sắc tộc đang diễn ra khá phức tạp, là vấn đề nóng
bỏng vừa mang tính tồn cầu, vừa là vấn đề nổi cộm của nhiều quốc gia dân tộc.
Các điểm nóng diễn ra ở khắp các châu lục với nhiều hình thức và cấp độ khác

nhau.
ở châu Âu, xung đột dân tộc vẫn xảy ra ở nhiều nơi như: ở Nam tư: xung
đột giữa SécbiBoxnhia Hécxgôvina và Crôát, li khai của người Anbani ở
Côxôvô; Tỉnh tự trị Nagor nưi Carabắc: người Ácmêni và Azécbaigian căng
thẳng, xung đột; bắc AiLen: cộng đồng người Tin Lành xung đột với cộng đồng
người Thiên chúa giáo; ở Đảo Ccxơ (Pháp): xung đột giữa người Síp gốc Thổ
với người Síp gốc Hilạp, và xung đột giữa người theo Hồi giáo và Công giáo ở
nhiều nước châu Âu.
ở châu Á, tình hình quan hệ dân tộc, sắc tộc cũng khơng kém phần phức tạp:
Trécsnia địi tách khỏi Liên bang Nga; Người Cuốc li khai ở I Rắc, Thổ để thành
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


lập nhà nước Kuốcđixtan; ở Ápgaxtan lực lượng Taliban và Ma sút; ở Trung đông
Palextin và Ixraen; Đông Timo; phong trào Mo rơ ở Phi líp pin…
ở châu Phi, nhiều cuộc xung đột nổ ra, sát hại nhau rất dã man như ở
Ugan đa, Bunrundi: xung đột giữa người Hu tu với người Tút xi; ở Angiêri, Xu
Đăng, Ai cập: Phong trào Hồi giáo cực đoan.
ở châu Mỹ và châu Đại dương, nổi lên sự xung đột tộc người, chủng tộc,
tệ phân biệt chủng tộc giữa người gốc Âu và thổ dân.
Xung đột dân tộc để lại hậu quả, tổn thất nặng nề về kinh tế, chính trị, văn
hố, xã hội, mơi trường, đe doạ hồ bình an ninh khu vực và thế giới; gây chia rẽ
lực lượng cách mạng tiến bộ.
Tình hình xung đột dân tộc, sắc tộc diễn ra phức tạp trong những năm gần
đây, hiện nay do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, do mâu thuẫn lợi ích tộc người, dân tộc (lãnh thổ, tài nguyên,
quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hố) đã tồn tại lâu đời trong lịch sử hoặc mới
nảy sinh. Hai là, do sai lầm về đường lối, chính sách của đảng cầm quyền và của
nhà nước trong giải quyết vấn đề dân tộc nhất là việc duy trì quan hệ bất bình
đẳng giữa các tộc người trong quốc gia, và với các quốc gia khác; chính sách

kinh tế - xã hội khơng đúng đắn gây bất bình đẳng giữa các tộc người, các dân
tộc. Ba là, do sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực và phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế phần nào làm suy giảm sự tương trợ vật chất, tinh thần,
nhất là làm mất định hướng chính trị. Bốn là, do âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch ln tìm mọi cách để chia rẽ, lợi dụng, kích động
mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc để chống phá nhằm thực hiện mục đích chính trị của
chúng. Năm là, do hệ quả tiêu cực của cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ hiện
đại thúc đẩy xu thế tồn cầu hoá, quốc tế hoá đe dọa xu thế độc lập, tự chủ, tự lực,
tự cường của các tộc người, dân tộc...vừa làm cho xu hướng liên kết tăng lên,
đồng thời cũng làm cho xu hướng ly khai phát triển.
6.2.2. Quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, cùng với quá trình tộc người, quan hệ tộc
người ở Việt Nam cũng hình thành, phát triển đa dạng và phức tạp. Đặc điểm chủ
yếu của quan hệ tộc người ở nước ta là đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, từ khi có Đảng truyền thống và sức mạnh của
dân tộc ta đã được phát huy cao độ đưa dân tộc ta phát triển lên một trình độ mới
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


- dân tộc xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, truyền thống đó
tiếp tục được phát huy, phấn đấu cho mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới là hết sức quan trọng
như: quyền bình đẳng từng bước được thực hiện trên thực tế; đồn kết tộc người
khơng ngừng được củng cố tăng cường; kinh tế hàng hố được hình thành và
phát triển; nhiều chính sách, cơng trình được thực hiện làm cho kết cấu hạ tầng
kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số được xây dựng, phát triển; cơng tác xố
đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, văn hố thu được thành tựu quan trọng; Hệ
thống chính trị được củng cố, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định; Quốc phòng
an ninh được giữ vững.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quan hệ dân tộc ở nước ta hiện
nay vẫn còn các vấn đề cần phải tiếp tục được quan tâm giải quyết giải quyết: đó
là kinh tế vùng dân tộc thiểu số còn chậm phát triển; tỷ lệ đói nghèo cao. Sự
chênh lệch trên thực tế về trình độ phát triển kinh tế, văn hố, xã hội giữa miền
núi và miền xuôi, giữa cá dân tộc người thiểu số với đa số. Trình độ dân trí cịn
nhiều hạn chế, sự tồn tại của nhiều tập tục cũ trong cộng đồng các dân tộc. Một
số vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng các công, nông, lâm trường; nạn du canh,
du cư, khai thác rừng bừa bãi; vấn đề di dân tự do, tranh chấp về quyền lợi giữa
đồng bào đi xây dựng kinh tế mới với đồng bào tại chỗ; tư tưởng ly khai đã xuất
hiện trong một bộ phận tộc người, đã xuất hiện các điểm “nóng” về dân tộc, tơn
giáo…nếu khơng kịp thời phát hiện và có biện pháp giải quyết đúng đắn thì có
thể xảy ra xung đột.
Những vấn đề nổi cộm, phức tạp về quan hệ dân tộc còn tồn tại trên đây
do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.Về khách quan là do
điều kiện tự nhiên, lịch sử các tộc người và sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch. Về chủ quan, là do nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề dân
tộc; những chính sách về dân tộc còn nhiều bất cập; chỉ đạo tổ chức thực hiện có
mặt, có khâu chưa phù hợp; hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở cịn yếu kém; tình
trạng quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ cơng chức ít nhiều làm giảm lịng
tin đối với đồng bào dân tộc.
6.3. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
6.3.1. Quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng, Nhà nước ta
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc; từ mục đích, yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; từ vị trí chiến lược của miền
núi, biên giới hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người về kinh tế, chính trị, văn
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11



