Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Top 9 bài phân tích nhân vật vũ nương siêu hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.37 KB, 31 trang )

TOP 9 BÀI PHÂN TÍCH NHÂN V ẬT VŨ NƯƠNG SIÊU HAY


1. Phân tích nhân v ật Vũ Nương dàn ý



2. Phân tích nhân v ật Vũ Nương - mẫu 1



3. Phân tích nhân vật Vũ Nương - mẫu 2



4. Phân tích nhân v ật Vũ Nương - mẫu 3



5. Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương



6. Phân tích nhân v ật Vũ Nương trong Chuy ện người con gái Nam
Xương



7. Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương




8. Phân tích nhân v ật Vũ Nương chi ti ết



9. Phân tích nhân v ật Vũ Nương để thấy được số phận của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến

Phân tích nhân vật Vũ Nương - Vũ Nương là nhân v ật trong chuyện Người
con gái Nam Xương c ủa tác giả Nguyễn Dữ. Thơng qua tác phẩm người đọc
có thể cảm nhận được vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương, qua đó tác gi ả cũng
muốn khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Trong
bài viết này Hoatieu xin chia s ẻ dàn ý phân tích nhân v ật Vũ Nương và bài
cùng với các bài văn mẫu phân tích nhân vật Vũ Nương chi ti ết để các bạn
hiểu rõ hơn về nhân vật và tác phẩm.
1. Phân tích nhân v ật Vũ Nương dàn ý
I. Mở bài


Giới thiệu nhà văn Nguy ễn Dữ, tác phẩm “Chuyện người con gái Nam
Xương”.



Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương - nhân vật chính của truyện.

II. Thân bài


1. Hồn cảnh sống của Vũ Nương



Xã hội phong kiến nam quyền với những bất cơng với người phụ nữ.



Chiến tranh loạn lạc xảy ra chia cắt nhiều gia đình.

2. Vẻ đẹp của Vũ Nương


Vũ Nương là người vợ hiền, khuôn phép: bi ết chồng đa nghi nên hết
sức giữ gìn khn phép, khi ch ồng phải đi lính thì không mong công
danh mà chỉ hy vọng chồng trở về bình an, hết lịng chung thủy chờ đợi
chồng.



Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo, người vợ yêu thương con h ết
mực: chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau, khi mẹ chồng chết lo tang như
đối với mẹ đẻ, thương con phải xa cha từ nhỏ…

3. Số phận của Vũ Nương


Khơng được quyết định cuộc đời mà phải chịu sự sắp xếp của cha mẹ:
hôn nhân không môn đăng h ộ đối.




Lấy chồng nhưng phải chịu sự chia ly bởi chiến tranh.



Bị chồng nghi là thất tiết, phải lấy cái chết để chứng minh sự trong
sạch.



Khi chết rồi, muốn trở về bên gia đình nhưng khơng đư ợc nữa.

4. Nghệ thuật


Nghệ thuật kể chuyện độc đáo cho thấy chân dung người phụ nữ với vẻ
đẹp tồn diện.



Nghệ thuật xây dựng nhân vật: miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật Vũ
Nương thơng qua đ ối thoại, độc thoại…



Yếu tố kì ảo góp phần xây dựng cốt truyện.

III. Kết bài





Vũ Nương là nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ trong xã hội cũ.



“Chuyện người con gái Nam Xương” nói riêng, “Truy ền kì mạn lục” nói
chung gửi gắm nhiều ý nghĩa nhân văn sâu s ắc.

2. Phân tích nhân v ật Vũ Nương - mẫu 1
Truyện Người con gái Nam Xương là câu chuy ện về số phận oan nghiệt của
một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì
một lời nói ngây thơ c ủa con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy đến bước
đường cùng, phải kết liễu cuộc đời mình để giãi tỏ tấm lịng trong sạch. Đó là
số phận, hình ảnh của Vũ Nương, một nhân vật chịu nhiều oan nghiệt.
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở
đây là Vũ Nương, ông đã đ ặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện
rõ được phẩm chất của người phụ nữ thương chồng, yêu con, hiếu thảo với
cha mẹ chồng đồng thời cũng hết mực thủy chung son sắc. Trong cuộc sống
vợ chồng bình thường, nàng đã giữ gìn khn phép, khơng khi nào v ợ chồng
phải để đến bất hòa mặc dù Trương Sinh là người chồng tính hay ghen tng,
đối với vợ thì phịng ngừa q mức.


Thật là một cảnh làm cho mọi người phải xúc động, khi Vũ Nương ti ễn chồng
đi lính. Thơng thư ờng thì khi chồng đi lính nhiều người mong chồng có được
cơng danh gì mang về để vinh hiển, cịn đối với Vũ Nương thì l ại khơng trơng
mong vinh hiển mà chỉ cầu chồng được bình yên trở về; nàng cịn cảm thơng
với những vất vả, gian lao mà chồng mình sẽ phải chịu đựng; nàng nói đến
nỗi nhớ nhung khắc khoải của mình, bằng những lời rất ân cần; đằm thắm
tình cảm.

Khi xa chồng, Vũ Nương l ại là một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết,
nỗi buồn nhớ cứ dài theo măm tháng “bư ớm lượn đầy vườn”, “mây che kín
núi” tác giả đã dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng, mượn cảnh vật thiên nhiên
để diễn tả sự trơi chảy của thời gian. Nàng cịn là ngư ời con dâu hiếu thảo,
người mẹ hiền, một mình vừa ni con nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ chồng
đau ốm, nàng lo thuốc thang, cầu khấn phật trời, và lúc nào cũng ân cần, dịu
dàng, lấy lời ngon ý ngọt khéo léo khuyên m ẹ gắng dưỡng sức để chờ Trương
Sinh quay trở về. Vì thế cho nên trước khi mẹ chồng nhắm mắt bà đã nói với
Vũ Nương rằng Vũ Nương là ngư ời con dâu tốt khi Trương Sinh v ề sẽ khơng
phụ lịng tốt của nàng. Rồi nàng cũng hết sức thương sót mẹ và lo ma chay tế
lễ như lo cho cha mẹ ruột của mình.
Tưởng rằng khi Trương sinh về thì Vũ Nương đư ợc sống ngập tràn trong niềm
vui và hạnh phúc và nàng cũng chia s ẻ bớt gánh nặng cuộc sống cho chồng ai
ngờ nàng bị một nỗi oan không tài nào thanh minh n ổi, mặc dù nàng đã hết
lời phân trần tấm long son sắc thủy chung của mình cho chồng hiểu như:
Nàng nói đến thân phận mình nghèo được nương nhờ nơi giàu có, tình nghĩa
vợ chồng bao năm và kh ẳng định tấm lòng thủy chung trong tr ắng, cầu xin
chồng đừng nghi oan. Như v ậy đã chứng tỏ nàng đã hết sức cứu vãn, mong
hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan v ỡ. Sau nữa nàng nói lên nỗi
đau đớn, thất vọng khi khơng hiểu vì sao bị đối xử bất cơng, khơng có quyền
được tự bảo vệ, ngay cả khi có họ hàng, anh em đến nói giúp. Hạnh phúc gia
đình, niềm khát khao của cả cuộc đời nàng đã tan vỡ như bong bong. T ất cả
những nỗi đau khổ chờ chồng trước đây khơng cịn có thể làm lại được nữa.


Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn
được, Vũ Nương đành ph ải mượn dòng nước quê hương để giải nỗi oan cho
mình. Những lời than trước khi vĩnh viễn cuộc đời đầy đau khổ của mình
nhưng cũng đầy luyến tiếc, như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi
oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng. Ở đoạn truyện này, tình tiết được

sắp xếp đầy kịch tính, Vũ Nương bị đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất
tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng khơng thành. Hành đ ộng
tự trầm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn
danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí. Đây
khơng phải là hành động bộc phát trong cơn nóng gi ận.
Vũ Nương đúng là một người phụ nữ xinh đẹp nết na thùy mị, hiền thục, lại
đảm đang tháo vát, th ờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một lòng một dạ
chung thủy với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. M ột con
người như thế đáng ra phải được hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết
một cách oan uổng, đau đớn. vậy nguyên nhân nào dẫn tới kết quả đáng buồn
ấy. Có phải chăng vì cuộc hơn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nươ ng khơng
bình đẳng chính sự cách bức về thân phận nghèo khó của Vũ Nương đã c ộng
thêm cái thế cho Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng, người
đàn ông gia trư ởng trong chế độ phong kiến. Hay đó là nh ững lời nói ngây
thơ của đứa trẻ, chứa đầy những dữ kiện nghi ngờ làm cho Trương Sinh m ột
người chồng hay có tính đa nghi ghen tng, h ồ đồ và độc đốn kia trở thành
kẻ thơ bạo, vũ phu là kẻ bức tử vợ mình trong sự mù qng, kẻ giết người lại
hồn tồn vơ can trong v ụ án.
Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo cái xã hội phong kiến xem trọng quyền uy
của kẻ giàu và của đàn ông trong gia đình, đ ồng thời bày tỏ niềm thương cảm
của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ bất
hạnh ở đây không những không được bênh vực, che chở mà còn bị đối xử một
cách bất cơng, vơ lí, chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng cịn hơi sữa và
vì sự hồ đồ, vũ phu của người chồng ghen tuông mà ph ải kết liễu đời mình.
3. Phân tích nhân v ật Vũ Nương - mẫu 2


Trong văn học dân gian và văn học viết của nước ta, người phụ nữ bình dân
đã nêu cao những giá trị cao đẹp về đạo đức, phẩm chất. Nhưng sống trong xã
hội phong kiến đầy rẫy những bất công, oan trái, h ọ phải chịu nhiều đau khổ

và bất hạnh. Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” c ủa Nguyễn Dữ ta
thương Vũ Thị Thiết phải chịu nỗi oan khuất và để giải nỗi oan, nàng đã tìm
đến cái chết thật thương tâm.
Nguyễn Dữ giới thiệu với ta nhân vật Vũ Nương - một phụ nữ đẹp người, đẹp
nết. Nàng có tư dung đ ẹp, tính tình lại hiền dịu, nết na. Khi làm v ợ Trương
Sinh, một người chồng có tính đa nghi, nàng v ẫn giữ gìn khn phép để
khơng xảy ra cảnh bất hồ. Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu,
chiến tranh xảy ra, chồng phải ra trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm
trạng đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình, cảm
động làm cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. “Nàng chẳng cầu mong chồng
đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình n vơ sự”. Nguyện vọng
của nàng thật giản dị mà sâu sắc.
Mấy năm chồng đi xa, ở nhà một tay nàng lo toan m ọi công việc gia đình,
ni con từ trứng nước đến khi lớn khơn. Nàng còn là ngư ời con dâu hiếu
thảo rất mực, khi mẹ chồng đau ốm nàng “hết sức thuốc thang lễ bái thần
phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi bà c ụ qua đời, nàng hết
lòng thương xót, lo ma chay tế lễ chu tồn. Sự ăn ở đối xử hết lòng với mẹ
chồng chẳng khác nào đối với cha mẹ mình vậy. Tóm lại, Vũ Nương là m ột
phụ nữ vẹn toàn, thể hiện được những phẩm chất đạo đức cao quý của người
vợ, người mẹ, người con. Con ngư ời như vậy đáng ra phải được hưởng hạnh
phúc đầm ấm của gia đình.
Chiến tranh chấm dứt, chồng trở về, niềm vui chưa trọn vẹn thì bi kịch xảy
ra. Trương Sinh - một kẻ vô học, thô lỗ, đa nghi, hay ghen đã nghe l ời đứa
con ngây thơ, khơng dị h ỏi ngọn ngành, nghi ngờ vợ mình khơng chung thủy.
Nàng đau khổ, khóc lóc bày t ỏ nỗi oan với chồng nhưng Trương Sinh m ột
mực vẫn buộc tội vợ, thậm chí cịn mắng nhiếc, đánh, đuổi nàng đi. Họ hàng,
làng xóm đều biện minh cho nàng nhưng cũng không thay đ ổi được thái độ


của Trường Sinh. Khơng cị n cách nào để minh oan được nữa, nàng chọn cái

chết để giãi bày tấm lịng chung thủy, trong trắng của mình. Thật tội nghiệp
cho Vũ Nương, ba năm trời cách biệt vẫn giữ gìn một tiết, ấy mà khi chồng
trở về lại bị nghi oan, một con người phẩm hạnh như thế, lại mang tiếng
nhuốc nhơ. Bi kịch bị dồn nén đến cao độ, trong cảnh ngộ đó, Vũ Nương chỉ
có một con đường tìm đến cái chết. Thương Vũ Nương, ngư ời đời càng trách
giận Trương Sinh phũ phàng:
Khá trách chàng Trương Sinh khéo phũ phàng
("Lại bài Viếng Vũ Thị”của Lê Thánh Tông)
Và ngay cả khi chết rồi, ở dưới thủy cung, nàng vẫn ôm mối hận bị chồng
ruồng rẫy, nàng nghĩ: “Thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi
nào về nhìn thấy người ta nữa”. Nhưng có lúc nàng l ại băn khoăn: “Kh ơng
thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa”. Nàng mong
muốn thiết tha trở về quê hương đoàn tụ với chồng và để giải được nỗi oan.
Nhưng âm dương cách biệt nàng “chẳng thể trở về nhân gian đư ợc nữa”.
Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ đức hạnh, hiền thục như Vũ
Nương đều chịu chung số phận bi đát. Câu chuyện về cái chết thương tâm của
Vũ Nương càng làm cho ta thông c ảm với những nỗi đau của người phụ nữ
trong xã hội cũ. Tác phẩm cịn là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến đã
làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa đơi, gia đình. Trong m ột xã hội mà quyền
sống con người được tôn trọng như xã hội ta ngày nay, nh ững người phụ nữ
có nhan sắc, phẩm hạnh như nàng Vũ Thị Thiết chắc chắn sẽ sống cuộc đời
hạnh phúc.
Từ một câu chuyện lưu truyền trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tác nên
một tác phẩm đặc sắc. Mặc dù có ít nhiều yếu tố hoang đường nhưng “Chuyện
người con gái Nam Xương” đã đ ể lại trong lịng ngư ời đọc những ấn tượng
khơng phai mờ.
4. Phân tích nhân v ật Vũ Nương - mẫu 3


“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xi có giá trị của văn học cổ nước

ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt
Nam. “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truyền
kì mạn lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là Vũ
Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước
sự ghen tng vơ c ớ của chồng mình. Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn
xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI. Hình ảnh người con gái Nam
Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lịng ngư ời mọi thời. Lê
Thánh Tơng đã từng xúc động viết trong bài thơ “Miếu vợ chàng Trương”:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương…”
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ
Nương - người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn
để minh oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân
đạo khiến ta xúc động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện. Trước hết, đọc
truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nương và d ễ dàng nhận
thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ
chồng và chồng rất phải đạo; là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu
đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm m ột
người vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho
dù Trương Sinh, ch ồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, l ại ít học, đa nghi
quá sức. Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự
đầm ấm của gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đốn đè nặng trong đầu
óc kẻ vị kỉ ít học như chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trương Sinh đi lính thú thì hành đ ộng và lời lẽ đưa tiễn
chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong
chàng áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình n thế là đủ rồi”...,
“thư tín nghìn hàng, áo rét g ửi người ải xa...”, là chi ti ết cho cái “công-dung-



ngôn-hạnh” mà Vũ Nương đã làm đư ợc một cách chân thành. Thế rồi, nỗi nhớ
nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến chúng ta phải ca
ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đ ẹp của Vũ Nương
còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng của
nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương m ột mình đảm đang, ni d ạy con thơ, chăm
sóc thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng
qua đời. Vũ Nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ trịn tình nghĩa v ới
chồng. Cái thói đời xưa nay thường khơng thể hồ hợp giữa mẹ chồng nàng
dâu, nhất là trong gia đình p hong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống
với nhau (Vũ Nương v ới mẹ chồng) nhưng nàng xem m ẹ chồng như mẹ đẻ,
điều đó cịn được thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trư ớc khi bà
qua đời: “Xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ ...”. Rồi
sự chu đáo của Vũ Nương trong vi ệc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng
thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thu ỷ của
Vũ Nương cịn được thể hiện ở hành động ni con, chờ chồng suốt những
tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con cơi
cút đùm bọc, gắn bó. Cậu bé Đản thơ ngây, đêm đ ến được mẹ chỉ vào cái
bóng của mình trên tư ờng gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật
hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái t ội thật vô tình).
Nỗi hàm oan khơng đư ợc quyền nói, suy xét cho ra là b ởi con người độc
đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính tr ở về
(nghe lời đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị
chồng ghen tuông vô c ớ, bao nhiêu lời giãi bày của Vũ Nương và lời khuyên
ngăn của láng giềng, bà con, cô bác, Trương Sinh v ẫn không tin và đinh ninh
là “vợ hư, mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu khơng có cách gì g ỡ ra được.
Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương khơn g
hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự
đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn th ất vọng, không hiểu nỗi oan
khuất từ đâu mà ra. Không có cách nào đ ể giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc -



niềm vui “nghi gia nghi th ất” khơng cịn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để
minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng đư ợc phép bởi không
thể giải bày được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ
phai mờ đi trong tâm trí c ủa chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có
tội tình gì. Mãi đ ến sau cái chết đó, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ
mình. Chính sự độc đốn của người đàn ơng trong gia đình phong ki ến mà
Nho giáo nuôi dư ỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán. Bởi
không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà cịn biết bao thân phận phụ nữ
“Bảy nổi, ba chìm” đã ph ải sống trong cảnh đời như vậy:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là l ời tố cáo thói ghen tng
ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông - người chồng vô học, đa nghi như
Trương Sinh - là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc
ác, bất công - “chế độ nam quyền” dưới thời phong kiến ngự trị.
Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, theo đúng quan ni ệm đặc
điểm truyền thống, nhưng phải chịu nổi oan tày trời và phải chứng thực sự vơ
tội của mình bằng cái chết. Cái chết đau đớn bất cơng, chỉ vì sự hiểu nhầm,
từ một câu nói thơ ngây của con trẻ mà người chồng Trương Sinh đã nghi
oan, đã làm mất đi người vợ quý trên đời. Nguyên nhân sâu xa của bi kịch nát
lịng này chính là do chi ến tranh loạn lạc và lễ giáo phong kiến trọng nam
quyền trong xã hội ngày trước.
5. Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương
Nền văn học trung đại Việt Nam của chúng ta từ thế kỷ X đến XIX chủ yếu
kết tinh và ghi dấu thành tựu bởi các tác phẩm thơ xuất sắc, mà Truyện Kiều
của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du là một trong những minh chứng rõ rệt
nhất. Nhưng nói như th ế khơng có nghĩa r ằng trong giai đo ạn này nền văn học

nước ta khơng có tác phẩm văn xuôi nào đáng chú ý, b ởi Nguyễn Dữ với tập


Truyền kỳ mạn lục đã cho chúng ta một cái nhìn mới, thổi một làn gió lạ
mang tên “truyền kỳ” vào với nền văn học nước nhà. Trong 20 câu chuy ện
của tác phẩm này, thì Chuy ện chức phán sự đền Tản Viên là một trong số
những truyện được biết đến nhiều, song song với đó thì truyện Chuyện người
con gái Nam Xương cũng đư ợc nhắc đến nhiều với hình ảnh nàng Vũ Nương
đại diện cho người phụ nữ Việt Nam xưa, dẫu mang nhiều phẩm chất tốt đẹp
nhưng vẫn phải chịu số phận bất hạnh.
Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỷ XVI, lúc này đây triều đình nhà Lê đã có
dấu hiệu suy yếu, cuộc sống nhân dân có nhiều khó khăn. Ơng là ngư ời học
rộng tài cao, nhưng lại không ham vinh hoa phú quý, ra làm qua đư ợc tầm
một năm thì ơng cáo quan lui v ề ở ẩn, thanh dư ỡng tâm hồn và cho ra áng
thiên cổ kỳ bút Truyền kỳ mạn lục. Chuyện người con gái Nam Xương là m ột
trong những truyện đặc sắc nhất trong tập Truyền kỳ mạn lục.
Cuộc đời của Vũ Nương không thật sự êm ả, cuộc sống vợ chồng của nàng dù
không được đề cập nhiều thế nhưng việc sống với một người chồng ln ghen
tng đề phịng thì nàng hẳn khơng lấy làm thoải mái, sau cùng cũng vì tính
ghen bóng gió ích k ỷ của Trương Sinh mà Vũ Nương ph ải lấy cái chết để
minh oan. Và để tô đậm cái bất hạnh của cuộc đời người con gái này Nguy ễn
Dữ đã khéo léo xây dựng Vũ Nương là một cơ gái tài đức vẹn tồn, cơng
dung ngơn hạnh đầy đủ, chẳng hề khiếm khuyết “tính đã thùy mị nết na lại
thêm tư dung tốt đẹp”. Chỉ với vài từ ngắn gọn thế nhưng hình ảnh Vũ Nương
đã hiện lên là một cơ gái có nhan sắc xinh đẹp, lại cịn có phẩm chất tốt đẹp
cao q, đó là vẻ đẹp vẹn tồn. Chính vì th ế nên dẫu nghèo khó nhưng Vũ
Nương vẫn được Trương Sinh con trai m ột nhà hào phú trong làng “xin m ẹ
đem trăm lạng vàng cưới về”, điều đó thể hiện giá trị con người Vũ Nương,
đồng thời là lòng trân tr ọng của Trương Sinh khi hỏi cưới nàng.
Trong tác phẩm Nguyễn Dữ chỉ lướt nhẹ qua nhan sắc của Vũ Nương, sau đó

