Tải bản đầy đủ (.pdf) (406 trang)

Tìm hiểu về Võ Nguyên Giáp - Danh tướng thời đại Hồ Chí Minh: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21 MB, 406 trang )




Tác gi chân thành cám n các đ ng chí
Hồng Minh Ph ng, Ph m H ng C ,
Nguy n Quang Bích và Nguy n V n Ninh
đã đ c và góp ý ki n vào b n th o cu n sách này.



Cuộc đời và sự nghiệp của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp
đã đưa ông lên tầm cao của các danh tướng thế giới.
Được Cụ Hồ ủy thác trọng trách cầm quân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nắm vững cẩm nang làm tướng mà Cụ Hồ trao
cho, quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn
diện và trường kỳ, đứng vững trên nền tảng chính trị của khối
đồn kết tồn dân, ơng đã dẫn dắt tồn qn đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng.
Đức độ và tài năng của ơng đã đem lại cho ông niềm tin
yêu trọn vẹn của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn, lịng mến mộ
của bạn bè quốc tế và cả sự khâm phục của những người hơm
qua cịn là đối thủ của ơng.
Những trang sách này chỉ là những nét phác thảo chặng
đường đầu tiên của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong suốt
cuộc trường chinh đánh thắng hai đế quốc to.
TÁC GIẢ


LỜI NH

XUẤT BẢN



Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là một danh tướng vĩ đại,
một tài năng kiệt xuất, nhà chính trị, quân sự lỗi lạc của dân tộc Việt
Nam, người vâng mệnh Đảng và Bác Hồ lãnh trách nhiệm cầm quân từ
lúc sinh thành “Đội quân thơ ấu”, qua Cách mạng Tháng Tám, đến cuộc
trường chinh đánh bại 10 đại tướng của hai đế quốc to là thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ. Khi còn tại thế ông đã là huyền thoại và khi tạ thế ông trở
thành bất tử.
Tài năng cầm quân và đạo đức cách mạng “dĩ công vi thượng”, trong
sáng, thủy chung của ông qua thời gian càng chói sáng, chiếm trọn niềm tin
yêu của Đảng, của quân đội, của nhân dân và bạn bè quốc tế.
Sinh thời, Thượng tướng Trần Văn Trà, người cán bộ quân sự ưu tú
nhiều năm lăn lộn ở chiến trường Nam Bộ, đã nói về Đại tướng Võ
Nguyên Giáp: “Nhiều ý kiến có tầm nhìn xa trơng rộng, sắc sảo và độc
đáo của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ về chiến lược quân sự và về chiến thuật quân sự cần
được giới sử học nghiên cứu thật công khai, thật công phu, thật công bằng
và thật công tâm. Về phần mình, suốt hai cuộc kháng chiến, tơi chưa hề
thấy Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp
mắc một sai lầm nào về chiến lược và chiến thuật quân sự; tôi chỉ thấy
anh Văn đi những nước cờ bậc thầy vây hãm và tiến công quân địch”.
Ở nước ngoài, giới sử học và cả các tướng lĩnh từng là đối thủ của ông
trên chiến trường đã cơng bố nhiều cơng trình đánh giá rất cao tài thao
lược của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhưng họ chưa giải đáp thỏa đáng
vấn đề vì sao Cụ Hồ đã sớm “chọn mặt gửi vàng”, đặt trọn niềm tin khi
trao sứ mạng cầm quân cho một giáo sư sử học chưa từng qua một lớp
đào tạo về quân sự, và vì sao Võ Ngun Giáp đã thành cơng trong việc
xây dựng và chỉ huy quân đội, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc
trong từng giai đoạn chiến lược của cách mạng Việt Nam, từ khởi nghĩa
toàn dân đến chiến tranh cách mạng, từ cuộc kháng chiến chống Pháp

đến cuộc kháng chiến chống Mỹ.

5


Đầu năm 2005, Đại tá Trần Trọng Trung từng công tác ở Tổng hành
dinh ngay từ ngày đầu thành lập cơ quan tham mưu chiến lược, sau này trở
thành nhà nghiên cứu có uy tín của Viện Khoa học qn sự - Bộ Quốc phòng
trên cương vị Chủ nhiệm bộ mơn Lịch sử chiến tranh, gửi đến Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật bản thảo viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
đồng thời gửi đến Văn phòng Đại tướng một bản thảo để báo cáo. Nhiều lần
chúng tôi xin ý kiến để cơng bố cơng trình của Đại tá Trần Trọng Trung
nhưng Đại tướng chưa đồng ý. Đầu năm 2006, lãnh đạo Nhà xuất bản lên
thăm và chúc sức khỏe Đại tướng nhân dịp đầu Xuân và một lần nữa xin ý
kiến xuất bản cuốn sách để mừng thọ Đại tướng ở tuổi 95. Sau khi cân
nhắc thận trọng, ông đồng ý với yêu cầu phải biên tập, sửa chữa kỹ theo
hướng Đảng, Bác Hồ, quân đội và nhân dân ta mới thực sự vĩ đại, bởi vì
chiến công là chiến công chung của dân tộc, mỗi người trên cương vị của
mình có đóng góp một phần trong đó.
Tuân thủ ý kiến chỉ dẫn của Đại tướng, chúng tôi đã biên tập kỹ bản
thảo theo hướng này và cuốn sách lần đầu tiên ra mắt bạn đọc năm 2006
với tiêu đề: Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp.
Với tư cách là một nhà nghiên cứu am tường lịch sử chiến tranh cách
mạng và là người trong cuộc, bằng những tư liệu lịch sử chân thực của cả
phía ta và phía đối phương, từ thực tế xây dựng, chiến đấu và trưởng
thành của quân đội ta trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất, tác giả trình
bày quá trình Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Bác Hồ, chỉ huy toàn quân đánh thắng đội quân xâm
lược nhà nghề của thực dân Pháp.
Theo đề nghị của tác giả, từ lần xuất bản thứ hai năm 2010 cuốn sách

mang tên Võ Nguyên Giáp - danh tướng thời đại Hồ Chí Minh.
Để tưởng nhớ vị tướng kiệt xuất của dân tộc và nhân loại và phục vụ
yêu cầu của bạn đọc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản lần
thứ sáu cuốn sách này với tất cả sự kính trọng và lịng biết ơn sâu sắc người
học trò thân cận và tài năng bậc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 7 năm 2021
NH