hố, xã hội, quốc phịng - an ninh, đối ngoại; từ bài học kinh nghiệm quý báu
trong giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trong các giai đoạn cách mạng trước
đây. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn
đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta
ln có quan điểm nhất qn: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tơn
trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển
đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam".
Trong thời kỳ mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước,
Nghị quyết Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định đường
lối chiến lược “phát huy sức mạnh toàn dân tộc”, coi “đại đoàn kết dân tộc trên
cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức do Đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất nước”, để “phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của toàn bộ nền kinh tế, của toàn xã hội”, Đảng ta
xác định: Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng. Mục tiêu chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc; phát
huy tinh thần cách mạng và năng lực sáng tạo của các dân tộc trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; tạo mọi điều kiện để các dân tộc
phát triển trên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển
chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tư tưởng chỉ đạo cơ bản, xuyên
suốt trong quan điểm, chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay là “thực hiện bình
đẳng, đồn kết, tơn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển” giữa các dân tộc.
Thực hiện tốt mục tiêu cũng như những tư tưởng chỉ đạo trênT, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX xác định
một số quan điểm sau:
Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài, đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Hai là, các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam bình đẳng đồn kết
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa, đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
Ba là, phát triển tồn diện chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn dân tộc và miền núi.
Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và
miền núi, khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh từng vùng, đi đôi với bảo vệ
bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương
và sự tương trợ, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Năm là, cơng tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của tồn bộ hệ thống chính trị, nhưng trước hết là
sự nghiệp của chính đồng bào các dân tộc định cư ở đó.
6.3.2. Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay tập trung vào việc:
khắc phục sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc;
nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá các dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kỳ thị, chia rẽ dân
tộc, lợi dụng vấn đề dân tộc để gây mất ổn định chính trị - xã hội, chống phá cách
mạng; thực hiện bình đẳng, đồn kết, tơn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa
các dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm cho tất cả các dân tộc ở
Việt Nam đều phát triển, ấm no, hạnh phúc.
Một là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phù hợp với đặc
điểm, điều kiện từng vùng, đảm bảo cho đồng bào khai thác được thế mạnh của
địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới đất
nước. Chính sách này được thể hiện ở việc xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất
đai, gắn với môi trường sống của đồng bào các dân tộc thiểu số; khắc phục về
căn bản tình trạng tranh chấp ruộng đất và di cư tự do ở các vùng dân tộc thiểu
số. Đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng; đổi mới
cơ chế quản lý cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên từng vùng, từng

dân tộc.
Hai là, Có chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục đào tạo, coi
trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số. Phát triển giáo
dục đào tạo nâng cao dân trí, đưa tiến bộ khoa học cơng nghệ vào phát triển sản
xuất: tập trung xoá mù chữ, chống tái mù chữ, giữ vững phổ cập tiểu học; nâng
cao chất lượng các trường, lớp nội trú; có chính sách ưu tiên tuyển chọn cán bộ
dân tộc vào các trường đào tạo bậc đại học, cao đẳng, dạy nghề. Thực hiện miễn
giảm học phí cho con em người dân tộc thiểu số trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Thực hiện tốt chế độ chính sách khuyến khích cán bộ, trí thức người dân
tộc thiểu số, cán bộ, trí thức cơng tác vùng sâu, vùng xa, vùng cao; thu hút các
nhà khoa học phục vụ có hiệu quả đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, kế thừa và phát triển những giá trị văn hoá của cộng đồng dân tộc
Việt Nam và từng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại, xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng bào các dân
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


tộc thiểu số cần được thông tin về thời sự, chính sách, những thành tựu văn hố
tiên tiến…bằng ngơn ngữ phổ thơng và ngơn ngữ dân tộc mình. Tạo điều kiện
thuận lợi để quần chúng bảo vệ, kế thừa phát huy những truyền thống tốt đẹp,
bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan cản trở sự tiến bộ của các dân tộc;
đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hoá hiện đại một cách chọn lọc. Thực hiện
tốt việc chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa,
vùng cao.
Bốn là, có chính sách quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ
cách mạng và kháng chiến cũ, từng bước ngăn chặn tình trạng suy giảm dân số, mức
sống của một số dân tộc. Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã
hội; đồng thời thực hiện tốt các chương trình quốc gia về chăm sóc sức khoẻ cho
đồng bào. Thực hiện chính sách ưu đãi những mặt hàng thiết yếu như gạo, muối,
nhiên liệu thắp sáng, thuốc chữa bệnh, dịch vụ văn hố, văn nghệ; giải quyết nhanh

chóng nhu cầu nước sinh hoạt cho đồng bào vùng cao. Thực hiện mạnh mẽ chương
trình dân số và kế hoạch hố gia đình.
Tóm lại, vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc là vấn đề rất hệ trọng
của bất cứ quốc gia dân tộc nào. Nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề dân
tộc ở Việt Nam có ý nghĩa quyết định đến sự tồn vong của chế độ, sự thành bại
của cơng cuộc đổi mới đất nước. Địi hỏi phải phát huy sức mạnh của tồn hệ
thống chính trị và ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc đồn kết,
thống nhất trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
Câu hỏi ôn tập:
1. Quan hệ dân tộc, sắc tộc trên thế giới hiện nay?
2. Quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay?
3. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay?

Chương 7
Nguồn gốc, bản chất, chức năng xã hội của tôn giáo
7. 1. Nguồn gốc, bản chất của tôn giáo
7.1.1. Khái niệm tôn giáo.
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


Trong đời sống hiện thực, khi nói về hiện tượng tơn giáo, thường xuất hiện ba
thuật ngữ có quan hệ với nhau: tín ngưỡng, tơn giáo, mê tín dị đoan.
Tín ngưỡng là lòng tin và sự ngưỡng mộ của con người vào lực lượng
siêu nhiên có vai trị tồn năng đối với con người. Người tín ngưỡng tin vào sự
có thực của lực lượng siêu nhiên thần bí, vơ hình đang che chở, giải thoát họ
khỏi mọi tai ương, trắc trở hoặc tránh được sự trừng phạt trong cuộc sống hàng
ngày, như: lòng tin vào sự che chở của tổ tiên, của các vị thần. Tín ngưỡng là cơ
sở nảy sinh các hình thức thờ cúng tổ tiên, thành hồng và các hình thức tơn
giáo khác.
Tơn giáo Tà hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, bao gồm ý thức tôn giáo,

hoạt động tôn giáo và tổ chức tôn giáo, mà sự tồn tại và phát triển của nó là do sự
phản ánh hư ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người.
Về mặt quản lý nhà nước, để thừa nhận là một tổ chức tôn giáo phải có đầy
đủ các yếu tố sau: Có người sáng lập, có giáo thuyết, giáo lý, giáo luật; Có tổ
chức giáo hội, có người hoạt động nghề nghiệp; Có tín đồ, lễ hội và có cơ sở vật
chất thờ tự.
Mê tín dị đoan là lịng tin một cách mù qng, mê muội vào lực lượng
thần thánh, ma quỷ, khơng có sự kiểm sốt của lý trí và thường có những hành
vi trái với chuẩn mực xã hội, làm tổn hại về kinh tế, tinh thần và thể lực của con
người, như các hiện tượng: đồng bóng, gọi hồn, tướng số...
Tín ngưỡng, mê tín dị đoan và tơn giáo về cơ bản đều tin vào lực lượng
siêu nhiên, thần bí có sức mạnh toàn năng đang chi phối đời sống con người.
Song tín ngưỡng, tơn giáo, mê tín dị đoan cũng có sự khác nhau. Tín ngưỡng,
theo nghĩa hẹp là niềm tin vào lực siêu nhiên, là một bộ phận của tơn giáo, mê
tín dị đoan. Tín ngưỡng được coi là một tơn giáo khi nó có đủ các yếu tố của
một tơn giáo. Tín ngưỡng, tơn giáo sẽ trở thành mê tín dị đoan khi lịng tin bị mê
muội và có những hành vi cuồng tín, cực đoan, phản văn hoá gây hậu quả tiêu
cực về tinh thần, thể xác, kinh tế của cá nhân và xã hội…không được các tôn
giáo thừa nhận và bị pháp luật nghiêm cấm.
7.1.2. Nguồn gốc tôn giáo
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