ơng tập trung tơ đậm vẻ đẹp phẩm chất của nàng. Ở vai trò ngư ời vợ, Vũ
Nương hết mực thương yêu và lo nghĩ cho ch ồng, biết chồng có tính hay ghen
lại nghi kỵ thế nên trong cuộc sống vợ chồng nàng hết sức “giữ gìn khn


phép, không lúc nào đ ể vợ chồng phải thất hòa”. Ngày chồng phải tòng quân
đi đánh giặc, nàng thương xót dặn dị, thề nguyền, nàng khơng ham chồng
được phong ấn, mũ quan, vinh hi ển về làng mà chỉ cầu chồng được hai chữ
bình an, cũng bày tỏ nỗi mong nhớ, lo lắng của mình khi chồng đi vào nơi
hiểm trở chẳng may có cớ sự. Lời nàng thiết tha, sâu sắc bộc lộ rõ tình cảm
vợ dành cho người chồng đi chinh chiến xa xôi, khiến ai nấy đều cảm động
khơn ngi. Trương Sinh đi lính chưa đ ầy mười ngày thì Vũ Nương lại sinh
con, cuộc vượt cạn vất vả đau đớn lại khơng có trượng phu, thế nhưng nàng
vẫn một dạ một lịng chăm con khơn l ớn, đợi cho đến ngày giặc tan, Trương
Sinh trở về đoàn tụ. Suốt ba năm đợi chờ, nàng “buồn nhớ khôn nguôi”, lúc
gặp cảnh chồng ghen tuông nàng cũng không l ớn tiếng cự cãi mà chỉ dùng lời
lẽ mềm mỏng để mong giữ được cái “thú vui nghi gia nghi th ất”, vợ chồng
hịa thuận, con có cha có m ẹ.
Đối với mẹ chồng, nàng coi như cha m ẹ ruột mà phụng bồi, chăm sóc, mẹ
chồng vì thương con chinh chiến khơng đến nửa năm thì ngã bệnh, Vũ Nương
một mặt thuốc thang, cơm nư ớc ân cần, một mặt “lễ bái thần phật và lấy lời
ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Nhưng d ầu cạn đèn tắt, sự tình khơng thể
cứu vãn mẹ chồng nhắm mắt xuôi tay, lúc này đây lại một tay nàng lo tang sự
“hết lời thương xót, ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ mình”, hiếu thuận
chu đáo vơ cùng. V ới đứa con nhỏ, tuy Nguyễn Dữ không nhắc đến nhiều,
nhưng đọc truyện cũng có thể cảm nhận được lòng thương con của nàng Vũ
Nương, một tay chăm nó từ khi lọt lịng, đến lúc biết nói, đêm nào cũng tr ỏ
bóng mình mà nói đ ấy là cha để dỗ cho con vui. Lòng mẹ bao la, thương con
vơ bờ bến, dẫu nói dối, nói đùa cũng là thương con, có th ể thấy việc ni con
một mình khiến Vũ Nương chịu nhiều đắng cay vất vả, thế nhưng nàng chưa

từng than vãn một lời, chỉ chăm chăm một dạ sắt son.
Ngoài là một người vợ đảm đang, nết na, thủy chung một lòng mà Vũ Nương
còn là một người có tấm lịng vị tha, bao dung vơ cùng. Ch ồng tịng qn xa,
nàng ở nhà một mình chèo chống cả một gia đình, chăm m ẹ già, nuôi con
nhỏ, thế nhưng khi trở về Trương Sinh khơng những khơng biết ơn, cịn đâm


ra nghi ngờ vô cớ. Thế nhưng nàng không một câu trách móc, vẫn ln giữ
đúng phụ đạo, nhỏ nhẹ giãi bày, một lịng mong muốn chồng thơng hiểu,
muốn tìm rõ nguyên nhân nhưng kh ốn nỗi Trương Sinh lại giấu giếm. Điều ấy
đã đẩy nàng đến bi kịch phải lựa chọn cái chết vì nếu sống mà bị ruồng rẫy,
nhục nhã thì cịn nghĩa lý gì.
Khi sống dưới thủy cung, nàng vẫn sẵn lòng tha thứ cho chồng, điều ấy thể
hiện qua chi tiết nàng gửi chiếc thoa vàng cho Phan Lang mang v ề để nhờ
Trương Sinh lập đàn giải oan. Khi hiện về ở trên bến Hoàng Giang Vũ Nương
vẫn khơng trách móc Trương Sinh mà v ẫn đưa lời cảm tạ “Đa tạ tình chàng,
thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, cho thấy nàng đã hồn tồn tha
thứ cho chồng, giải thốt chồng khỏi những ân hận, đau xót vì trách lầm vợ.
Lịng Vũ Nương v ẫn không hề thay đổi, nàng vẫn dịu dàng, hiền thục như thế,
dẫu chồng mình đã gây cho nàng bi ết bao đau khổ, khiến nàng phải chịu đau
đớn tan của nát nhà, xa lìa đứa con mới tập nói.
Dẫu nàng có đầy đủ các phẩm chất tốt đẹp thế nhưng cuộc đời nàng lại là một
chuỗi những bất hạnh kéo dài. Mới vừa lấy chồng thì đã phải lìa xa chồng,
một thân một mình chèo chống vất vả, vừa mệt mỏi thể xác, lẫn mệt mỏi
trong tâm hồn. Đến lúc tưởng được đồn viên thì lại gặp phải nỗi oan lạ lùng,
xuất phát từ lời nói vơ thưởng vô phạt của đứa con nhỏ, bị chồng ruồng rẫy
ghen tuông, phải tự tử để chứng minh cho tấm lòng thanh bạch.
Yếu tố kỳ ảo đã giúp nàng được sống, Nguyễn Dữ đã cho nàng một cái kết có
hậu, thế nhưng cái kết ấy vẫn khơng được vẹn tồn. Bởi tuy được sống cuộc
sống an nhàn, giàu sang dư ới thủy cung, thế nhưng nàng lại phải chịu nỗi cô

đơn, thương chồng, nhớ con mà không thể trở về, chỉ có thể nói lời cảm tạ rồi
biến mất. Như vậy nàng đã khơng phút nào có đư ợc hạnh phúc thực sự, bởi ở
xã hội phong kiến hạnh phúc không dành cho nh ững người phụ nữ như Vũ
Nương, hạnh phúc là cái gì đó q xa v ời, dễ dàng vì một lời bâng quơ mà
tan biến thành hư vơ. Đó là bất hạnh chung của thân phận người phụ nữ dưới
chế độ phong kiến hà khắc, bảo thủ.