6

XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT


Chương mở đầu

CUỘC TRƯỜNG CHINH ĐÁNH BẠI MƯỜI ĐẠI TƯỚNG

Thủ đô Hà Nội - 26 năm sau ngày miền Nam giải phóng.
Chưa bao giờ báo chí lại rộ lên hàng loạt bài viết về Võ Nguyên
Giáp như mấy tháng cuối năm 2001. Đó là dịp mừng thượng thọ Đại
tướng, người anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, vị Tổng Tư
lệnh giành được lòng tin yêu trọn vẹn của quân và dân cả nước, lòng
mến mộ của bạn bè quốc tế. Tháng 8/2001 này, ơng trịn tuổi 90.
Tác giả các bài báo thật đa dạng, từ giới học giả, các tướng
lĩnh, bạn học thuở thiếu thời, bạn chiến đấu trong suốt trận đánh
30 năm, đến người thân và lớp trẻ, thế hệ con cháu của ông. Dù chỉ
xoay quanh một con người, nội dung các bài báo thật phong phú.
Ai cũng muốn nói lên nét đặc sắc nhất về Võ Ngun Giáp dưới góc
nhìn của riêng mình, của ngành mình, địa phương mình. Bạn học

và học trị cũ của ông nhớ lại bao kỷ niệm về “thầy Võ - anh Văn”.
Các nhà sử học viết về quan hệ giữa ông với Hồ Chí Minh, người
đã chỉ dẫn từng đường đi nước bước cho Võ Nguyên Giáp, đã dạy
ông về đạo đức người làm tướng. Giới quân sự viết về nhãn quan
chiến lược và bản lĩnh cầm quân của ông, một thiên tài thao lược
Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, đã chỉ huy toàn quân suốt cuộc
trường chinh đánh bại 10 đại tướng của hai đế quốc to. Cán bộ y tế
viết về Võ Nguyên Giáp với ngành y. Cán bộ an ninh kể chuyện
bảo vệ Võ Nguyên Giáp trong những chuyến đi thăm bạn bè quốc
tế, v.v.. Một người thân trong gia đình lục tìm và viết những mẩu
7


chuyện xa xưa về “Võ Nguyên Giáp - quê hương - gia đình - tuổi
thơ”. Có nhà báo đi sâu tìm hiểu đời thường của vị tướng tuổi 90
mà vẫn minh mẫn, sáng sáng vẫn kiên trì giữ thói quen ngồi
thiền, chiều đi bộ trong vườn, ngày vẫn làm việc ba, bốn tiếng, ăn
năm bữa nhẹ cho dễ tiêu, thời gian còn lại đọc sách báo, xem tivi,
chơi đàn dương cầm và vui với đàn cháu nhỏ...
Báo Quân đội nhân dân chọn ngày 25/8/2001 để đăng bài nói
về khơng khí mừng thọ Võ Nguyên Giáp đúng vào sinh nhật của
ông:
“Ngay từ trước ngày sinh nhật thượng thọ, nhà Đại tướng lúc
nào cũng đơng khách. Đó là các nhà lãnh đạo, các tướng lĩnh, sĩ
quan, các đại diện chính quyền, đồn thể, các cụ bô lão, các cháu
thiếu nhi, các gia đình cơ sở cách mạng, bà con, họ hàng thân
thích... Cả khu nhà Đại tướng tràn ngập hoa. Có những bó hoa từ
những người lính năm xưa từng chiến đấu bên cạnh Đại tướng, có
bó hoa từ đầu nguồn Pác Bó, lại có những bó hoa từ người nước
ngồi. Đó cũng là nét độc đáo, là điều hiếm quý của cuộc sống thủy

chung, ân nghĩa dành cho vị Đại tướng đầu tiên của quân đội ta,
dành cho người học trò xuất sắc của Bác Hồ kính yêu”.
Nhiều nhà nghiên cứu cũng nhân dịp này đọc lại các tác phẩm
của Võ Nguyên Giáp trong kho tri thức quân sự ông để lại cho đời
sau, hoặc tìm đọc cuốn sách nào đó của người nước ngồi viết về
ơng, dù chỉ là một tác phẩm giản đơn mang tính biên niên tiểu sử
hay cuốn sách viết hoàn chỉnh về một gương mặt lớn trong lịch sử
quân sự cách mạng Việt Nam hiện đại.
Trước đây đã từng có những nhà sử học hoặc chính khách nước
ngoài đặt vấn đề xác minh lại tuổi đời của Võ Nguyên Giáp - ông
sinh năm 1910, 1911 hay 1912? Thậm chí, trên Tạp chí Thời sự
chủ nhật (The Sunday Times Magazine - 5 - 12/11/1972), sử gia
Phốc (James Fox) cịn quả quyết rằng do một sự tình cờ nào đó, ơng
ta đã tìm thấy giấy khai sinh của Võ Nguyên Giáp tại Pari, ghi rõ
8


ông sinh ngày 1/9/1910. Câu chuyện bẵng đi, coi như chưa có lời
giải trong giới nghiên cứu danh nhân thế giới. Thế rồi, nhân dịp
mừng thượng thọ năm 2001 này, có bài báo nói rõ, bà Đặng Bích
Hà, phu nhân Đại tướng, đã dựa vào lời bà cụ thân sinh ông Giáp
và kết quả tra cứu đối chiếu giữa “ngày ta” và “ngày tây” để khẳng
định: đó là ngày 25/8/1911 (năm Tân Hợi). Và thế là người ta lại
nhận ra có một sự trùng hợp lịch sử. Năm 1911 cũng là năm Cụ
Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Vào ngày đặt chân lên hải cảng
Đoongkéc1, Hồ Chí Minh, khi đó cịn là Văn Ba - Nguyễn Tất
Thành, hẳn khơng hề biết rằng đúng vào ngày này, trên Tổ quốc
mình một con người vừa chào đời và con người ấy, đúng 30 năm
sau sẽ trở thành trợ thủ đắc lực của mình. Những năm sau này, có
nhà nghiên cứu rất thích thú khi phát hiện sự hốn vị ngẫu nhiên

của những con số: ông Giáp sinh ngày 25/8 và 37 năm sau, ông
được phong quân hàm Đại tướng ngày 28/5.
Bốn ngơi sao bạc Cụ Hồ thay mặt tồn dân ban cho năm 1948,
được Võ Nguyên Giáp mang trên cầu vai suốt những năm tiếp theo
của cuộc đời binh nghiệp, cho mãi đến ngày mừng thượng thọ hơm
nay, khi mái tóc đã bạc trắng như mây.
Nói theo ngơn từ trong qn đội thì sự kiện ngày 28/5/1948 chỉ
là “chính quy hố” việc Cụ Hồ quyết định trước đó hơn 3 năm khi
Cụ “giao cho chú Văn lập Đội Quân giải phóng” vào cuối năm 1944.
Hồi đó, cùng với quyết định “chọn mặt gửi vàng”, là những lời giáo
huấn mang tính kim chỉ nam để Đội Quân giải phóng tồn tại, phát
triển và chiến thắng: Có Đảng lãnh đạo, dựa chắc vào dân, đồn kết
kỷ luật. Nắm chắc “cẩm nang” đó trong cả cuộc đời cầm qn của
mình, ơng Giáp đã dẫn dắt đội quân mà hồi đó Cụ Hồ gọi là “đội
quân thơ ấu” lớn lên nhanh chóng và đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác trên suốt ba chặng đường đấu tranh vô cùng vẻ vang của
______________
1. Dunkerque - một hải cảng miền Bắc nước Pháp.