7.1.2.1. Nguồn gốc xã hội
Do trình độ sản xuất thấp kémD, con người bị lệ thuộc và bất lực trước
tự nhiên như mưa bão, lũ lụt, sấm sét, dịch bệnh…và trước sức mạnh xã hội, sự
áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị, sự tàn sát của chiến tranh, sự thất bại trong
các cuộc đấu tranh chống áp bức, nô dịch đè nặng lên cuộc sống con người, làm
cho họ tìm đến với thần thánh và hy vọng được che chở, cứu vớt, giải thoát ở thế
giới “thiên đường”. V.I. Lênin khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột

trong cuộc đấu tranh chống bóc lột đẻ ra lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn
ở thế giới bên kia, cũng giống hệt như sự bất lực của người dã man trong cuộc
đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra niềm tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những
phép màu”3. Cho nên, còn sự bất lực trước sức mạnh tự nhiên, sức mạnh xã hội
thì tơn giáo cịn tồn tại.
7.1.2.2 Nguồn gốc nhận thức
Do trình độ nhận thức cịn thấp kém, con người khơng lý giải được các
hiện tượng đầy bí ẩn của thế giới khách quan, họ đã tưởng tượng, và gán cho nó
sức mạnh siêu tự nhiên, tạo ra các vị thần chi phối thế giới xung quanh. Ph.
Ăngghen đã viết: “Sự nhân cách hoá các lực lượng tự nhiên làm nảy sinh ra
những vị thần đầu tiên”4.
Mặt khác, nhận thức là một quá trình biện chứng phức tạp, chứa đựng
những yếu tố suy diễn, tưởng tưởng xa lạ với hiện thực khách quan, làm nảy
sinh ảo tưởng hư ảo, hoang đường…trong đó có tơn giáo. Vì thế, tơn giáo chỉ
xuất hiện khi trình độ tư duy trừu tượng của con người đã phát triển đến mức đủ
khả năng để những quan niệm tạo nên các biểu tượng tơn giáo, các vị thần có
quyền lực khơng hạn chế, có quyền năng tối cao.
7.1.2.3. Nguồn gốc tâm lý
Những trạng thái tâm lý tiêu cực như sự sợ hãi, cơ đơn, bất hạnh, đau
khổ, kinh hồng, chán nản, nhất là sợ hãi trước cái chết; lòng biết ơn, sự kính
trọng, sự hài lịng và sự ngưỡng mộ trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, xã hội
cũng là một trong những nguồn gốc nảy sinh tôn giáo.
3. V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, tập 12, tr.169.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 21, tr. 403-404.

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


V.I. Lênin cho rằng: “sự sợ hãi của quần chúng trước những thế lực mù
quáng của thiên nhiên, của sự áp bức, bóc lột, bất cơng của giai cấp thống trị

đang hàng ngày, hàng giờ đe doạ, đem lại cho họ “sự phá sản “đột ngột”, “bất
ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn xin,
một kẻ bần cùng và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của
tơn giáo hiện đại”5.
Ngoài ra truyền thống, phong tục, tập quán, thói quen cũng là những nguyên
nhân tâm lý dẫn đến sự hình thành và phát triển tình cảm, niềm tin tôn giáo.
Những nguồn gốc nêu trên là tiền đề khách quan, cần thiết cho sự xuất
hiện, tồn tại, phát triển của tôn giáo. Song tôn giáo ra đời, mở rộng ảnh hưởng
còn phụ thuộc vào sự tuyên truyền, vận động của các giáo hội thậm chí cả cuộc
đấu tranh giữa các tơn giáo, các hình thái ý thức xã hội, các lực lượng xã hội
trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Sự ra đời của tôn giáo gắn liền với những nguồn gốc khách quan, song
tôn giáo luôn là một dạng tình cảm, một hình thái ý thức xã hội nên có tính độc
lập tương đối, sẽ cịn tồn tại lâu dài ngay cả khi cái mà nó phản ánh khơng cịn
hoặc đã có biến đổi khác trước.
7.1.3. Tính chất của tơn giáo
7.1.3.1. Tính lịch sử
Tơn giáo là một phạm trù lịch sử, sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử gắn với
giai đoạn lịch sử nhất định của nhân loại, ra đời, tồn tại, biến đổi và mất đi gắn
với sự vận động, biến đổi của xã hội loài người. Tính chất lịch sử phản ánh sự ra
đời của tơn giáo trong những điều kiện khác nhau thì quan niệm về thần, thánh,
về thân phận con người và con đường giải thốt khác nhau. Tơn giáo của mỗi
dân tộc ln gắn với lịch sử, văn hoá dân tộc và chứa đựng những chất liệu
truyền thống về văn hoá, tư tưởng, triết học của dân tộc. Tính lịch sử của tơn
giáo cũng phản ánh sự biến đổi thích nghi của tơn giáo với điều kiện mới của
lịch sử nhân loại và của từng dân tộc. Niềm tin vào sức mạnh của thượng đế và
thế giới thiên đường sẽ mất đi khi các nguyên nhân sinh ra nó đã bị loại bỏ.
5. V.I. Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, tập 17, tr. 515.

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11



7.1.3.2. Tính quần chúng
Tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân
dân, phản ánh khát vọng về một xã hội tự do, bình đẳng và bác ái của quần
chúng, nên được đông đảo quần chúng tin theo.
Hiện nay, ở nước ta có hơn 20 triệu tín đồ, chức sắc tơn giáo, khoảng 80
% dân số có tín ngưỡng tơn giáo. Trên thế giới, có hơn 3 tỉ tín đồ, chức sắc theo
các tơn giáo lớn. Cho nên, Đảng, Nhà nước ta xác định, thái độ đối với tôn giáo
là thái độ với đông đảo quần chúng, cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận
động quần chúng, công tác với con người.
7.1.3.3. Tính chính trị
Trong xã hội có đối kháng giai cấpT, tơn giáo có tính chính trị. Đó là việc
giai cấp thống trị sử dụng tôn giáo làm công cụ nơ dịch quần chúng, củng cố,
bảo vệ địa vị chính trị, trật tự xã hội của giai cấp mình. Thơng qua lợi dụng giáo
lý, giáo luật, giai cấp thống trị đã mê hoặc, ru ngủ những người lao động chấp
nhận sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị.
Đúng như V.I. Lênin viết: “Tất cả những giai cấp áp bức đều cần đến hai
chức năng xã hội, để giữ gìn nền thống trị của mình: chức năng đao phủ và chức
năng giáo sĩ. Đao phủ phải dẹp tan sự phản kháng và sự căm phẫn của những người
bị áp bức... Giáo sĩ phải an ủi những người bị áp bức làm cho họ chịu nhận nền
thống trị ấy, làm cho họ xa rời hành động cách mạng, làm tiêu tan tinh thần cách
mạng của họ và phá vỡ nghị lực cách mạng của họ”6.
Ngày nay, đông đảo quần chúng tín đồ đến với tơn giáo nhằm thoả mãn nhu
cầu tinh thần, song trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị phản
động lợi dụng chống phá cách mạng. Do vậy, cần cảnh giác đấu tranh chống sự lợi
dụng tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch.
7.1.4. Bản chất tôn giáo
Theo quan điểm Mác - Lênin, bản chất của tôn giáo là niềm tin hư ảo
của con người vào sức mạnh siêu nhiên, vào cuộc sống hạnh phúc ở thế giới

“thiên đường”. “Theo bản chất của nó, tơn giáo là sự rút hết toàn bộ nội dung
6.V.I. Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1980, tập 26, tr 2 93.