Với những biểu hiện của nhan sắc, phẩm chất tốt đẹp như thế, nết đảm đang,
lòng hiếu thảo, đức hy sinh, thủy chung son sắt, lòng bao dung, v ị tha to lớn,
Vũ Nương chính là hiện thân cho vẻ đẹp của người con gái Việt Nam. Vẻ đẹp
của nàng chính là những vẻ đẹp nhân sinh vơ cùng q giá, nàng hoàn toàn
xứng đáng được hưởng hạnh phúc điền viên, được chồng u thương, chăm
sóc chứ khơng phải chịu nỗi bất hạnh ghen tuông vô cớ, rồi táng thân nơi
sông nước, sau cùng lại sống bất tử với nỗi cô đơn vời vợi. Nguyễn Dữ viết
về nhân vật Vũ Nương một là bên ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người
phụ nữ Việt Nam, một bên cũng phản ánh những bất công trong xã h ội phong
kiến xưa đối với thân phận người phụ nữ. Đó là những giá trị nhân đạo, nhân
văn thật sâu sắc mà tác giả muốn truyền đạt qua câu chuyện cũng như nhân
vật của mình.
6. Phân tích nhân v ật Vũ Nương trong Chuy ện người con gái Nam Xương
Trong văn học Việt Nam đã có khơng ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc
mang tính chất truyền kí song được tơn vinh "thiên c ổ kì bút" thì cho đến này
chỉ có một Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Và Trong đó đoạn trích
Chuyện người con gái Nam Xương đặc sắc nhất: Đã khắc họa thành công số
phận của người phụ nữ dưới chế độ xưa.
Truyền Kì Mạn Lục là lọai văn chuyên ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn
được lưu truyền. Cho nên trư ớc đó Chuyện người con gái Nam Xương cũng
đã được lưu truyền rộng rãi trong chốn dân gian. Hẳn không mấy ai không
biết đến hai bài thơ vi ếng thăm nàng vũ thị trong hồng đức quốc âm thi tập.

Hai bài thơ đó chứng tỏ rằng câu chuyện bi thảm về người đàn bà họ Vũ vợ
chàng Trương là có th ật. Đã được dân gian lưu truyền. Nhưng không ph ải
Nguyễn Dữ chỉ có làm cơng việc đơn giản: Biển chép lại cho đúng một
chuyện kể đã có sẵn từ những năm tháng trư ớc đó mà cịn phải nhào nặn lại
câu chuyện làm cho nó gần gũi với người đọc, mang dấu ấn của thời đại
mình.
Truyện mở đầu bằng dịng chữ "Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam
Xương ..." Tên tuổi, quê quán của nhân vật chính đã đư ợc giới thiệu rõ ràng


như thế. Chứ không giống như những nhân vật khác: Chàng họ Trương, ông
họ Phan. Thật lạ!. Vũ Thị Thiết là người duy nhất trong truyện được nêu đầy
đủ họ tên, danh tính đ ể lưu truyền cho hậu thế. Nhưng Vũ Thị Thiết chỉ là
một người đàn bà bình thường, thuộc giới nghèo hèn "vốn con kẻ khó", dung
mạo thì khơng có gì đ ặc biệt. Vậy mà nàng đã là một nhân vật lưu truyền nơi
hậu thế. Có lẽ Nguyễn Dữ đã có những nhận thức tiến bộ về xã hội. Những
ràng buộc khn pháp đã khơng cịn v ững chắc trong tâm trí ơng. Ơng quan
tâm đến đời sống của mọi người chứ khơng cịn mải mê tìm cảm hứng văn
chương trong đội ngũ những người quý phái hay tuyệt sắc giai nhân nữa.
Phải Chính từ quan niệm đó Nguyễn Dữ đã cho ra đời một mẫu người phụ nữ
lí tưởng, tuy khơng ph ải là giai nhân những lại hội tụ những đức tính phẩm
chất tốt đẹp cần có ở người phụ nữ Vũ Thị Thiết! "tính tình thùy mị nết na lại
thêm tư dung tốt đẹp". Tuy tác giả đã nói rằng hai yếu tố bên trong và bên
ngoài của nàng đều vẹn toàn. Chẳng khác nào Kiều xưa kia. Thế nhưng càng
vào sâu trong tác phẩm ta mới nhận ra rằng. Chữ dung đã thua chữ tài.
Sau mấy lời giới thiệu đầu tiên, thì trong tồn truy ện sẽ khơng cịn những câu
nào miêu tả vẻ đẹp bên ngoài của nàng ta nữa. Vũ Nương đã chiếm được vị
trí trong lịng chúng ta khơng ph ải là do tư dung mà do ph ẩm hạnh. Phẩm chất
ở đây không như cô gái hái dâu Ỷ Lan hay ả đào nương diệt giặc miền Tiên
Lữ. Phẩm chất Vũ Nương là v ề gia đình. Từ khi về nhà chồng Vũ Nương luôn

tỏ ra là một người con dâu hiểu thảo, đảm đang, hay làm, biết tính chồng hay
ghen Vũ Nương ln c ố gắng khơng để cho vợ chồng thất hòa, rồi còn lo lắng
thuốc thang và ma chay tế lễ đầy đủ cho mẹ chồng nữa Vũ Nương đã làm t ất
cả để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc của gia đình. Thật là một con người
tiêu biểu cho công dung ngôn h ạnh ở xã hội xưa.
Trong xã hội xưa vai vế người phụ nữ trong gia đình thư ờng là thấp hèn nhất.
Mẹ chồng kiếm con dâu chỉ cốt để đày đọa, hay kiếm đứa cháu nối dõi tông
đường. Cho nên mẹ chồng và con dâu thường thất hịa, khơng d ễ hòa thuận.
Nhưng trong tác ph ẩm ta lại thấy Vũ Nương được chính người mẹ chồng này
tơ đậm phẩm giá của mình. Những lời khen này càng tr ở nên ý nghĩa hơn, có


giá trị hơn gấp bội "Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào không
thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đ ức, giống
dịng tươi tốt, con cháu đơng đàn, xanh kia quy ết chẳng phụ con, cũng như
con đã chẳng phụ mẹ".
Đúng là như thế. Vũ Nương thật là một người con gái tài sắc vẹn tồn. Sống
trên đời khơng để phụ ai, luôn đối xử ân cần với mọi người. Vậy mà người
con gái Nam Xương ấy đã bị phụ. Tai họa bỗng chốc ập đến. Thật đột ngột!
Thật nhanh chóng! Đến khó tin kì lạ. Mới ngày nào ngư ời con gái ấy còn thổn
thức cùng chồng những lời nói thiết tha đẫm lệ: "Nhìn trăng soi thành cũ, l ại
sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trơng liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm
tình thương ngư ời đất khách! Dù có thư nghìn hàng cũng không s ợ cánh hồng
bay bổng "Mới ngày nào cuộc tiễn biệt đầy vương vấn nhớ nhung" Ngước mắt
cảnh vật vẫn như cũ mà lòng ngư ời đã nhuộm mối tình mn dặm quan san!".
Những câu viết khơng vư ợt khỏi ước lệ văn chương một thuở nhưng lại có
sức lay động lịng người lạ thường! Vì những tình cảm ấy rất chân thành.
Vậy mà trời đã phụ lòng người chỉ "qua năm sau" thôi tất cả đều tan nát.
Thay cho Trăng, cho Liễu, cho "cánh hồng bay bổng" và mối tình mn dặm
quan san chỉ cịn là nỗi nghi ngờ, những lời mắng nhiếc đánh đập đến thậm

tệ. Công lao ni con dư ỡng mẹ, làm trịn bổn phận con dâu đều đổ xuống
sông xuông biển, tới mức "không cịn có thể lại lên núi Vọng Phu nữa"
Nhưng đáng buồn thay! Tai họa này chỉ do một lí do khơng đáng nói! Do cái
bóng! Vì nhớ chồng, con lại xa cách cha lâu ngày nên nàng ch ỉ còn biết nói
cái bóng là Cha Đản. Và lịng nàng cũng xem nó là ch ồng. Thế là bé Đản
ngây thơ nên đã tin cái bóng đó là s ự thật. Và cứ lầm tưởng rằng cha mình
đêm nào cũng đến mẹ Đản đi cũng đi Mẹ Đản ngôi cũng ng ồi. Và khi qua tai
Trương Sinh thì nh ững lời nói hồn nhiên đó lại trở thành sự thật. Cái bóng
thành người. Hại cho đời người con gái tài sắc.
Chắc hẳn trong các tác phẩm văn học, Có được sự sáng tạo tài tình tinh sảo
như chi tiết về chiếc bóng oan nghiệt này sẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay một
sự song trùng thật kì ảo thật đáng ngạc nhiên. Bóng dần biến thành người.


