Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tieu luan cao học QUYỀN THAM CHÍNH của PHỤ nữ vào hệ THỐNG CHÍNH TRỊ ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.48 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
1. Vai trò, vị thế của phụ nữ trong đời sống, chính trị - xã hội...................3
2. Lý do cần có nhiều nữ giới trong các vị trí quản lý, lãnh đạo.................5
3. Thực trạng phụ nữ tham chính trên thế giới và ở Việt Nam...................6
3.1. Trên thế giới...............................................................................................6
3.2. Tại Việt Nam..............................................................................................8
4. Thuận lợi đối với phụ nữ tham chính tại Việt Nam...............................12
5. Một số khó khăn đối với phụ nữ tham chính ở Việt Nam.....................15
6. Giải pháp tăng cường bình đẳng giới trong chính trị............................20
KẾT LUẬN....................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................26


1

MỞ ĐẦU
Phụ nữ là lực lượng đơng đảo chiếm ½ dân số thế giới và có vai trị, vị
trí đặc biệt quan trọng. Sự hiện diện của họ đã thắp lên ngọn lửa u thương,
duy trì nịi giống, tái sản xuất ra con người và đời sống xã hội. Và có những
thời kỳ, giai đoạn, phụ nữ cịn nắm quyền cai trị quốc gia, dân tộc.
Trải qua những thăng trầm, biến cố lịch sử, người phụ nữ chịu nhiều
sức ép từ những ràng buộc của lễ giáo phong kiến, nạn phân biệt chủng tộc,
chiến tranh, định kiến giới, khiến ở nhiều nơi, họ bị đối xử bất cơng, kìm hãm
sự phát triển, thậm chí bị tước mất thiên chức làm người.
Ngày nay, với sự phát triển kinh tế - xã hội; trình độ văn hóa, văn minh
được nâng cao; sự thay đổi trong nhận thức của con người có những chuyển
biến tích cực, giúp người phụ nữ có cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát triển
cá nhân, được bình quyền, bình đẳng với mọi giai tầng xã hội, nhất là về
nghĩa vụ, quyền lợi, công việc đối với nam giới.


Ở Việt Nam trong 30 năm đổi mới vừa qua, cùng với những thành tựu đạt
được về phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa- ngoại giao thì vấn đề xây dựng,
phát triển con người cũng đạt được những thành quả quan trọng, trong đó có
việc nâng cao vị thế, vai trị, quyền bình đẳng giới vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Bình đẳng giới là một quyền con người cơ bản, vừa là mục tiêu quốc gia
vừa là yếu tố góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
là thước đo quan trọng để đánh giá sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Mục tiêu
bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam
và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình
đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ
giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Để thực hiện bình đẳng giới, phát huy vai trị của phụ nữ trong cơng
cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước đã ban hành


2

nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp nhằm tạo điều kiện và động viên phụ
nữ tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực chính trị
trong đó bảo đảm tỷ lệ phụ nữ tham gia các cơ quan dân cử là vấn đề được
quan tâm. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm
2015 đều có điều khoản quy định về việc bảo đảm để phụ nữ có số đại biểu
thích đáng tham gia Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Nghị quyết số
11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị về cơng tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đề ra mục tiêu “Phấn đấu
đến năm 2020, nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp từ 35%
đến 40%”.Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đặt
ra chỉ tiêu “tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2011 - 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 - 2020 trên 35%”.
Trao quyền cho phụ nữ được thể hiện dưới nhiều hình thức: trao quyền

năng kinh tế, trao quyền giáo dục, quyền văn hóa, xã hội, trao quyền năng chính
trị. Thúc đẩy phụ nữ tham chính là trao quyền cho phụ nữ về mặt chính trị, đảm
bảo sự đại diện bình đẳng của phụ nữ trong chính trị. Đây chính là vấn đề cốt lõi
gắn liền với sự thịnh vượng và phát triển bền vững của một quốc gia.
Bảo đảm bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ là một trong những
mục tiêu quan trọng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Liên hợp quốc xác
định: Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao năng lực, vị thế cho phụ nữ là
một trong 8 mục tiêu của thiên niên kỷ. Mặc dù chúng ta đã đạt được những
thành công đáng kể về chỉ số sức khỏe, giáo dục, thu nhập và cơ hội nghề
nghiệp của phụ nữ, nhưng vẫn còn một khoảng cách lớn về bình đẳng giới
trên hành trình đến với các vị trí lãnh đạo, quản lý. Xuất phát từ thực tiễn đó,
tiểu luận tập trung mơ tả thực trạng bình đẳng giới trong tham chính và đưa ra
một số giải pháp, chính sách nhằm từng bước tăng cường hơn nữa vị thế
chính trị cho phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng hiện nay.