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


của con người và giới tự nhiên, là việc chuyền nội dung đó sang cái bóng ma.
Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lịng nhân từ, lại trả về
cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ”7. Chính vì thế, tơn giáo là hạnh
phúc hư ảo của nhân dân.
Niềm tin hư ảo của tôn giáo thể hiện ở chỗ, mọi suy nghĩ và hành động
của con người đều phải dựa vào sự mách bảo, sự ban ơn của đấng tối cao: thần
linh, thường đế. Niềm tin đó được coi là chuẩn mực vĩnh cửu, bất biến trong mọi
thời đại, mọi giai cấp và chi phối mọi hành động của con người. Tôn giáo đã làm
cho con người tự đánh mất bản tính tích cực, sáng tạo của mình, biến mình
thành kẻ nhẫn nhục, chịu đựng, chấp nhận sự áp bức, bất hạnh trong cuộc sống
hiện thực và mơ ước ảo tưởng vào được sống hạnh phúc ở thế giới phi hiện thực.
Vì vậy, Ph.Ăngghen khẳng định: “Trong mọi tôn giáo, sự ăn năn, sự hy sinh, và
có thể là cả sự xả thân nữa, hợp thành bản chất của hoạt động tu hành, của sự
thờ phụng”8.
Xét về bản chất, trong các tôn giáo đều có nội dung phù hợp với lợi ích ích
kỷ của giai cấp thống trị và bóc lột, nên được giai cấp thống trị sử dụng làm công
cụ áp bức, bảo vệ trật tự xã hội của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: “Tôn
giáo là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, ln ln và bất cứ ở đâu
cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho
người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và cơ độc”9. Nó “là thứ rượu tinh
thần, làm cho những người nô lệ của tư bản mất phẩm cách con người và quên
mất hết những điều họ đòi hỏi để được sống một cuộc đời đôi chút xứng đáng với
con người”10. Do vậy, “tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái
tim của thế giới khơng có trái tim, tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân”11. Tuy

nhiên, trong tơn giáo cũng có những giá trị văn hoá đạo đức nhất định, phù hợp
với xã hội mới cần biết kế thừa, phát huy.
7.2. Chức năng xã hội và vai trị xã hội của tơn giáo
7. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 1, tr 815.
8. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 19, tr. 436.
9. V.I. Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, tập 12, tr. 169.
10. V.I. Lênin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1979, tập 12, tr. 70.
11. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H toàn tập, tập 1, tr. 581.

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


7.2.1. Chức năng xã hội của tôn giáo
7.2.1.1. Chức năng đền bù hư ảo
Đây là chức năng xã hội chủ yếu, đồng thời cũng là đặc trưng cơ bản của tơn
giáo. Tơn giáo như một liều thuốc an thần có khả năng an ủi làm dịu nỗi đau con
người bằng cách tạo nên sự hài lòng, tin tưởng vào các lực lượng siêu nhiên và
cuộc sống hạnh phúc ở thế giới thiên đường; góp phần giải toả sự sợ hãi, nỗi bất
hạnh trong cuộc đời - mặc dù đó chỉ là sự đền bù hư ảo. Nhờ đó, tơn giáo có khả
năng giảm nhẹ một cách hư ảo sự bất hạnh trong cuộc sống.
Trong đời sống xã hội những nhân tố “bất ngờ”, “đột ngột”, “ngẫu nhiên”
gây ra nỗi thống khổ sự đau thương ghê gớm và khủng khiếp gấp nhiều so với
hậu quả của chiến tranh, động đất... làm xuất hiện cảm giác bất lực, yếu đuối của
con người. Trong điều kiện ấy, tôn giáo vẫn là chỗ dựa để an ủi, khuyên răn
bằng những lời giải thích đầy huyền bí về sức mạnh, quyền uy cứu độ của
thượng đế, góp phần làm giảm những căng thẳng về tinh thần con người, dù là
hư ảo. Với tinh thần đó, C.Mác nói: tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân, tôn
giáo là hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân.
7.2.1.2. Chức năng thế giới quan
Tôn giáo tạo cho con người một quan niệm về thế giới, con người nhưng

thế giới quan tơn giáo là “thế giới quan lộn ngược”12, “vì bản thân chúng là thế
giới lộn ngược. Tôn giáo là lý luận chung của thế giới ấy. Tôn giáo biến bản
chất con người thành tính hiện thực ảo tưởng”13. Sự phản ánh của tôn giáo là sự
phản ánh ảo tưởng về một thế giới hư ảo nên đã định hướng mọi suy nghĩ, nhận
thức, hành động của con nguời theo thế giới quan duy tâm. Việc nhận thức các
hiện tượng của tự nhiên, của đời sống xã hội, thậm chí cả sự sáng tạo khoa học
của con người cũng được tôn giáo giải thích theo quan điểm thế giới quan duy
tâm. Trong quan niệm của tơn giáo, vai trị chủ thể sáng tạo của con người bị
biến mất và tất cả đều phụ thuộc, phó mặc cho thần thánh.

12. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 1, tr. 569.
13. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 1, tr. 570.

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


Mặc dù, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, song tơn giáo vẫn góp phần
hình thành trong tín đồ hệ thống quan niệm về thế giới và những chuẩn mực giá
trị tôn giáo.
7.2.1.3 Chức năng điều chỉnh
Tôn giáo nào cũng có hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức tôn giáo nhằm
điều chỉnh mọi suy nghĩ, hành vi ứng xử của người với bản thân, với người khác,
với xã hội và với giới tự nhiên phù hợp với đức tin. Đánh giá chức năng này,
C.Mác viết: “Họ đã xây dựng những quan hệ của của họ căn cứ vào những quan
niệm của họ về thần, về kiểu mẫu của con người.v.v … Những sản phẩm của bộ
óc của họ đã trở thành kẻ thống trị họ. Là những người sáng tạo, họ lại phải cúi
mình trước những cái họ sáng tạo ra”14.
Song trên thực tế, vì sự sống cịn của con người và cộng đồng, một số
chuẩn mực tôn giáo đã “vay mượn” chuẩn mực, giá trị đạo đức chân chính của xã
hội, nên có ý nghĩa tích cực trong điều chỉnh hành vi của con người, cộng đồng.