9


dân tộc: chuẩn bị và thực hành vũ trang khởi nghĩa giành chính
quyền, kháng chiến chống Pháp rồi kháng chiến chống Mỹ. Và
trong cuộc trường chinh 30 năm ấy (1945-1975), đội quân cách
mạng khởi đầu từ súng trường chân đất dưới quyền chỉ huy của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã buộc 10 vị đại tướng (7 Pháp + 3 Mỹ) phải
thay nhau hứng chịu thất bại trên mảnh đất này.
*


*

*

Hồi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngày ông Giáp vâng
lệnh Cụ Hồ xuất quân từ Tân Trào về giải phóng Thái Nguyên
cũng là ngày Tổng thống Đờ Gôn (Charles de Gaulle) cử viên tướng
bốn sao Lơcle (Philippe Leclerc) cầm đầu quân viễn chinh Pháp
sang tái chiếm Đông Dương. Từ tháng 9 năm ấy, Lơcle trở thành
đối thủ đầu tiên của ông Giáp, khi đó là Chủ tịch Quân sự Ủy viên
hội kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền cách mạng vừa
được thành lập.
Trong bối cảnh quân đội ta hồi đó trang bị cịn rất thơ sơ, kinh
nghiệm chiến trận chưa có, cho nên khơng có gì đáng ngạc nhiên
nếu quân đội nhà nghề của Pháp nhanh chóng mở rộng phạm vi
chiếm đóng ở miền Nam. Cuối tháng 2/1946, Tổng Chỉ huy Lơcle
vội vã tuyên bố: giai đoạn đánh chiếm đã xong, quân Pháp bắt đầu
chuyển sang giai đoạn bình định và chuẩn bị tiến ra Bắc. Có một
điều vơ cùng quan trọng mà hồi đó cũng như suốt 30 năm sau, các
tướng lĩnh Pháp và Mỹ đều không đánh giá đúng thực chất đó là,
do lực lượng so sánh chênh lệch cho nên rất nhiều trường hợp quân
ta có thể mất đất, nhưng mất đất mà khơng mất dân, mà còn dân
là còn tất cả.
Ngay sau khi chiến sự bùng nổ ở Sài Gòn, Chủ tịch Quân sự
Ủy viên hội Võ Nguyên Giáp lệnh cho Tổng Tham mưu trưởng
10


Hoàng Văn Thái tổ chức ngay những đoàn quân Nam tiến chi viện
cho miền Nam. Ngày 26/9, tức chỉ ba ngày sau khi quân Pháp gây

hấn ở Nam Bộ, chuyến tàu đầu tiên đã rời ga Hàng Cỏ, hướng về
Nam, cùng với những chiến sĩ ưu tú và những vũ khí tốt nhất mà
ta có lúc bấy giờ. Bài hát Phất cờ Nam tiến mà ông Giáp gợi ý cho
ông Thái sáng tác hồi tiền khởi nghĩa, lại vang lên trong những
đồn tàu tốc hành vào Nam:
Cờ giải phóng phất cao mau thẳng tiến,
Trời phương Nam dân chúng đang mong chờ.
Tết Bính Tuất, Tết độc lập đầu tiên, Chủ tịch Quân sự Ủy viên
hội Võ Nguyên Giáp đi kinh lý miền Nam. Trước cục diện chiến
trường đang bất lợi cả về thế và lực, ông chỉ thị cho cán bộ chỉ huy
các mặt trận Tây Nguyên và Nam Trung Bộ không nên dùng binh
lực lớn dàn thành tuyến ngăn chặn địch mà tổ chức ngay những
đơn vị vừa và nhỏ, luồn vào vùng địch kiểm soát, dùng vũ trang
tuyên truyền phục hồi cơ sở chính trị, phát động chiến tranh du
kích, động viên nhân dân tham gia chiến đấu tiêu hao địch rộng
rãi bằng mọi thứ vũ khí có trong tay. Nhờ thay đổi phương thức
hoạt động mà những lõm1 chính trị và vũ trang dần dần xuất hiện
ngay trong quá trình Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9 được ký
kết, tạo nên thế mới và lực mới cho nhiều vùng ở miền Nam “khởi
nghĩa lại”. Khi kháng chiến tồn quốc bùng nổ thì thế và lực của
cách mạng ở miền Nam đã khá vững vàng.
Tháng 7/1946, Tướng Lơcle bị triệu hồi khơng chỉ vì thất bại
khơng thực hiện được ý đồ “chinh phục Nam Kỳ trong vòng vài ba
tuần lễ” như đã từng tuyên bố khi vừa đặt chân đến Sài Gịn, mà
cịn vì lúc này nội các Pháp đã chuyển sang tay Biđôn - một người
______________
1. Những địa bàn lớn nhỏ khác nhau mà lực lượng cách mạng xây
dựng được cơ sở chính trị (hay vũ trang) hoạt động bí mật (hay cơng khai)
ngay trong vùng địch kiểm soát.