3

NỘI DUNG
1. Vai trò, vị thế của phụ nữ trong đời sống, chính trị - xã hội
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ chính là chìa khóa thúc đẩy sự
phát triển bền vững và tiến bộ lâu dài của xã hội. Kể từ khi Cương lĩnh hành
động Bắc Kinh ra đời vào năm 1995, được 189 nước ký kết tham gia tại Đại
hội Phụ nữ thế giới lần thứ 4, trao quyền cho phụ nữ trở thành một giải pháp
quan trọng. Phát biểu trước Ủy ban Địa vị Phụ nữ của Liên hợp quốc vào
tháng 3/2010, Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon đã nhấn mạnh rằng
việc trao quyền cho phụ nữ là cấp thiết và chỉ đến khi phụ nữ được giải phóng
khỏi nghèo đói và bất bình đẳng thì những mục tiêu khác của Liên hợp quốc
về hịa bình, an ninh, phát triển bền vững mới thực hiện được.

Trong lịch sử dân tộc, phụ nữ có vai trị, vị thế đặc biệt quan trọng, là
những người góp phần làm nên lịch sử; là lực lượng lao động chính tham gia
trực tiếp vào q trình sản xuất và đấu tranh cách mạng; là hậu phương vững
chắc cùng tồn dân lập nên những chiến cơng.
Từ buổi đầu dựng nước, giữ nước hình ảnh Bà Trưng, Bà Triệu từng
xơng pha nơi trận tiền bảo vệ, gìn giữ bờ cõi biên cương đến hình ảnh những
nữ thanh niên xung phong, anh hùng du kích, những nữ liệt sĩ đã chiến đấu,
hy sinh anh dũng để bảo vệ non sông gấm vóc với tấm gương như chị Sứ, chị
Sáu, chị Út Tịch, 10 nữ thanh niên xung phong hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc…
là những hình ảnh đẹp dệt nên truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu,
đảm đang của người con gái Việt Nam kiên cường.
Với truyền thống đó, phụ nữ Việt Nam “giỏi việc nước, đảm việc nhà”
tiếp tục vượt qua mọi thành kiến và thử thách, vươn lên đóng góp tích cực vào
các hoạt động xã hội, duy trì ảnh hưởng rộng rãi vai trị của mình trên nhiều
lĩnh vực như: tham gia quản lý nhà nước; tham gia xóa đói giảm nghèo; xây


4

dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; tham gia phòng chống tệ
nạn xã hội; thúc đẩy hoạt động đối ngoại nhân dân… Có thể nói, vai trò của
phụ nữ Việt Nam được thể hiện ngày càng sâu sắc và có những đóng góp
quan trọng vào quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, trong công cuộc
xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, phụ
nữ Việt Nam tiếp tục đóng vai trị quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển
chung của xã hội. Vai trò này đang được khẳng định một cách rõ nét hơn bao giờ
hết. Với sự quan tâm của các cấp các ngành, sự thay đổi trong nhận thức của xã
hội về vai trò, vị thế của phụ nữ đã giúp phụ nữ có cơ hội, điều kiện để phát
triển bản thân và tham gia tích cực vào đời sống chính trị - xã hội.

Trước hết chúng ta phải thừa nhận vị trí hết sức quan trọng của người phụ
nữ trong gia đình. Họ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định của gia
đình. Là người vợ hiền, họ luôn hiểu chồng, sẵn sàng chia sẻ những ngọt bùi
cũng như những đắng cay cùng chồng, khiến người chồng ln cảm thấy n
tâm trong cuộc sống, từ đó họ có thể đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Khơng chỉ
chăm sóc giúp đỡ chồng trong gia đình, người vợ còn đưa ra những lời khuyên
thiết thực giúp chồng trong cơng việc, đóng góp vào thành cơng trong sự nghiệp
của chồng. Là những người mẹ hết lịng vì con cái, họ thực sự là những tấm
gương cho con cái noi theo. Người mẹ ngày nay còn là một người bạn lớn luôn ở
bên con để hướng dẫn, động viên kịp thời. Bất cứ ai trong chúng ta đều có thể
tìm thấy ở những người phụ nữ, người vợ, người mẹ sự yên tĩnh trong tâm hồn
và sự cân bằng bình yên trong cuộc sống. Chính họ đã tiếp sức cho chúng ta
vượt qua những khó khăn để sống một cuộc sống hữu ích.
Phụ nữ cịn tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Ngày càng có
nhiều người trở thành chính trị gia, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng
động … Trong nhiều lĩnh vực, sự có mặc của người phụ nữ là không thể thiếu
như ngành dệt, may mặc, du lịch, công nghệ dịch vụ …