Do vậy, khi đánh giá sức mạnh điều chỉnh của tôn giáo khơng chỉ thấy mặt tiêu
cực mà cịn có những hạt nhân tích cực ẩn chứa trong tơn giáo. Chức năng điều
chỉnh của tôn giáo được thực hiện vừa tự giác, vừa bắt buộc, tuân theo nội dung ở
giáo lý, giáo luật, nghi lễ hành đạo.
7.2.2. Vai trò xã hội của tôn giáo
Cần phân biệt giữa chức năng xã hội của tơn giáo và vai trị xã hội của tơn
giáo. Nếu như chức năng xã hội của tôn giáo do bản chất, đặc trưng của tơn giáo
quy định thì vai trị của tơn giáo khơng chỉ xuất phát từ bản chất, chức năng đó mà
cịn chịu sự chi phối của mối quan hệ giữa tơn giáo với chính trị, văn hố, đạo
đức...Trong xã hội có đối kháng giai cấp, vai trị xã hội của tơn giáo thường bị chi
phối bởi ý thức chính trị - giai cấp. Các giáo hội ngồi chức năng tơn giáo cịn
thực hiện những chức năng khác như: thống trị xã hội, chiến tranh xâm lược. Do
vậy, khi nhìn nhận, đánh giá một tổ chức tơn giáo phải ln ln có quan điểm
lịch sử, cụ thể, đặc biệt phải phân biệt giữa ý thức tôn giáo với ý thức chính trị giai cấp.
14. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, tập 3, tr. 19.

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


7.2.2.1. Vai trò tiêu cực
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, tôn giáo chỉ là hạnh phúc hư ảo của nhân
dân. Do đó, tơn giáo thường hạn chế phát triển tư duy duy vật, khoa học, làm cho
con người có thái độ nhẫn nhục, khuất phục, khơng tích cực, chủ động, sáng tạo
trong việc tạo dựng hạnh phúc thật sự nơi trần gian, mà lại hi vọng hạnh phúc ở
cuộc sống sau khi chết. Nhiều khi tôn giáo làm cho con người ta có thái độ mù
quáng và hành vi cuồng tín.
Do có bản chất chung là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, là sự phản ánh
hư ảo, thiêng liêng hố, thần bí hố hiện thực, nên ranh giới giữa tín ngưỡng, tơn
giáo, mê tín rất mong manh, ngay bản thân tơn giáo chứa đựng những yếu tố mê
tín. Trong thực tế, các hiện tượng tơn giáo, mê tín và mê tín dị đoan thường đan

xen nhau.
Trong xã hội có giai cấp, tơn giáo thường bị giai cấp thống trị lợi dụng để thực
hiện ý đồ chính trị. Tơn giáo cũng còn bị một số người lợi dụng cầu lợi, họ biến các
không gian, tôn giáo linh thiêng thành nơi có thể “bn thần bán thánh”.
7.2.2.2. Vai trị tích cực
Tuy vậy, tơn giáo cũng có những mặt tích cực nhất định, thể hiện ở chỗ:
tôn giáo vừa phản ánh khốn cùng của hiện thực, vừa phản kháng chống lại sự
khốn cùng của hiện thực ấy, nên nó góp phần cổ vũ cuộc đấu tranh chống lại sự
bất công, tàn bạo trong xã hội có giai cấp và bóc lột giai cấp.
Đồng thời trên cơ sở “vay mượn” đạo đức xã hội, tơn giáo cũng đề cao tính
nhân văn, khuyến thiện, trừ ác phù hợp với đạo đức xã hội, và trở thành giá trị văn
hoá tinh thần của nhân loại.
Tôn giáo cũng được coi là một thành tố của văn hoá. Các nền văn minh lớn
trên thế giới đều mang dấu ấn của tôn giáo. Nhiều khi người ta lấy tên của một
tôn giáo để chỉ đặc điểm, sắc thái của một nền văn hố. Thí dụ, Văn hố Cơ đốc
giáo, văn hố Hịi giáo, văn hố Phật giáo. Tơn giáo ln là mảnh đất màu mỡ,
trên đó hình thành và phát triển nhưng tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Trong Văn
kiện hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Đảng ta

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


nhận định “đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới”.
Câu hỏi ôn tập:
1. Phân tích khái niệm, bản chất tơn giáo? Phân biệt tơn giáo với tín
ngưỡng, mê tín dị đoan và mối quan hệ giữa chúng với nhau?
2. Phân tích nguồn gốc, tính chất của tơn giáo? Rút ra ý nghĩa của vấn đề
trong q trình nghiên cứu tơn giáo?
3. Phân tích các chức năng, vai trị xã hội của tơn giáo? Rút ra ý nghĩa

trong quá trình hoạt động thực tiễn?

Chương 8
Những hình thức lịch sử của tín ngưỡng tơn giáo và xu hướng tín ngưỡng tơn
giáo trên thế giới hiện nay
8.1. Những hình thức tín ngưỡng tơn giáo trong lịch sử
Tôn giáo vận động, biến đổi gắn liền với lịch sử xã hội loài người. Sự vận
động phát triển của tôn giáo gắn với những sinh hoạt cộng đồng của con người, đi từ
hình thức thấp đến hình thức cao, thể hiện được chiều hướng chính, sự phát triển của
tôn giáo: tôn giáo nguyên thuỷ, tôn giáo dân tộc, tơn giáo thế giới.
8.1.1. Hình thức tín ngưỡng tơn giáo ngun thuỷ
Đây là hình thức tơn giáo cổ xưa nhất, xuất hiện trong xã hội nguyên
thuỷ, ở các thị tộc, bộ lạc với lực lượng sản xuất thấp kém, chưa có tư hữu giai
cấp. Đặc điểm chung của tơn giáo nguyên thuỷ là tôn giáo đa thần, tồn tại dưới
các hình thức, phổ biến là Tơtem giáo, Bái vật giáo, Ma thuật giáo, Vật linh
giáo.
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


8.1.1.1. Thờ vật tổ (Tơ-tem giáo)
Tơtem là hình thức tín ngưỡng quan trọng của xã hội nguyên thuỷ, phản
ánh mối quan hệ phụ thuộc của con người vào môi trường tự nhiên và quan hệ
cộng đồng thị tộc. Tôtem giáo là hình thức tín ngưỡng tơn giáo với quan niệm có
một con vật hoặc một vật nào đó là “tổ” sinh ra cộng đồng người, hoặc có tác
động đến cộng đồng người một cách hư ảo, khiến cả cộng đồng coi đó là vật tổ
và lấy đó làm biểu tượng thờ cúng. Từ đó, mỗi dân tộc đều lấy một con vật nào
đó làm Tơtem cho dân tộc mình. Ví dụ, người Việt cổ lấy con Cá sấu, người
Thái lấy con Hổ, người Mường thờ đá, thờ cây coi đó là vật tổ của mình. Như
vậy thơng qua Tơtem giáo, con người đã chuyển dịch quan hệ họ hàng, huyết
thống sang thế giới bên ngoài. Ngày thường, tất cả các thành viên trong bộ tộc