11


chủ chiến. Lơcle là Tổng Chỉ huy duy nhất ít nhiều đã thấy được
tình hình thực tế, khơng tin rằng có thể chinh phục được Đơng
Dương bằng sức mạnh qn sự nên đã cùng ta thương lượng, tức là
làm một việc khơng vừa lịng tập đồn hiếu chiến Pháp, trong đó có
Cao ủy Đácgiăngliơ và cả những người đã từng làm tồn quyền
Đơng Dương như Xarơ (Albert Sarraut) hoặc ảnh hưởng chính trị
cịn rất lớn dù đã lui vào hậu trường, như Đờ Gôn. Tướng Lơcle ra
đi, chức Tổng Chỉ huy chuyển sang tay Tướng Valuy (Etienne
Valluy), người được Pari đánh giá là “có đủ năng lực gánh vác
nhiệm vụ đặc biệt khó khăn là đánh bại ơng Giáp và quân đội Việt
Minh”. Valuy là đối thủ thứ hai của ông Giáp. Khác với Lơcle, viên
tướng này chủ trương dùng vũ lực, đặc biệt là chủ trương “đánh
ngay”, dứt điểm sớm. Khi còn là chỉ huy quân Pháp ở miền Bắc
Đông Dương, trung tuần tháng 4/1946, tức chỉ một tháng sau khi
được phép đưa quân vào Hà Nội theo Hiệp định sơ bộ, Valuy đã chỉ
thị cho cấp chỉ huy dưới quyền xây dựng kế hoạch tác chiến theo
yêu cầu sẵn sàng biến tấn kịch chiến đấu có tính chất hồn tồn
qn sự thành một “màn đảo chính”. Sau khi nhậm chức, nếu viên
Tổng Chỉ huy mới này “thành công” trong việc dùng hành động
quân sự để khiêu khích và lấn chiếm để rồi cuối cùng làm bùng nổ
cuộc chiến tranh ra phạm vi cả nước thì Valuy đã phải chịu thất bại
trong hai cuộc đấu trí, đấu lực đầu tiên với ông Giáp. Tháng 7/1946,
vừa ngồi vào ghế Tổng Chỉ huy, Valuy đã cho dàn dựng một màn
kịch cùng bọn tay sai làm đảo chính ngay ở Thủ đơ Hà Nội, hịng
nhanh chóng lật đổ chính quyền cách mạng giữa lúc Cụ Hồ đang
cùng phái đoàn Việt Nam đàm phán ở bên Pháp. Được sự nhất trí
của Tổng Bí thư Trường Chinh và Cụ quyền Chủ tịch Huỳnh Thúc

Kháng, ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ - Chủ tịch Quân sự Ủy viên hội Võ
Nguyên Giáp đã chỉ đạo các chiến sĩ an ninh và tự vệ tóm gọn bọn
phản động và tay sai cùng với toàn bộ tang chứng bạo loạn, đập tan
âm mưu đảo chính của Valuy và đồng bọn ngay từ trong trứng.
12


Thất bại thứ hai có ý nghĩa chiến lược của Valuy là đã không tiêu
diệt được đội quân kháng chiến nhỏ bé ngay trong thành phố Hà
Nội sau ngày 19/12/1946. Bằng cách đánh du kích biến hố trong
từng căn nhà, từng đường phố, những chiến sĩ chân đất súng trường
đã đứng vững trong lịng Thủ đơ suốt hai tháng, vượt xa dự kiến
ban đầu của lãnh đạo cả về thời gian bám trụ và về số lượng tiêu
hao tiêu diệt địch, sau đó rời thành phố lui về căn cứ an toàn để rồi
trở thành hạt giống đỏ của bộ đội chủ lực sau này.
Mùa hè năm 1947, Pari bắt đầu sốt ruột, vì trù liệu khơng thể
tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh kéo dài và tốn kém. Người ta
phái sang cho Valuy một phó tướng “rất am hiểu Đơng Dương,
nhất là vùng thượng du Bắc Kỳ”, đó là Xalăng (Raoul Salan), viên
sĩ quan thực dân loại cáo già đã từng là thiếu úy đồn trưởng Đình
Lập (Lạng Sơn) từ những năm 1925-1930, nói được tiếng Tày,
Nùng, đã từng uống rượu cần, hút thuốc phiện. Suốt mấy tháng hè thu năm 1947, dựa vào sự hiểu biết của Xalăng, Bộ Chỉ huy Pháp
dồn sức chuẩn bị đánh một đòn quyết định vào mùa khô. Cũng
trong dịp này, ông Giáp cùng cơ quan Tổng hành dinh rời vùng
ngoại thành Hà Nội, “thiên đô” lên Việt Bắc. Ngay trên từng chặng
đường di chuyển đó, ơng triệu tập mấy hội nghị qn sự, gồm cán
bộ chỉ huy cấp khu, có khi tới cấp trung đoàn. Thực chất đây là
những cuộc tập huấn ngắn ngày nhằm chỉ vẽ cho cán bộ quân sự ở
Tổng hành dinh và cán bộ chỉ huy các đơn vị và địa phương biết
cách “ứng xử” trước những vấn đề qn sự nóng hổi do chiến

trường đặt ra, đơi khi rất khẩn trương. Dìu dắt cán bộ từng bước là
nét nổi bật trong phong cách cầm quân của Võ Nguyên Giáp, nhất
là trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, khi trình độ cán
bộ qn sự nói chung cịn rất hạn chế.
Mùa khô kháng chiến đầu tiên đã đến, mùa khơ “đánh địn
quyết định” của Bộ Chỉ huy Pháp. Ngày 7/10/1947, gần 20.000
quân Pháp hình thành hai gọng kìm rất lớn (gọng kìm phía đơng:
13


Hà Nội - Lạng Sơn - Cao Bằng, chừng 400 km; gọng kìm phía
tây: Hà Nội - Tun Quang - Chiêm Hoá, chừng 250 km) bao vây
căn cứ địa kháng chiến, kết hợp với quân dù nhảy thẳng xuống
trung tâm Việt Bắc (tức thị xã Bắc Kạn, mà phía Pháp lầm gọi là
“thủ đơ kháng chiến” vì cho rằng đó là nơi Cụ Hồ đóng đơ) hịng
“bắt gọn Chính phủ Hồ Chí Minh và tiêu diệt bộ đội chủ lực”.
Tình huống chiến lược đặc biệt khẩn trương này xảy ra đúng vào
dịp Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp đang đi kinh lý huyện Chiêm
Hoá (Tuyên Quang).
Vừa trở về Tổng hành dinh, sau khi nghe báo cáo, phát hiện
chỗ yếu chí tử của địch là binh lực nhiều nhưng rải ra trên một địa
bàn rừng núi quá rộng, rất xa căn cứ đồng bằng, tiếp tế tăng viện
khó khăn, ơng Giáp báo cáo với Trung ương và Cụ Hồ, đề nghị
thay đổi cách đánh. Địch dùng bộ binh cơ giới, quân dù, xe tăng và
pháo binh tiến công ồ ạt, ta không thể đem chủ lực của khu và của
bộ ra đối mặt với các mũi tiến công của địch như kế hoạch ngày
4/10 của bộ, mà nên dùng những đơn vị vừa và nhỏ, lấy phục kích
địch trên các trục đường bộ và đường sông là chủ yếu, đồng thời
đưa một số đại đội chủ lực xuống hoạt động độc lập ở các châu,
huyện, với nhiệm vụ chủ yếu là chiến đấu tiêu hao địch đi đơi với