5

Hiện nay, phụ nữ Việt Nam góp một phần rất lớn vào quá trình phát
triển của đất nước, thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động.
Với hơn 50% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có
nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ
những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Hiện có tới 24,4% đại biểu
nữ trong Quốc hội (khóa XIII) - cao nhất ở châu Á và là một trong những
nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới; số phụ nữ tham gia Hội
đồng nhân dân các cấp trên 20%.Phụ nữ chiếm ưu thế trong một số nghành
như giáo dục, y tế, dịch vụ…Phụ nữ Việt Nam đã tỏ rõ vai trị, khả năng, sức

sáng tạo của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thích ứng và hội
nhập trong xu thế phát triển chung của nhân loại.
2. Lý do cần có nhiều nữ giới trong các vị trí quản lý, lãnh đạo
Thứ nhất, vì sự cơng bằng. Nữ giới chiếm một nửa dân số vì thế họ có
quyền nắm giữ 50% các vị trí có quyền ra quyết định. Chính sự cơng bằng là
nền tảng cho một xã hội bình đẳng giới. Cơng bằng tạo nên sự bình đẳng và
chính bình đẳng cũng tạo nên sự cơng bằng trong việc đánh giá vai trò của
nam giới và phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội.
Thứ hai, vì lợi ích. Xuất phát từ khác biệt về mặt sinh học, phụ nữ và
nam giới có cấu tạo cơ thể khác nhau, vì thế có các mối quan tâm, kỳ vọng
khác nhau, có những nhu cầu giới hay lợi ích giới khác nhau. Do đó, sẽ hiệu
quả và chính đáng hơn nếu lợi ích của hai nhóm được đảm bảo. Các chủ
trương chính sách của mỗi quốc gia cần phản ánh và đáp ứng được nhu cầu,
lợi ích, kỳ vọng của người dân. Các quốc gia không thể hoạch định chính sách
hiệu quả nếu chỉ dựa vào nam giới, những người đang chiếm số đông trong hệ
thống các cơ quan quyền lực nhà nước.
Thứ ba, vì kinh nghiệm. Như đã nói ở trên, phụ nữ và nam giới có
những kinh nghiệm, trải nghiệm thực tế khác nhau. Nữ giới cần nắm các vị trí


6

có tầm ảnh hưởng, có vai trị ra quyết định để thể hiện chính kiến, quan điểm
của mình.
Thứ tư, vì sự phát triển bền vững.Thực tế cho thấy, quốc hội nào có
nhiều phụ nữ tham gia thì nhiều chính sách, pháp luật được xây dựng để bảo
vệ con người và mơi trường hơn ở những Quốc hội có ít đại diện là phụ nữ.
Đặc biệt, phụ nữ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề của phụ nữ và trẻ em –
thế hệ tương lai của đất nước.
Ngoài ra, phụ nữ có những khả năng và quyền lực mềm nhất định trong

lãnh đạo.Trên thực tế, quyền lực và sức mạnh “cơ bắp” thuần túy đã khơng
cịn đem lại hiệu quả như mong muốn, nhiều khi lại có tác dụng ngược lại.
Cuộc chạy đua vũ trang của các cường quốc thường kéo theo sự tốn kém và
đổ vỡ. Hiện nay, “quyền lực mềm” được xem là một công cụ, chiến thuật,
hay là một “thế” giúp nâng cao hiệu quả của nhiều chính phủ trên thế giới.Ví
dụ như Chính phủ của thủ tướng Đức Angela Merkel đã rất thành công trong
việc giải quyết các vấn đề xung đột, khủng hoảng ở Châu Âu, vấn đề người di
cư, v.v. Bà được tạp chí Forbes 9 lần xếp hạng là người phụ nữ quyền lực nhất
thế giới.
3. Thực trạng phụ nữ tham chính trên thế giới và ở Việt Nam
3.1. Trên thế giới
Bản đồ Phụ nữ tham chính năm 2014 của Cơ quan Phụ nữ Liên Hợp
Quốc (UN Women) và Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU) cho thấy phụ nữ
có xu hướng tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào đời sống chính trị xã hội
của các nước. Tỷ lệ phụ nữ trong Quốc hội các nước Bắc Âu đứng đầu thế
giới với 42.1% khiến khu vực này luôn chiếm thứ hạng cao về chỉ số quyền
lực của phụ nữ và bình đẳng giới. Rwanda là cơ quan lập pháp thân thiện với
nữ giới nhất với tỷ lệ phụ nữ trong Quốc hội chiếm tới 63,8%.Trên tồn cầu
chỉ có 29 quốc gia có tỷ lệ nữ trong Quốc hội trên 30%; có 24 quốc gia nằm