không được ăn thịt Tôtem. Chỉ trong ngày lễ người ta ăn thịt Tôtem với ý nghĩa
nhằm tiếp thêm sức mạnh cho mình và góp phần gắn kết quan hệ thị tộc, bộ lạc
trở nên chặt chẽ hơn.
Như vậy, totem ra đời có tác dụng gắn kết cộng đồng, giữa người với người
có chung vật tổ. Quan hệ với vật tổ chỉ là quan hệ hư ảo, còn quan hệ thực là
quan hệ giữa người với người. ở đây, sức mạnh trần thế đã mang hình thức sức
mạnh siêu thần thế.
Trong xã hội ngày nay, hình thức thờ Tôtem đã được biến thái vào trong các
giáo lý của các tơn giáo, ví dụ ăn bánh thánh, uống rượu nho trong đạo Kytô, ăn lộc
trong đạo Phật.
8.1.1.2. Bái vật giáo
Bái vật giáo là tín ngưỡng tơn giáo con người vào một vật cụ thể như ngọn
núi, dòng suối, tảng đá, cây cổ thụ, thậm chí cả chiếc răng thú, chiếc rìu đá, lọ bình
vơi, mảnh vải… Với quan niệm các vật đó được tạo ra bởi các thần linh, mỗi vật
đều có thần của mình trú ngụ trong đó. Do đó, chúng có sức mạnh siêu linh có thể
trợ giúp con người trong những lúc khó khăn. Việc dùng các bùa hộ mệnh của một
số người trong xã hội ngày nay, là dấu vết của tín ngưỡng bái vật ngun thuỷ.
Hình thức Bái vật giáo khơng những là hình thức phổ biến trong xã hội
nguyên thuỷ mà cịn tồn tại đến ngày nay. Nó được biểu hiện rất phong phú ở
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


mọi quốc gia, đâu đâu cũng có những hiện tượng thờ cúng các vật thể cụ thể của
thế giới vật chất.
8.1.1.3. Ma thuật giáo (Có nghĩa là phép phù thuỷ).
Ma thuật giáo là hình thức tín ngưỡng tơn giáo ngun thuỷ thể hiện niềm
tin rằng một người cụ thể nào đó có phép lạ, có khả năng giao tiếp với thần linh,
mang sức mạnh của thần linh để cứu giúp hoặc làm hại người khác mà người
thường khác khơng có. Những người có phép lạ đó là những người như thầy phù
thuỷ, thầy mo…họ có phép lạ, có thể chữa mọi bệnh tật, trừ mọi ma quỷ, cứu

giúp người hay gây hại cho người khác.
Cơ sở tâm lý của tín ngưỡng ma thuật là niềm tin của người nguyên thuỷ
rằng có mọt thế giới hồn và ma cùng tồn tại với thế giới của người đang sống.
Con người ốm đau là do hồn của người đó đi lạc vào thế giới hồn ma. Thầy phù
thuỷ có phép lạ điều khiển đội âm binh bằng những lời phú chú, tìm hồn lạc về
thể xác người ốm. Cơ sở xã hội của ma thuật giáo là các cuộc xung đột giữa các
thị tộc khác nhau gây nên sự chết chóc và lịng muốn trả thù. Cuộc sống luôn bị
đe doạ bởi không chỉ do chiến tranh mà còn do bênh tật, thiên tai. Người ngun
thuỷ mong ước có một cuộc bình n, hạnh phúc. Về sau, ma thuật giáo thường
bị các tôn giáo lợi dụng yếu tố thần bí có tính ma thuật để gây ảnh hưởng trong
xã hội như trong Đạo giáo ở Trung Quốc, đạo Bà La môn ở ấn Độ).
Các nghi lễ của Ma thuật giáo luôn là phương tiện hư ảo để giải quyết những
vấn đề thực tiễn cuộc sống của người nguyên thuỷ.
Trong xã hội nguyên thuỷ, ma thuật giáo có hình thức rất phong phú: ma thuật
làm hại, ma thuật chữa bệnh (chữa bệnh bằng phù phép), ma thuật săn bắt, ma thuật
tình yêu, ma thuật khí tượng (cầu mưa, cầu tạnh, cầu gió...).
ở Việt Nam, các hình thức bùa chú, chài, thư, xiên lình, ma lai, ma cà rồng…
là các dạng thức của ma thuật giáo. Các hình thức này cũng có những tác động
đáng kể tới đời sống tinh thần của một bộ phận dân cư nhẹ dạ, cả tin, nhất là những
vùng xã xơi, hẻo lánh, trình độ văn hố thấp.
8.1.1.4. Vật linh giáo

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


Vật linh giáo là tôn giáo ra đời cuối thời kỳ công xã thị tộc, quan niệm rằng
mọi vật đều có hai phần: “xác” (hữu hình) và “hồn” (vơ hình). “Xác” là nơi trú
ngụ của “hồn”, còn “hồn” quyết định phần “xác”. Khi con người chết thì chỉ
chết về phần xác cịn phần hồn tồn tại mãi mãi. Từ đó, tạo nên hai thế giới: thực
- hư; trần gian - địa ngục. Con người phải cầu xin thế giới bên kia. Đến đây con

người đã có quan niệm thần, ma, quỷ. Như vậy, vật linh giáo xuất hiện với quan
niệm của tang lễ, với quan niệm hai thế giới song song tồn tại (hữu hình và vơ
hình) có quan hệ với nhau. Thực chất của vật linh giáo là thờ cúng linh hồn
những người đã khuất. Đây là hình thức tín ngưỡng tơn giáo cao hơn tiền vật
linh giáo, bởi nó đã “linh hồn hố” các hiện tượng tự nhiên, gắn cho các hiện
tượng đó một sức mạnh ghê gớm, là cơ sở tín ngưỡng quan trọng cho sự ra đời
các tôn giáo sau này.
8.1.1.5. Saman giáo
Saman giáo xuất hiện sớm ở tộc người Saman ở Xibêri vào thời kỳ cuối của xã
hội thị tộc. Đây là hình thức tín ngưỡng tơn giáo, quan niệm rằng con người có thể
giao tiếp được với thần linh, ma quỷ thông qua người trung gian có phép nhiệm màu
để giải quyết những yêu cầu của trần gian. Người trung gian này là thầy pháp Saman
có thể yêu cầu thần linh giải quyết những vấn đề quan trọng của con người trong bộ
lạc. Saman giáo là hình thức tín ngưỡng tơn giáo cao hơn các hình thức trước đó, bởi
nó đã xác lập quan hệ giữa người với thần và xuất hiện người hành nghề tôn giáo
chuyên nghiệp với sự giúp đỡ của một nhóm người nhất định, nhằm tạo ra khơng
gian “linh thiêng” cho linh hồn nhập thoát.
Hiện nay, ở Việt Nam đang tồn tại đầy đủ các hình thức tín ngưỡng tơn giáo
nguyên thuỷ này. Các hình thức tiền vật linh giáo cịn tồn tại ở các dân tộc thiểu số.
Hai hình thức sau tồn tại xen lẫn trong các lễ hội, các sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo.
Các dạng thức lên đồng, gọi hồn, phù thuỷ trừ ma bắt của các thầy cúng là các biểu
hiện của Saman giáo.
8.1.2. Hình thức tơn giáo dân tộc
Đây là hình thức tơn giáo được nảy sinh, tồn tại, phát triển gắn liền với sự
hình thành, tồn tại của một quốc gia dân tộc, đáp ứng nhu cầu tâm linh tôn giáo của
một dân tộc và chỉ có quyền lực giới hạn trong phạm vi dân tộc đó. Đặc trưng cơ
bản của tơn giáo dân tộc là tính chất dân tộc của nó và phản ánh văn hoá ứng xử
riêng, đặc sắc của dân tộc hoặc một vùng của dân tộc. Tương tự như xã hội vua của
quốc gia nào chỉ có quyền cai trị quốc gia dân tộc đó.
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11