dìu dắt lực lượng vũ trang địa phương phát động chiến tranh du
kích đánh địch rộng rãi, động viên giúp đỡ nhân dân làm “vườn
không nhà trống”, cất giấu lương thực, phá hoại đường sá... Chỉ vài
tuần sau khi quân ta triển khai lực lượng trên ba hướng đường
số 4, đường số 3 và sông Lô - đường số 2, hàng vạn quân địch bị
dồn vào tình thế ngày càng khó khăn vì thời tiết thượng du khắc
nghiệt, sức khỏe giảm sút, thiếu tiếp tế tăng viện, lại luôn bất ngờ
bị những đội qn biến hố khơn lường (mà chúng gọi là “qn đội
ma” - armée fantôme) lợi dụng rừng rậm núi cao tổ chức những
trận phục kích tiêu hao hằng ngày, nên cuối cùng phải rút chạy
khỏi Việt Bắc sau 75 ngày hành quân. Nhạy bén phát hiện phương
14


thức tác chiến không sát đúng, kịp thời và kiên quyết thay đổi
cách đánh cho phù hợp với thực tế chiến trường, là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong mùa khơ
đầu tiên của cuộc kháng chiến.
Đầu năm 1948, Cụ Hồ và Trung ương Đảng chủ trương phát
động chiến tranh du kích rộng khắp trong cả nước nhằm động viên
toàn dân tham gia chiến đấu, tiêu hao địch rộng rãi, buộc chúng
phải phân tán binh lực đối phó ở nhiều nơi, hạn chế khả năng địch
mở rộng phạm vi chiếm đóng và bình định vùng tạm chiếm, nhất
là ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Ông Giáp đã thực hiện chủ
trương chiến lược này một cách đặc biệt sáng tạo. Với kinh nghiệm
sốt dẻo chỉ đạo các đại đội được phân tán về hoạt động độc lập ở các
châu, huyện trong Chiến dịch Việt Bắc vừa qua và kinh nghiệm
vận động tổ chức quần chúng trong thời kỳ chuẩn bị vũ trang khởi
nghĩa, ông đề nghị Trung ương cho phân tán một phần ba bộ đội
chủ lực thành những đại đội độc lập làm chỗ dựa cho các đội vũ

trang tuyên truyền, các ban xung phong công tác, tiến sâu vào
vùng tạm bị chiếm, gây dựng lại cơ sở chính trị quần chúng, giúp
đỡ cán bộ địa phương tổ chức lực lượng vũ trang bí mật, lập làng
chiến đấu, đánh du kích, bảo vệ thơn xóm. Bằng phương thức hoạt
động này, các tổ chức chính trị và vũ trang (mà địch gọi là “những
chấm đỏ”) dần dần xuất hiện ngày càng nhiều trên các tấm bản đồ
chiến sự vùng địch hậu. Các trận chiến đấu tuy nhỏ, lẻ nhưng
ngày càng phổ biến của lực lượng vũ trang tại chỗ đã thu hút một
bộ phận quan trọng binh lực của địch vì chúng phải thường xuyên
phân tán để đối phó, góp phần quan trọng đẩy Bộ Chỉ huy Pháp
đứng trước nguy cơ khủng hoảng quân số ngày càng trầm trọng.
Hai phần ba bộ đội chủ lực cịn lại được duy trì ở quy mơ tiểu đoàn
tập trung và được rèn luyện từng bước trong các chiến dịch nhỏ
quy mơ 2 - 3 tiểu đồn, vừa học tập đánh tập trung tiêu hao tiêu
diệt địch, vừa rút kinh nghiệm trong thực tế chiến đấu. Hình thái
15


chiến trường những năm 1948-1950 cho thấy, Tổng Chỉ huy Võ
Nguyên Giáp rất coi trọng vai trò chiến lược của chiến tranh du
kích, nhưng ơng khơng dừng lại ở “chủ nghĩa du kích” mà chủ động
kết hợp từng bước chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy từ
thấp lên cao1. Đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung là phương thức
xây dựng lực lượng chưa từng thấy trong kho tàng kinh nghiệm
quân sự đông tây kim cổ, mà là cách dùng binh riêng của Việt Nam,
một sáng tạo của Võ Nguyên Giáp, nhằm tạo thế “kiềng ba chân”
vững chắc cho lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương và dân quân, du kích. Bằng biện pháp chiến lược này,
ơng vừa thực hiện được chủ trương của Trung ương về phát động
chiến tranh du kích vừa duy trì được sự kết hợp thường xuyên chặt

chẽ giữa hai phương thức tác chiến chiến lược: chiến tranh du kích
và chiến tranh chính quy - một loại chiến tranh chính quy Việt
Nam, bắt đầu bằng các trận đánh tập trung quy mơ nhỏ và vừa.
Chiếm đóng miền núi không được, làm chủ trung du và đồng
bằng không xong, Tướng Valuy bị triệu hồi, Tướng Bledô (C. Blaizot)
sang thay và trở thành đối thủ thứ ba của ông Giáp. Đúng dịp này,
ở tuổi 37, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp được Cụ Hồ thay mặt
Chính phủ và nhân dân phong quân hàm Đại tướng. Đây là lần
phong quân hàm đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong cuộc đời
binh nghiệp của ông.
Trải qua hơn 20 chiến dịch nhỏ, bộ đội chủ lực đã trưởng
thành, đánh dấu bằng sự ra đời của hai đại đoàn chủ lực đầu tiên
______________
1. Xem các huấn lệnh: Về sự cần thiết phải chuyển sang du kích vận
động chiến (6/3/1947), Chuyển từ tiêu hao chiến sang tiêu diệt chiến
(8/1947), Phát động chiến tranh du kích - Nhiệm vụ quân sự căn bản
trong giai đoạn này (14/11/1947) trong Những tài liệu chỉ đạo cuộc đấu
tranh vũ trang của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tham
mưu xuất bản, Hà Nội, 1964, t.1, tr.141, 205, 163.