Cái thực lẫn lộn pha trộn cái hư, cái giả chập chờn trong cái thật. Không phải
là người vợ cũng thiết tha với hạnh phúc của một gia đình đư ợc sum vầy,
đồn tụ Vũ Nương khơng thể nào nghĩ ra trị chơi này. Nào ng ờ chính nó đã
làm tan nát đời nàng. Khi tr ỏ cái bóng in trên vách chắc hẳn người thiếu phụ
chỉ muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống vắng cha. Nhưng hóa ra
chính vì thế mà nàng đã mất chồng, Đản đã mất mẹ. Nếu truyện được kể thật
đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải được kể trước khi
Trương Sinh chở về. Nhưng không ng ờ Nguyễn Dữ lại tài hoa đến như vậy.
Đã ém ngẹm lại cái chi tiết giật gân ấy. Rồi bùng nén ra ở một vị trí thích
hợp đã gây ra bão giơng, khu ấy lên sóng gió. Khơng cịn gì đ ể ngăn được cơn
tức tối của kẻ có tính hay ghen Trương Sinh kh ỏi nổ bùng. "Thú vui nghi gia
nghi thất, hạnh phúc duy nhất, niềm mong ước duy nhất của một đời Vũ
Nương trong phút chốc trở nên hoàn tồn tan vỡ. Bình đã rơi, trâm đã gãy,
liễu đã tàn trước gió, sen đã rũ trong ao, ngư ời thiếu phụ chung tình mà bạc
mệnh chỉ cịn có thể tìm đến cái chết để giãi bày tấm lịng trong trắng của
mình

Nàng đã gieo mình xu ống sơng Hịang Giang tự vẫn. Và người đời sẽ lưu
truyền thêm một tấm bi kịch về số phận người phụ nữ. Tấm bi kịch về cái đẹp
bị chà nát phũ phàng. Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là
lời tố cáo thói ghen tng ích k ỉ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ
phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác hủ bại. Nàng đã gặp một người
chồng tuy là con nhà hào phú song ít h ọc lại đa nghi đến mức ghen tuông mù
quáng nên không th ể nhận ra sự hoàn hảo trong phẩm hạnh của nàng. Rõ ràng
sự khiếm khuyết trong tính cách của nhân vật Trương Sinh đã dồn nàng đến
bước đường cùng. Giá như Trương Sinh bình t ĩnh tìm hiểu một chút thơi thì
tấm bi kịch chết người kia sẽ không thể xảy ra. Nhưng đó chỉ là giá như thơi
vì Nguyễn Dữ đã đặt dấu chấm than cho mọi sự đã rồi.
7. Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương
"Chuyện người con gái Nam Xương" rút trong tác ph ẩm “Truyền kì mạn lục",
áng văn xuôi viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ 16. Một kiệt tác


văn chương cổ được ca ngợi là “thiên cổ kì bút". Truyện kể lại mơt câu
chuyện truyền kì có nhiều yếu tố hoang đường lưu truyền trong dân gian về
bi kịch gia đình ở Nam Xương có dịng sơng Hồng Giang vào cu ối thế kỉ 14,
đầu thế kỉ 15, một thời loạn lạc, đầy biến động. Nhân vật Vũ Nương là người
con gái bạc mệnh đáng thương đó có bao ph ẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho đức
hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Tên của nàng là Vũ Th ị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà
Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình "kẻ khó", nhưng Vũ Nương v ừa
có nhan sắc vừa có đức hạnh: "tính đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung t ốt
đẹp". Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú "m ến vì
dung hạnh" đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong đạo vợ chồng,
Vũ Nương là một người phụ nữ thơng minh, đơn h ậu, biết chồng có tính "đa
nghi", nàng đã "giữ gìn khn phép" khơng đ ể xảy ra cảnh vợ chồng phải
"thất hòa", sống giũa thời loạn lạc Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chi ến

ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rư ợu đầy
chúc chồng "được hai chữ bình yên": nàng chẳng mong đư ợc đeo ấn phong
hầu mặc áo gấm trở về quê cũ... Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng đã
coi trọng hạnh phúc gia đình hơn m ọi cơng danh phù phiếm ở đời. Những
năm tháng xa cách, Vũ Nương thương nh ớ chồng khôn xiết kể: "... mỗi khi
thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì n ỗi buồn góc bể chân trời
khơng thể nào ngăn đư ợc". Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương
cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc
xưa nay:
... "Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong..."
(Chinh phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ
Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung thương nh ớ đợi chờ chồng của nàng.


Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, giàu tình thương. Ch ồng ra trận mới
được một tuần thì nàng sinh ra m ột đứa cọn trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng già
yếu, ốm đau, nàng "hết sức thuốc thang", "ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn".
Vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc ni d ạy con thơ. Lúc m ẹ chồng qua
đời, nàng đã "hết lời thương xót", việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất
chu đáo "như đối với cha mẹ đẻ mình". Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng
xuất hiện ba con người tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang thủy
chung, người mẹ hiền đơn hậu. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã
hội phong kiến ngày xưa.
Qua năm sau, "việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở
về. Thế nhưng, Vũ Nương không đư ợc hưởng hạnh phúc trong c ảnh vợ chồng
sum họp. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng đứa con thơ mới tập nói, mà
Trượng Sinh đinh ninh là vợ hư, đã "máng nhiếc" và "đánh đuổi đi". Vốn là

một kẻ vô học lại hồ đồ vũ phu. Trương Sinh đã b ỏ ngoài tai mọi lời "bày tỏ"
của vợ, mọi sự "biện bạch" của họ hàng làng xóm. Vũ Nương đã b ị chồng đẩy
vào bi kịch, bị vu oan là người vợ "mất nết hư ân”. Vũ Nương phải nhảy
xuống sơng Hồng Giang tự tử để tỏ rõ là người phụ nữ "đoan trang gi ữ tiết,
minh bạch gìn lịng", mãi mãi soi t ỏ với dời "vào nước xin làm ngọc Mị
Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu Mĩ". Bi kịch Vũ Nương là bi k ịch gia đình từ
chuyện chồng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chi ến tranh loạn lạc đã
gây nên. Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya
dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: "Cha Đản lại đến kia kìa!". Lúc bấy
giờ Trương Sinh "mới tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã rồi .
Người đọc xưa nay cũng ch ỉ biết thở dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho
người con gái Nam Xương và bao ph ụ nữ bạc mệnh khác trong cõi đời. Vũ
Nương tự tử, nàng cũng chẳng oán chồng con "rày xin chén nư ớc cho người
thác oan" (Truyện Kiều).
Phần cuối truyện đậm đặc tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm
mộng thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Phan Lang đư ợc biếu
một con rùa mai xanh nhưng không gi ết thịt mà đem thả con rùa xuống sông.