Có thể kể đến một số tơn giáo dân tộc như: đạo Hinđu, đạo Sich của ấn
Độ, đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo ở Việt Nam. So với các hình thức tín
ngưỡng tơn giáo ngun thuỷ, tơn giáo dân tộc có trình độ phát triển cao hơn, đã
mang tính khái quát, tổng hợp hơn, từ đa thần giáo trở thành nhất thần giáo. Các
hình thức tơn giáo dân tộc đã hình thành giáo lý, giáo luật và nơi thờ tự, tiến hành
các nghi lễ tôn giáo. Trong các xã hội có giai cấp, tơn giáo dân tộc khơng thuần
t là lịng tin tơn giáo mà đã mang tính chất chính trị.
8.1.3. Hình thức tơn giáo thế giới
Tơn giáo thế giới là các tôn giáo đa quốc gia, phạm vi ảnh hưởng của tơn
giáo đó đến nhiều quốc gia dân tộc trên thế giới. Thực chất đó là tơn giáo dân tộc
có tín ngưỡng phù hợp với nhu cầu tơn giáo của một bộ phận nhân dân các dân tộc
trên thế giới, nên được quần chúng nhiều quốc gia dân tộc tin theo. Các tôn giáo
như Phật giáo, Kytô giáo, Hồi giáo đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia dân tộc, ảnh
hưởng đến nhiều quốc gia, nhiều khu vực trên thế giới, trở thành tôn giáo thế giới.
Các tôn giáo thế giới thường có số lượng tín đồ đơng, ln tìm cách mở rộng việc
truyền giáo ra nhiều quốc gia, khu vực. Trong q trình truyền đạo, tơn giáo thế
giới thường phủ nhận các tôn giáo dân tộc...
8.2. Xu hướng biến động của tôn giáo trên thế giới
8.2.1. Xu hướng biến động của tôn giáo trên thế giới
Hiện nay, đời sống, sinh hoạt tôn giáo khá phức tạp, vận động, biến đổi theo các
xu thế khác nhau, các xu hướng đó đan xen vào nhau, rất khó phân định.
8.2.1.1. Xu hướng đa dạng hố tơn giáo, xuất hiện hiện tượng tôn giáo mới
Đây là kết quả của hai quá trình: q trình phân liệt, chia tách thành nhiều
tơn giáo, hệ phái khác nhau về giáo lý, sự tu trì; và q trình hịa hợp liên kết,
đại kết các tơn giáo cùng hướng tới những mục tiêu nhất định. Quá trình chuyển
đạo, đổi đạo, xuất hiện ngày càng nhiều hành vi tín ngưỡng tơn giáo và hàng vạn
“tơn giáo mới” đã ra đời. Đó chính là sự phản ứng, bế tắc trước lối sống thực
dụng, cực đoan, vụ lợi hiện nay.

Các hiện tượng tơn giáo mới, đa dạng, lành ít dữ nhiều; có loại tránh đời, hận
đời; có loại gắn bó với đời; có loại hồi cổ. Nếu chỉ tính riêng hơn một thế kỷ gần
đây đã xuất hiện hàng ngàn tôn giáo mới. Hiện nay, theo thống kê không đầy đủ ở
Mỹ có đến 2500 tơn giáo mới, ở Pháp 300, ở Đức 500, ở Nhật Bản hơn 1000 các
giáo phái khác nhau. ở Việt Nam, cũng lên tới hàng trăm tơn giáo mới. Các “tơn
giáo mới” có chi nhánh ở nhiều nước, với nội dung nửa thiêng nửa tục, tích cực
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, thu hút các tín đồ của
các tơn giáo khác sẵn có, phá vỡ các tổ chức tơn giáo với các thể chế riêng, gây
mất ổn định cho nhiều quốc gia, dân tộc.
Có loại tơn giáo mới khốc áo “khoa học”, “đạo đức” có mục đích hoạt
động chính trị cực đoan, như đạo Sokagahai ở Nhật Bản; Phái Moon ở Hàn
Quốc; phái Mật Tông của Đạt Lai Lạt Ma muốn giải phóng Tây Tạng; Những
phái Hồi giáo cực đoan như Taliban ở Apganistan, Fig ở Angiêri, Sura ở
Kosovo; Thanh Hải Vơ Thượng Sư ở Việt Nam
Có loại “tơn giáo mới” phủ nhận thế giới hiện hữu, luôn gắn mình với ngày
tận thế, chủ trương sống khép kín, kỳ quặc, cuồng loạn như giáo phái Kaban, phái
Thời đại mới, phái Cổng trời ... giáo phái Aum (Chân lý Tối thượng) muốn đầu độc
toàn nhân loại, hướng tới ngày “tận thế”.
Có loại lợi dụng các hoạt động tưởng chừng khơng dính líu đến tơn giáo như
luyện tập thân thể, tu dưỡng bản thân; mong muốn hạnh phúc hưởng lạc dưới trần,
hoặc ngược lại theo kiểu ép xác; hoặc muốn dùng khoa học lý giải và tiếp cận với
thế giới vô hình, một kiểu ma thuật hiện đại, gây nên những niềm tin có tính chất
mê tín như phong trào “Thần giao cách cảm”, “Thần thị”, “Thông linh học”, “Pháp
luân công”.
Đặc điểm của các hiện tượng tôn giáo mới là quần thể kiểu sùng bái một
giáo chủ, cuồng nhiệt, hiến thân; hành vi tín đồ nhiều khi kỳ quái, lập dị hội kín;
giáo lý tự do hóa, thực dụng hóa; giáo phái thường nhỏ, mục tiêu đơn nhất,

nhưng số giáo phái thường nhiều. Phần lớn đều chạy theo các thể nghiệm tâm lý
siêu thường.
Những hiện tượng tơn giáo nói trên, tạo nên tính đa dạng tơn giáo hiện nay,
vừa làm giảm tính thiêng và thế lực của các tổ chức tơn giáo, vừa gây ra nhiều phức
tạp cho các nhà nước, cũng như cho tín đồ, thủ lĩnh các tơn giáo.
8.2.1.2. Xu hướng tồn cầu hố tơn giáo
Lợi dụng q trình tồn cầu hố các lĩnh vực của đời sống xã hội, các tôn giáo
như Kitô giáo, Phật giáo, Hồi giáo, và cả “hiện tượng tôn giáo mới”, đều mở rộng
ảnh hưởng, mong muốn trở thành tơn giáo tồn cầu.
Sự đua tranh nhằm đưa tơn giáo của mình phổ qt tồn nhân loại đã dẫn đến
sự cạnh tranh sự dèm pha, thậm chí tiêu diệt nhau. Bộc lộ rõ nhất cho xu thế này là
một số phần tử cực đoan của Kitơ giáo và Hồi giáo đang tìm mọi cách để mở rộng