16


(Đại đoàn 308 - tháng 8/1949 và Đại đoàn 304 - tháng 3/1950).
Trong khi đó, phía Pháp ngày càng đứng trước những khó khăn
chồng chất. Chỉ mới sau 4 năm chiến tranh, Pari đã 12 lần thay
đổi nội các. Trước tình thế khơng thể một mình theo đuổi cuộc
chiến tranh kéo dài và tốn kém quá sức chịu đựng của ngân sách
quốc gia, tháng 5/1949, Pari cử Tổng Tham mưu trưởng Rơve
(C.Revers) sang lập kế hoạch từng bước đưa cuộc chiến tranh Đông

Dương vào quỹ đạo của Mỹ, đồng thời triệu hồi Tướng Bledô, đưa
Tướng Cácpăngchiê (M.Carpentier) sang làm Tổng Chỉ huy, “đứng
mũi chịu sào” thực thi kế hoạch chiến lược Rơve1. Cácpăngchiê trở
thành đối thủ thứ tư của ông Giáp đúng vào dịp những chuyến tàu
viện trợ quân sự đầu tiên của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc bắt đầu
cập bến Sài Gòn và Hải Phòng. Chỉ một năm sau, bằng chiến dịch
tiến công đầu tiên quy mô tương đối lớn (gần 2 đại đồn) diễn ra vào
mùa khơ năm 1950 trên chiến trường Đông Bắc, tiêu diệt gần 10
tiểu đồn Pháp và Âu - Phi, giải phóng con đường chiến lược số 4,
Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã buộc Tổng Chỉ huy Cácpăngchiê
phải chấp nhận cái mà phía Pháp gọi là “thảm họa Cao Bằng” để rồi
ngay sau đó bị triệu hồi về nước. Tháng 12 năm đó, Pari phải xuất
một viên tướng tuổi đã 60, với năm sao bạc trên cầu vai, sang cầm
đầu quân viễn chinh với nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là “cứu lấy
Đông Dương không để tuột khỏi Khối Liên hiệp Pháp”. Viên lão
tướng nổi tiếng này thuộc lớp đàn anh trong hàng tướng soái Pháp
______________
1. Kế hoạch Rơve gồm: 1- Tranh thủ viện trợ của Mỹ để tăng cường
sức mạnh quân viễn chinh; 2- Vận dụng chính sách “lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh - dùng người Việt đánh người Việt” (đánh bằng chiến tranh
tổng hợp); 3- Đề cao vai trị chính quyền thân Pháp để thu hút các lực
lượng chống kháng chiến; 4- Rút ngắn phịng tuyến biên giới Đơng Bắc
đến Lạng Sơn, củng cố vùng tạm chiếm ở trung du và trung châu Bắc Bộ;
5- Phát triển quân đội tay sai đi đôi với xây dựng khối cơ động Âu - Phi
lớn mạnh.

17


vì đã lập khá nhiều chiến tích trong Thế chiến 2, lại thuộc dịng dõi

q tộc Pháp đó là Đờlát (Jean Joseph Marie Gabriel Delattre de
Tassigny). Đối thủ thứ năm này của ông Giáp được những người
cầm đầu Nhà Trắng và Lầu Năm Góc coi là “sáng giá nhất” trong
hàng ngũ tướng lĩnh Pari lúc bấy giờ, lại được cựu Tồn quyền Xarơ
và cựu Tổng thống Đờ Gơn hết sức ưu ái và tin cậy, căn dặn đủ điều
hơn thiệt trước khi lên đường.
Đờlát có mặt ở Sài Gịn ngày 17/12/1950 cùng với một bộ máy
chỉ huy hoàn toàn mới, gồm những sĩ quan cao cấp mà ông ta rất
tin cậy thuộc Qn đồn 1 do chính ơng ta chỉ huy trước đây - vốn
nổi danh vì thành tích cùng qn đội Đồng minh giải phóng Thủ
đơ Pari mùa thu năm 1944. Trong “bộ sậu” mới này, người ta lại
thấy Xalăng, trên cương vị phó tướng của Đờlát. Để thể hiện quyết
tâm bảo vệ bằng được cái mà bọn thực dân ở Pari gọi là “bông hoa
đẹp nhất trong vườn hoa thuộc địa Pháp”, đặc biệt là để thực sự
làm chủ vùng châu thổ sông Hồng mà giới quân sự Pháp thường ca
ngợi là vùng đồng bằng có ích, Đờlát vạch ra một kế hoạch chiến
lược quan trọng với tham vọng giành lại quyền chủ động chiến lược
đã rơi vào tay ông Giáp1. Nét nổi bật trong kế hoạch này là, trên cơ
sở tranh thủ sự viện trợ ngày càng tăng của đế quốc Mỹ, xây dựng
______________
1. Kế hoạch chiến lược mang tên Đờlát gồm mấy nội dung chủ yếu
sau đây: 1- Việt Nam hoá, cụ thể là hết sức đề cao vai trị chính quyền
Bảo Đại; tranh thủ ở mức cao nhất viện trợ của Mỹ để phát triển lực
lượng quân đội tay sai thay thế nhiệm vụ chiếm đóng để quân Âu - Phi
được tập trung xây dựng thành lực lượng cơ động lớn mạnh, đẩy mạnh
hơn nữa chiến lược chiến tranh tổng lực đã được đề ra từ hồi Rơve sang;
2- Thiết lập vành đai bêtông vây quanh đồng bằng Bắc Bộ, đi đôi với càn
quét vùng đồng bằng sông Hồng tạm chiếm, bảo đảm cho Hà Nội và Hải
Phòng “vững chắc như pháo đài thép”; 3- Kịp thời mở chiến dịch tiến công
giành lại quyền chủ động chiến lược, trong đó (theo sử gia Lucien Bodart,

tác giả cuốn Chiến tranh Đơng Dương) có ý đồ “chiếm lại Lạng Sơn, trả
thù cho đường số 4”.