Nào là Phan Lang b ị chết đuối, xác giạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ
vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống
lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương đ ể thết đãi Phan Lang, ân nhân c ứu
sống mình ngày xưa. Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh
Phi. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nh ắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền
nhân. Tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và d ặn chồng lập
đàn tràng ở bến Hồng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có
năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện... là
những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc
mệnh... yên phận hẩm hiu, và có giá tr ị tố cáo lễ giáo phong kiến vơ nhân
đạo. Câu nói của ma Vũ Nương giữa dịng sơng vọng vào: "Đa tạ tình chàng,

thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa" đã làm cho giá trị nhân đạo của
truyện thêm phần bi thiết. Nỗi ân tình của Vũ Nương đã được minh oan và
giải tỏa? nhưng âm - dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại
dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa. Bé Đản mãi mãi là
đứa con mồ cơi mẹ.
Tóm lại, Vũ Nương là m ột người con gái dung h ạnh mà bạc mệnh. Nguyễn
Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy
mang yếu tố hoang đường, nhung áng văn "Chuyện người con gái Nam
Xương" giàu giá tr ị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi
kịch của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Người đọc càng thêm xúc
động khi nhớ lại vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài "L ại bài viếng Vũ
Thị”:
... "Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng..."
8. Phân tích nhân v ật Vũ Nương chi ti ết
“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương”.


Ngàn năm trơi qua, làn khói vi ếng “miếu vợ chàng Trương” v ẫn muôn đời lan
tỏa, vấn vương, như ti ếc như thương cho số phận đầy bi kịch của Vũ Nương.
Bằng ngòi bút đầy trân trọng trong “Chuyện người con gái Nam Xương”,
Nguyễn Dữ đã tạc vào lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh một người phụ nữ
thời phong kiến, một Vũ Nương, đại diện cho cái đẹp hoàn mỹ. Nhưng đáng
tiếc thay, cuộc đời nàng lại chất chứa những trang buồn đầy nước mắt.
Tên nàng là “Vũ Th ị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương”, đã đ ẹp người
lại đẹp nết. Trương Sinh, chồng nàng, là một người thất học lại thêm tính đa
nghi. Khi binh đao loạn lạc, Trương phải ra trận. Một tuần sau, nàng sinh con
trai đầu lịng và một mình chăm sóc m ẹ chồng, lo tang ma khi m ẹ chồng mất.
Giặc tan, chàng Trương về, nghe lời con trẻ mà nghi ngờ lòng thủy chung của

vợ. Vũ Nương khơng minh oan đư ợc nên đành trẫm mình, nhưng nàng đư ợc
Linh Phi ở động Rùa cứu giúp. Sau đó, nàng g ặp Phan Lang, ngư ời hàng xóm
đã cứu Linh Phi, nh ờ Phan Lang gửi hộ lời với chàng Trương. Trương Sinh
hối cải, lập đàn giải oan theo lời Vũ Nương. Nàng hiện lên gặp chồng con rồi
lại quay về động Rùa vì hai người đã “âm dương đơi đư ờng”. Nhưng hình ảnh
Vũ Nương khơng d ừng lại ở đó mà cịn mãi vấn vương trong lịng ngư ời đọc
bởi nét đẹp hồn mỹ cũng như số phận oan khuất và cái chết đầy bi thảm của
nàng.
Vũ Nương chính là đại diện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam dưới chế độ phong kiến. Không như Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế nét
đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” c ủa Thúy Kiều, Nguyễn Dữ chỉ điểm qua
nhẹ nét đẹp của Vũ Nương: “tư dung t ốt đẹp”. Nhưng chỉ bằng một chi tiết
nhỏ ấy, tác giả đã phần nào khắc họa được hình ảnh một cơ gái có nhan sắc
xinh đẹp. Cũng bởi “mến vì dung hạnh” nên chàng Trương đã l ấy nàng làm
vợ. Nhưng chữ “dung” ấy, vẻ đẹp hình thức ấy, chẳng thể nào tỏa sáng ngàn
đời như vẻ đẹp tâm hồn nàng. Vũ Nương “v ốn con kẻ khó”, song rất mực tuân
theo “tam tòng tứ đức”, giữ trọn lề lối gia phong và ph ẩm hạnh của chính
mình. Thế nên, nàng rất “thùy mị, nết na”. Trong gia đình ch ồng, nàng ln
“giữ gìn khn phép, khơng đ ể lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Thế là,


“hạnh”, một trong những tiêu chuẩn đánh giá con người, nàng đã vẹn trịn. Lễ
nghĩa, nàng cũng thơng hi ểu, am tường. Tuy chẳng phải tiểu thư khuê các,
con nhà quyền quý nhưng lời nàng nói ra dịu dàng như vàng như ng ọc.
Ngày tiễn chồng ra trận, nàng đã dặn rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp
chẳng mong đeo đư ợc ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày
về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Từng lời, từng chữ nàng
thốt ra thấm đẫm tình nghĩa vợ chồng thủy chung, son sắt, khiến “mọi người
đều ứa hai hàng lệ”. Phận làm vợ, ai chẳng mong phu quân mình đư ợc phong
chức tước, áo gấm về làng. Cịn nàng thì khơng. Nàng ch ỉ ước ao giản dị rằng

chàng Trương trở về được bình n để có thể sum họp, đồn tụ gia đình, hạnh
phúc ấm êm như ngày nào. Nhưng mong ư ớc của nàng đã không thực hiện
được. Bị chồng một mực nghi oan, Vũ Nương tìm m ọi lời lẽ để chứng minh
sự trong sạch của mình. Nàng vẫn đoan trang, đúng mực, chỉ nhẹ nhàng giải
thích: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum h ọp chưa thỏa
tình chăn gối, chia phơi vì đ ộng việc lửa binh.
Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng. Ngõ
liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như l ời chàng nói.
Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thi ếp”. Lời nói của nàng luôn từ tốn,
nhẹ nhàng, không quá hoa mỹ nhưng chất chứa nghĩa tình. Chỉ qua những lời
thoại, từ “ngơn” của Vũ Nương đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng
người đọc bởi vẻ từ tốn, tế nhị của nàng. Và cũng từ những câu nói ấy, chúng
ta cảm nhận được sự hy sinh vơ bờ của nàng vì chồng con, gia đình. Khi
chồng ra trận, cả giang san nhà chồng trĩu nặng trên đôi vai g ầy guộc, mỏng
manh của nàng. Nàng ph ải sinh con một mình giữa nỗi cô đơn lạnh lẽo, thiếu
sự vỗ về, an ủi của người chồng. Thật là một thử thách quá khó khăn v ới một
người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nhưng nàng vẫn vượt qua tất cả, một mình
vị võ nuôi con khôn l ớn, đợi chồng về. Không những thế, nàng còn hết lòng
chăm lo cho mẹ chồng ốm nặng: “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật
và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Th ời xưa, quan hệ mẹ chồng –


nàng dâu dường như chưa bao gi ờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt
khe.
“Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi
Biết rằng có được ở đời với nhau
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp, cho đau lòng chàng”.
Nhưng nàng đã yêu thương m ẹ chồng như chính cha m ẹ ruột của mình. Mọi
việc trong nhà đều được nàng chăm lo chu t ất. Và lời trăn trối cuối cùng của