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


nước Chúa, gây thanh thế nhằm đưa tơn giáo mình áp đặt cho cả nhân loại. Điều đó
làm tiềm ẩn nhân tố xung đột tôn giáo.
8.2.1.3. Xu hướng dân tộc hố
Đây là xu thế quan trọng, phản ánh tính thống nhất và đa dạng trong tơn
giáo, trong văn hóa với mong muốn bảo vệ bản sắc văn hố (trong đó có tơn
giáo) của quốc gia mình. Biểu hiện rõ nhất của xu hướng này là các dân tộc đều có
ý thức hướng về tôn giáo truyền thống, tiếp biến tôn giáo ngoại sinh thành tôn
giáo truyền thống của bản thân. ở phương Đơng, xu thế này đã có cơ sở hiện thực
từ truyền thống “hoà nhi bất đồng” giữa các tôn giáo. Các tôn giáo ngoại nhập
thường bị khúc xạ do đụng đầu với văn hoá bản địa trong quá trình giao thoa, tiếp
biến. Sự Việt hố các tơn giáo ngoại nhập, sáng tạo ra các tôn giáo dân tộc như
đạo Cao Đài, Phật giáo Hồ Hảo là ví dụ điển hình.
Xu hướng này phản ánh nhu cầu khách quan muốn bảo vệ bản sắc văn hoá của
mỗi dân tộc, phản kháng lại sự bành trướng tôn giáo gắn liền với sự huỷ hoại các

tơn giáo truyền thống, văn hố bản địa, đồng hoá văn hoá, đồng hoá dân tộc như
trường hợp bành trướng của đạo Kitô, đạo Hồi ... trên các lục địa.
8.2.1.4. Xu hướng thế tục hoá
Đây là một trong những xu hướng cơ bản, và ngày càng phổ biến trong đời
sống sinh hoạt các tôn giáo. Biểu hiện chủ yếu của xu hướng này là những hành
vi nhập thế của mọi tôn giáo bằng cách tham gia vào các những hoạt động văn
hoá xã hội, đạo đức, giáo dục, y tế ...ngồi chức năng của tơn giáo nhằm góp phần
chung sức giải quyết những vấn đề thế tục cứu giúp đồng loại.
Xu hướng này cũng biểu hiện ở vai trị tơn giáo ngày càng bị thu hẹp nhường
chỗ cho chính trị, kinh tế, văn hố, khoa học và cơng nghệ, điều đó làm cho khơng
ít người đến với Chúa của mình với nhiều động cơ, ý đồ, tham vọng khác nhau, chứ
không thuần tuý là niềm tin tơn giáo.
Xu hướng thế tục hố cũng cịn biểu hiện khá sinh động trong cuộc đấu tranh
của một bộ phận tiến bộ trong từng tơn giáo, muốn xố bỏ những nội dung lỗi
thời trong giáo lý, những khắt khe trong giáo luật, muốn tiến tới sự đồn kết giữa
các tín đồ, các tôn giáo và không tôn giáo, đấu tranh cho một thế giới đầy tình
thương và hồ bình.
Tuy nhiên, sự thái quá của xu thế này cũng dễ làm cho đời sống tơn giáo bị
vẩn đục, mang tính thực dụng, bn thần bán thánh, thương mại hố hoạt động tôn

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


giáo, làm cho tâm lý thực dụng đã lan vào hầu hết các hoạt động và hành vi tơn
giáo.
Tóm lại, những hình thức tơn giáo sơ khai là cơ sở hình thành các tơn giáo dân
tộc và tơn giáo thế giới sau này. Gắn với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, tơn
giáo cũng có những bước thăng trầm và nhiều biến thái. Tôn giáo tồn tại và phát
triển với những hình thức hết sức phong phú, sinh động đan xen nhiều xu hướng
khác nhau. Thế kỷ XXI, tơn giáo cịn tồn tại với những biểu hiện quyền uy khác

nhau trong từng quốc gia, dân tộc. Nhiều hiện tượng tơn giáo mới sẽ, đã và cịn
xuất hiện thêm, làm tăng thêm tính đa tạp của bức tranh tơn giáo. Nhưng về cơ bản,
tôn giáo không thay đổi bản chất.
Câu hỏi ơn tập:
1. Khái qt các hình thức tơn giáo trong lịch sử? Liên hệ ở Việt Nam?
2. Phân tích các xu hướng vận động, biến đổi của tơn giáo trên thế giới,
liên hệ tôn giáo ở Việt Nam? ý nghĩa thực tiễn của việc nắm vững vấn đề trên?

Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


Chương 9
Một số tôn giáo lớn trên thế giới
9.1. Kytô giáo
9.1.1. Hoàn cảnh ra đời, giáo lý, giáo luật, tổ chức giáo hội của Kytơ giáo
9.1.1.1. Hồn cảnh ra đời của Kytô giáo
Kitô giáo, ra đời vào thế kỷ thứ I ở vùng Palextin, thuộc các tỉnh phía
Đơng đế quốc La Mã cổ đại.
Từ thế kỷ thứ II trước công nguyên đến thế kỷ thứ II sau công nguyên, nhà
nước chiếm hữu nô lệ La Mã đã trở thành một đế quốc hùng mạnh trên bán đảo
Italia và các nước vùng Địa Trung Hải. Cuộc đấu tranh quyết liệt giữa nô lệ và
chủ nô, giữa các dân tộc bị chinh phục và kẻ xâm lược nổi lên gay gắt. Những
cuộc đấu tranh khởi nghĩa vũ trang của nô lệ, chống lại giai cấp chủ nô và quân
xâm lược đã nổ ra, nhưng đều thất bại và bị đàn áp dã man, tàn bạo. Tiêu biểu
nhất là cuộc khởi nghĩa của nô lệ do Xpactacuxơ lãnh đạo (73-71 trước Công
nguyên). Bất lực trước sức mạnh đấu tranh hiện thực, quần chúng đã hy vọng vào
một lực lượng siêu nhân, một đấng cứu thế để đánh đổ đế quốc La Mã, giải phóng
dân tộc, thực hiện sự cơng bằng. Đó là cơ sở xã hội cho sự xuất hiện của Kitô
giáo. Kế thừa tư tưởng đạo Do Thái, đa thần giáo Hi Lạp, La Mã và những yếu tố
tín ngưỡng tơn giáo vùng Trung Cận Đông...người ta đã sáng tạo ra đấng cứu thế

Giê -su, kêu gọi lòng thương yêu con người, xây dựng xã hội công bằng, đáp ứng
nguyện vọng của quần chúng, nô lệ và đông đảo nô lệ tin theo, đạo Kitô ra đời.
9.1.1.2. Các thời kỳ phát triển
Thế kỷ I tư tưởng Kitơ giáo xuất hiện trong dịng người Do Thái lang thang
vùng Tiểu Á, Ai Cập. Đây là tôn giáo của những người nô lệ và người bán tự do,
của những cộng đồng người nghèo khổ và các dân tộc bị nơ dịch. Lúc này, Kitơ
giáo có tư tưởng đấu tranh, chống áp bức, bóc lột, và được tổ chức theo nguyên
tắc bình đẳng, tương thân tương ái, nên được đông đảo nô lệ tin theo, bị chủ nô
nghiêm cấm, sát hại.
Vào thế kỷ thứ II, đế chế La Mã suy yếu, một bộ phận tầng lớp trên của
xã hội đã đến với Kitô giáo làm biến đổi thành phần xã hội, vai trò, địa vị và tổ
Đại tá, TS. Lê Đại nghĩa (Chủ biên) Chương 1, 7, 8, 9, 10, 11


×