18


một phịng tuyến bêtơng vây quanh đồng bằng Bắc Bộ và phát
triển quân đội tay sai với quy mô lớn chưa từng thấy kể từ đầu
chiến tranh hòng khắc phục nạn khủng hoảng binh lực ngày càng
trầm trọng. Điểm mới của kế hoạch Đờlát là, lần đầu tiên xuất
hiện cụm từ “Việt Nam hố chiến tranh” (Vietnamisation), nói lên
âm mưu dựa vào viện trợ của đế quốc Mỹ để xây dựng một đội
quân tay sai bản xứ ngày càng lớn. Đờlát là người đi đầu trong việc
tạo điều kiện cho đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào cuộc
chiến tranh Đông Dương. Sau này, liên hệ những việc làm của
Đờlát đầu thập kỷ 50 của thế kỷ XX với cuộc chiến tranh xâm lược
của Mỹ hơn chục năm sau, trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ,
ông Giáp nhận xét rằng: “Với việc mở đường cho thực dân mới vào
Việt Nam, Đờlát đã mang đến cho ta một hiểm hoạ lâu dài”.
Một thuận lợi rất cơ bản đối với Đờlát là, ngay từ những năm
Chiến tranh thế giới thứ hai, ông ta đã có mối quan hệ rất thân
quen với nhiều tướng lĩnh hàng đầu của Đồng minh, như tướng Mỹ
Aixenhao (Eisenhower), tướng Anh Mônggômêry (Montgomery)...,
những người luôn sẵn sàng gây sức ép với chính quyền nhằm đáp
ứng yêu cầu viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương.
Thực tế cho thấy, kết quả viện trợ “hết mình” của Mỹ và Anh là
điều kiện cơ bản nhất giúp cho Đờlát triển khai khá thuận lợi kế
hoạch chiến lược nói trên. Tuy nhiên, trong mấy tháng xuân - hè
năm 1951, việc triển khai kế hoạch Đờlát gặp khơng ít khó khăn vì
qn ta mở liền ba chiến dịch tiến cơng trên các chiến trường

trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trong cả ba chiến dịch đó, điểm nổi
bật là Tổng Chỉ huy Pháp đã tận dụng điều kiện địa hình thuận lợi
để cơ động lực lượng ứng cứu và phát huy sức mạnh tối đa của
binh khí, kỹ thuật hịng dựng lại tinh thần của ba quân đã suy sụp
nghiêm trọng sau thất bại ở biên giới mùa khô năm trước.
Lần đối phó quyết liệt đầu tiên là khi ơng Giáp mở chiến dịch
tiến công trên địa bàn Vĩnh Yên (Chiến dịch Trần Hưng Đạo 19


tháng 1/1951). Hằng ngày, Đờlát và Xalăng thay nhau bay đi bay về
như con thoi giữa Vĩnh Yên và Hà Nội. Việc Tổng Chỉ huy trực tiếp
có mặt ở nơi có tiếng súng là chuyện hiếm thấy ở các vị tổng chỉ huy
trước Đờlát. Thế mà hai viên tướng này có ngày (như ngày 15/1)
đi về tới ba lần. Rồi hàng chục tiểu đoàn được cấp tốc điều đến cứu
viện. Tướng Baiip (Baillif, chỉ huy phó chiến trường Nam Bộ) được
lệnh ra ngay miền Bắc để trực tiếp điều hành cuộc chiến ở Vĩnh
Yên. Trên một vùng trung du nhỏ hẹp như vậy mà Pháp tiến hành
tới 250 phi vụ oanh tạc, có ngày máy bay ném bom xuất kích tới
80 lần/chiếc, pháo binh Pháp đã bắn 50.000 viên đại bác 105 mm,
200.000 viên 75 mm. Lần đầu tiên bom cháy (napalm) được đem ra
sử dụng. Nhưng rồi, như sau này Tướng Xalăng viết trong hồi ký,
Đờlát đã phải thú nhận với phó tướng rằng ơng ta lo lắng về số
thương vong quá nhiều của quân Pháp và Âu - Phi ở Vĩnh Yên,
rằng trận Vĩnh Yên để lại nhiều vấn đề quan trọng, rất đáng học
tập, không thể xem nhẹ. Cịn Xalăng thì đánh giá sự kiện Vĩnh
n cho thấy “quân đội Việt Minh đại diện cho một sức mạnh mà
chúng ta (Pháp) không thể coi thường. Tất cả chiến binh của họ
được giáo dục tốt tới mức có một tinh thần chiến đấu kỳ lạ. Điều đó
đã gây ấn tượng sâu sắc và ảnh hưởng lớn đến tinh thần lính Bắc
Phi. Chính tướng quân (tức Đờlát) cũng bị kích động bởi nhiệt tình

chiến đấu, lối đánh thơng minh của người lính Việt Minh trong
tiến cơng cả ban ngày và ban đêm, v.v..”.
Cuộc đọ sức thứ hai diễn ra hai tháng sau, trên hướng đường 18
và vùng duyên hải Đơng Bắc. Ơng Giáp mở Chiến dịch Hồng Hoa
Thám đúng dịp Đờlát đang về Pháp cầu viện. Được tin “vùng mỏ
bùng cháy”, Đờlát vội rời Pari lật đật lên đường để có mặt ở Hà Nội
tối 26/3 rồi lao xuống Hải Phịng trực tiếp điều binh khiển tướng đối
phó với cuộc tiến công đang lan rộng của đối phương. Đô đốc ctơli
(Ortoli) được cấp tốc gọi đến. Mọi phương tiện hỏa lực, kể cả pháo
của hải quân và thủy đội xung kích đều được huy động để cứu nguy
20


cho Mạo Khê, Bí Chợ, Tràng Bạch... Thêm một điều bất ngờ đối với
Đờlát là chỉ hai tháng sau, ông Giáp lại mở chiến dịch mới ở hướng
Hà Nam Ninh (Chiến dịch Quang Trung) và trong cuộc đọ sức thứ
ba này, nỗi đau khơng gì hàn gắn được đối với Tướng Đờlát là đứa
con duy nhất và cuối cùng của dòng họ là Bécna Đờlát (Bernard
Delattre, 23 tuổi) đã bị chết trong trận đánh ở mỏm núi Thúy (Gối
Hạc) ngày 30/5. Theo nhận xét của Xalăng, sau khi đưa xác con về
Pháp rồi trở lại chiến trường, Tổng Chỉ huy suy sụp cả về tinh thần
và thể chất, nhất là khi bệnh ung thư tái phát.
Đến cuối năm 1951, việc xây dựng cơ sở vật chất của kế
hoạch chiến lược của Đờlát về cơ bản đã hoàn thành. 28 trong
tổng số 45 tiểu đoàn quân đội tay sai đã được xây dựng và bước
đầu được tổ chức thành 4 sư đoàn, do sĩ quan Pháp chỉ huy.
Quân Pháp và Âu - Phi dần dần được tổ chức thành 7 GM1 và
trở thành lực lượng chủ yếu được Đờlát tung ra để đối phó với
các chiến dịch tiến cơng xn - hè của đối phương. Phịng tuyến
boongke đã hình thành về cơ bản, với trên 80 vị trí (khoảng 800

lơ cốt) kéo dài từ Tiên Yên - Móng Cái lên Việt Trì - Sơn Tây rồi
quặt xuống Ninh Bình - Phát Diệm. 25 tiểu đồn Âu - Phi bị
chơn chân ở đây cùng với rất nhiều trang bị kỹ thuật để bảo vệ
phòng tuyến. Hàng loạt cuộc hành binh càn quét quy mơ lớn
thường xun diễn ra bên trong phịng tuyến, nhằm “quét sạch
những chấm đỏ, ổn định hậu phương”. Mọi thủ đoạn dã man tàn
ác đã diễn ra trong những cuộc càn quét này: đốt phá thóc lúa,
bắn giết trâu bị, phá hoại nơng cụ, tàn sát nhân dân và đặc biệt
là bắt lính để phát triển quân đội tay sai.
Bước sang tháng 11/1951, mặc dù kế hoạch chiến lược chưa
thật mười phần hoàn tất, nhưng Pari thúc giục Tổng Chỉ huy Pháp
phải ra quân để giành lại quyền chủ động chiến lược từ tay ông Giáp.
______________
1. GM: Chữ viết tắt của từ Groupement mobile (binh đoàn cơ động tương đương một trung đoàn tăng cường).