mẹ chồng như một lời nhận xét, đánh giá, một phần thưởng xứng đáng với
những công lao và sự hy sinh cao cả của nàng vì gia đình nhà ch ồng: “Xanh
kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Tác giả đã một lần
nữa nhắc lại: “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như
với cha mẹ đẻ mình”, như tơ đậm tình u thương c ủa nàng đối với mẹ chồng.
Vũ Nương là một nàng dâu đảm đang, thảo hiền trong mắt tất cả mọi người.
Vậy là cả “công – dung – ngôn – hạnh” nàng đều vẹn tồn. Nàng chính là
đỉnh cao của sự hồn mỹ về cả vẻ đẹp hình thức lẫn tâm hồn của người phụ
nữ Việt Nam xưa dưới chế độ phong kiến. Song, số phận chẳng hề mỉm cười
với nàng.
Cuộc đời Vũ Nương tiêu bi ểu cho số phận oan trái của người phụ nữ Việt
Nam dưới chế độ phong kiến. Nàng gặp bao bất hạnh trên đư ờng đời. Chiến
tranh tàn khốc đã khiến bao gia đình li tán. Trư ớc cảnh đất nước binh đao
loạn lạc, Trương Sinh ph ải đi lính, giao phó cả giang san nhà chồng trên đôi
vai bé nhỏ của người thiếu phụ.Tất cả mọi việc trong nhà đều trông cậy vào
nàng. “Khi xa ch ồng vừa đầy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên là
Đản”. Thiếu vắng sự quan tâm, săn sóc của người chồng, song nàng vẫn nuôi
nấng, dạy dỗ con thơ khơn l ớn, trưởng thành. Vừa một mình chăm sóc, thu ốc
thang cho mẹ chồng, Vũ Nương vừa sinh con trai, l ại thầm lặng, tần tảo nuôi
con và cũng một mình lo ma chay, chơn c ất mẹ chồng chu đáo. Từng ngày
từng ngày trôi, b ấy giờ, trên đơi vai bé nhỏ của nàng khó khăn l ại chồng chất


khó khăn. Rồi chiến tranh cũng qua, c ứ ngỡ Vũ Nương lại được sum họp gia
đình, đồn viên cùng chàng Trương, đư ợc sống trong hạnh phúc lứa đôi mà
nàng hằng ao ước.
Nàng đâu biết rằng bi kịch cuộc đời nàng sắp bắt đầu. Những ngày xa chồng,
nàng đã âm thầm ni con, và nàng xót xa bi ết bao khi nhìn cảnh con thơ
thiếu vắng sự chăm sóc, yêu thương c ủa người cha.Thế là nàng đã chỉ bóng
mình trên tường mà bảo với con rằng ấy chính là cha Đản. Hành động ấy

chẳng phải vì nàng quá thương nh ớ chồng mà xuất phát từ tấm lòng yêu
thương con vô bờ của một người mẹ. Nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ ngờ được
rằng nàng chết chính bởi cái bóng của chính mình. Ngày Trương Sinh v ề,
nghe lời con thơ dại mà hàm oan vợ: “Trước đây có người đàn ơng đêm nào
cũng đến. Mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ
bế Đản cả”. Trương Sinh v ốn là tên thất học, lại thêm “tính đa nghi, đối với
vợ phịng ngừa quá sức”. Lời nói ngây thơ c ủa bé Đản chứa đầy những chi
tiết đáng ngờ, như đổ thêm dầu vào lửa.
Tính đa nghi của Trương Sinh đã dâng lên đ ến cao trào và một mực “đinh
ninh là vợ hư”. Chàng khơng cịn đủ bình tĩnh để phán đốn, phân tích, bỏ
ngồi tai những lời phân trần của vợ, không tin cả những nhân chứng bênh
vực cho nàng, cũng nhất quyết khơng nói ra ngun c ớ để nàng có cơ hội
minh oan. Và Trương Sinh thống ch ốc hóa một kẻ vũ phu, thơ bạo, “mắng
nhiếc nàng và đánh đu ổi đi”. Vượt qua được mọi gian lao, vất vả trong chiến
tranh để vẹn tròn phận dâu thảo hiền nhưng Vũ Nương không thể vượt qua
nổi bức tường của chế độ nam quyền độc đốn, bất cơng, tàn bạo. Lời nói của
nàng đầy thương tâm: “Thi ếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”.
Ngay từ đầu, cuộc hơn nhân giữa nàng và chàng Trương đã có ph ần khơng
bình đẳng và mang tính ch ất một cuộc trao đổi, mua bán: Trương Sinh “xin
với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Điều ấy khiến chúng ta chạnh lịng nhớ
đến tình cảnh một Thúy Kiều khi phải bán mình chuộc cha:
“Cị kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài b ốn trăm”.


Sự cách bức về địa vị xã hội như thế đã tạo cho Trương Sinh m ột cái thế bên
cạnh những uy quyền vốn có của người chồng, người đàn ơng trong gia đình
gia trưởng phong kiến. Chính cái gia đình “ch ồng chúa vợ tơi”, “phu xướng
phụ tùy” ấy đã khiến nàng bị khinh rẻ, đối xử tệ bạc. Một người vợ vốn đức
hạnh, ngoan hiền, vâng theo cả “tam tòng tứ đức” lại phải mang tiếng xấu

“hư thân mất nết”. Mọi lời mắng nhiếc của Trương Sinh như chà đ ạp lên
phẩm giá cao đẹp mà nàng đã gìn giữ cả một đời. Khi xa chồng, Vũ Nương là
người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo những
“bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi”. Th ế mà khi vừa mới sum họp
hạnh phúc, nàng lại bị gán cho tội danh: “lừa chồng dối con”. Thật đau đớn,
thật tủi nhục! Bi kịch của cuộc đời Vũ Nương chính từ lễ giáo bất cơng và
chế độ nam quyền. Người đàn ông với những quyền hành về số phận, cuộc
đời người phụ nữ đã đẩy Vũ Nương vào đư ờng cùng khơng l ối thốt.
Cái chết oan khuất, xót xa của Vũ Nương, ai có th ể ngờ người gây ra thảm
kịch ấy chính là chồng và con nàng, những người thân mà nàng hết mực yêu
thương, chăm sóc. Nàng, m ột người con gái ln khao khát h ạnh phúc dù chỉ
nhỏ nhoi, bình dị nhưng cho đến khi trẫm mình xuống sơng thì cuộc đời nàng
đúng là một chuỗi dài những bi kịch. Hạnh phúc đâu quá xa vời mà xã hội
phong kiến ấy không cho nàng chạm tay đến tận hưởng “thú vui nghi gia nghi
thất” một lần duy nhất trong đời. Nỗi oan của nàng thấu cả trời xanh. Ngày
xưa, Quan Âm Thị Kính mắc oan giết chồng bởi “tình ngay lý gian”. Nhưng
nàng Thị Kính cũng cịn hiểu ra nỗi oan khuất của mình từ đâu mà thành. Cịn
khi đã chìm sâu dư ới dịng nước, Vũ Nương vẫn khơng hề biết rằng mình phải
chết vì đâu. Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem
trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ơng trong gia đình, đồng thời
bày tỏ niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người
phụ nữ đức hạnh không những không được bênh vực, che chở mà lại còn bị
đối xử một cách bất cơng, vơ lý; ch ỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng
cịn hơi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi phải
kết liễu cuộc đời mình. Phải chăng đằng sau nỗi oan của nàng còn bao nhiêu


×