21


Thế là Tướng Đờlát quyết định cái mà ông ta gọi là “đánh một
canh bạc lớn”, cụ thể là đem hơn 30 tiểu đồn ra ngồi phịng
tuyến boongke, chiếm thị xã Hồ Bình và hai trục đường số 6 và
sơng Đà, với ý đồ “bẻ Việt Minh ra làm đôi”. Ngày 15/11, cuộc hành
quân kết thúc, Tướng Đờlát họp báo tun bố: “Tơi đã tóm cổ được
qn địch”. Hơm sau ơng ta thân chinh ra thị xã Hồ Bình, động
viên ba quân “hãy củng cố công sự cho thật vững chắc và chờ đợi
cuộc đụng độ với Việt Minh”. Nói rồi, bốn ngày sau, ơng ta rời Sài
Gịn về Pháp chữa bệnh, quyền Tổng Chỉ huy tạm chuyển sang tay
Phó tướng Xalăng.
Trong Thư gửi các cán bộ, chiến sĩ chủ lực và dân qn, du
kích trong Chiến dịch Hồ Bình, Cụ Hồ viết: “Trước kia, ta phải

lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất
tốt cho ta...”1. Sau này được biết, Tướng Đờlát hy vọng ơng Giáp
dồn sức đánh vào tập đồn cứ điểm (6 tiểu đồn tinh nhuệ trong
cơng sự bêtơng cùng rất nhiều binh khí, kỹ thuật) mà ơng ta vừa
cho xây dựng trong thị xã Hồ Bình. Đó cũng chính là hy vọng đạt
được ý đồ “bẻ gãy Việt Minh” (casser le Viet). Nhưng, như nhận xét
của ký giả kiêm sử gia Bécna Phơn (Bernard Fall): Ơng Giáp có
phương pháp riêng của mình. Ơng khơng giao chiến ngay nếu
khơng ưu thế về lực lượng. Khi đã để cho quân Pháp tung hết sức
đánh vào chỗ không người trên chiến trường rừng núi, tức là tạo
cho ông một khả năng chiến thắng như ở đường số 4 năm 1950,
ông Giáp mới điều gần hết quân chính quy ra mặt trận Hồ Bình
với một tốc độ nhanh kinh khủng... Khi giao nhiệm vụ tác chiến
chiến dịch, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp động viên tư lệnh các
đại đoàn: Chúng ta phải quyết tâm biến sông Đà thành sông Lô,
biến đường số 6 thành đường số 42.
______________
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 6, tr. 341.
2. Ý nói phải buộc Pháp thất bại như trên sông Lô và đường số 4
trong Chiến dịch Việt Bắc mùa khô năm 1947.

22


Tướng Đờlát cứ hy vọng, trong khi Tướng Giáp có phong cách
cầm qn riêng của mình, ngồi tầm suy nghĩ của tướng lĩnh Pháp.
Lượng sức mình, ơng Giáp tạm thời tránh chỗ mạnh của địch là tập
đoàn cứ điểm Hoà Bình, tập trung đánh mạnh trên hai trục giao
thơng trên bộ và trên sông, đặc biệt là đánh liên tục các đoàn tàu,
đoàn xe vận tải của quân Pháp trên đường số 6 (mà họ gọi là ống thực

quản khô) và trên sơng Đà (ống thực quản ướt). Đó là hai con đường
tiếp tế huyết mạch ni sống tồn bộ qn Pháp trên mặt trận Hồ
Bình. Cũng trong dịp này, xuất hiện thêm một nét đặc sắc trong nghệ
thuật cầm qn của Võ Ngun Giáp. Phán đốn tình hình vùng sau
lưng địch sơ hở vì chúng dồn quân ra mặt trận phía trước, ơng cho hai
đại đồn luồn qua phịng tuyến boongke tiến sâu vào vùng trung du
và đồng bằng sông Hồng, phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ tiêu
diệt rất nhiều đồn bốt của địch, giải phóng gần 2 triệu dân trên một
diện tích 4.000 km2 trong vùng địch hậu. Bị đánh mạnh trên cả hai
mặt trận, Tướng Xalăng điều các GM 1, 3, 4, 7 như đèn cù từ trong
phịng tuyến ra ngồi rồi lại từ ngồi trở vào để đối phó nhưng vẫn
khơng cứu vãn được tình thế. Cái dạ dày Hồ Bình có nguy cơ bị teo
đi vì cả hai “ống thực quản” bị khống chế gay gắt, có thể bị cắt đứt
hẳn. Đúng lúc đó thì từ Pari bay sang một tin sét đánh: Tướng Đờlát
đờ Tátxinhi đã về chầu Chúa ngày 11/1/1952. Lập tức Xalăng quyết
định thu hẹp dần thế chiếm đóng và cuối cùng cho quân rút chạy
khỏi mặt trận Hoà Bình ngày 22/2. Bécna Phơn để lộ một chi tiết: Để
bảo đảm cho khối quân chừng 20.000 tên tháo chạy an toàn trong
suốt ba ngày, Pháp đã phải bắn trên 30.000 viên đại bác suốt từ Hồ
Bình, dọc đường số 6 về đến Xuân Mai. Sau này, trong hồi ký, Tướng
Xalăng thú nhận, chỉ đến 6 giờ sáng ngày 25/2, khi đơn vị cuối cùng
thoát chết chạy qua ngã tư Xn Mai, “tơi mới thở phào nhẹ nhõm vì
vừa trút được một gánh nặng”.
Đó là sự thú nhận “thật thà” về thất bại của cuộc tiến cơng
đánh chiếm Hồ Bình cũng tức là thất bại trong ý đồ giành lại
23


×