7

trong nhóm gần đạt đến tỷ lệ 30% (từ 25% đến 29%). Rất nhiều quốc gia trên
thế giới không thể đạt được mục tiêu 30% nữ giới trong nghị viện trước năm
2025 được nhấn mạnh trong Cương lĩnh hành động Bắc Kinh năm 1995. Sau
20 năm, kể từ khi ra đời của Cương lĩnh hành động Bắc Kinh, tỷ lệ phụ nữ
tham gia vào nghị viện đạt gần gấp đôi. Tuy nhiên, mới chỉ có 22% phụ nữ
tham gia vào nghị viện các nước. Việc thúc đẩy phụ nữ tham chính là vấn đề
khó khăn với hầu hết các nước.


(Nguồn:

/>
key-milestones.cfm)
Trong thập niên gần đây, từ 2005 đến 2015, tỷ lệ phụ nữ tham gia các
nghị viện tính theo khu vực có sự thay đổi đáng kể, tuy nhiên vẫn cịn ở mức
thấp so với quy định và kỳ vọng.
Ở khu vực Châu Á, Thái Bình Dương, một số phụ nữ đã nắm được vị trí
chủ chốt trong chính phủ như bà Park Geun He – nữ thủ tướng đầu tiên của
Hàn Quốc; cựu nữ tổng thống đầu tiên của New Zealand – bà Helen Clark, hiện


8

là Tổng giám đốc Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) trong 2
nhiệm kỳ liên tiếp từ 2009 đến nay, cựu Thủ tướng Thái Lan – bà Ying Luck,
hay cựu tổng thống Phillippines – bà Gloria Macaraeg Macapagal-Arroyo.
Bảng số 1: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam so với các nước trên thế giới
Thời gian
Nước

9/1997
(Khóa X)

7/2002
(Khóa XI)

7/2007
(khóa XII)


7/2011
(khóa XIII)

11/2014

Trên thế giới

12,1%

14,7%

17,5%

19,3%

21,9%,
39 nước
trên 30%

Việt Nam

26,2%

27,3%

25,8%

24,4%


24,3%

Thứ hạng của
Việt Nam so
với thế giới

8

15

28

39

55

Ở Việt Nam ta, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ tịch
quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Chủ tịch quốc hội Tịng Thị Phóng là
các nữ chính khách có uy tín. Gần đây nhất, ngày 16/1/2016, bà Thái Anh Văn
đã đắc cử nữ tổng thống đầu tiên của Đài Loan. Điều đó cho thấy, người dân
Châu Á nói riêng và khu vực Châu Á Thái Bình Dương nói chung đã có sự
ủng hộ nhất định đối với sự tham gia, đại diện của phụ nữ trong các vị trí lãnh
đạo chủ chốt trên chính trường.
3.2. Tại Việt Nam
Trong ba thập niên vừa qua, công tác chăm sóc, phát triển phụ nữ đạt
được những thành quả quan trọng, nhất là ở lĩnh vực giáo dục, đào tạo, nâng
cao trình độ dân trí. Xét trong mối tương quan giữa nam và nữ trong việc
được tiếp cận môi trường giáo dục, tỷ lệ đến trường, tỷ lệ tay nghề qua đào
tạo… cho thấy mức độ tương đối về mức cân bằng giữa nam và nữ. Theo
thống kê, “tỷ lệ nhập học tiểu học đối với trẻ em gái là 91,5% và trẻ em trai là



9

92,3%. Tỷ lệ nhập học trung học cơ sở đối với trẻ em gái là 82,6% và trẻ em
trai là 80,1% . Tỷ lệ nhập học trung học phổ thông đối với trẻ em gái là 63,1%
và trẻ em trai là 53,7%. Tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động là 73% và
nam giới là 82%. Tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sĩ: 33,95%; tiến
sĩ: 25,69%. Trong giới báo chí, tỷ lệ các nhà báo nữ cũng ước tính tới gần
30% tổng số nhà báo. Phụ nữ chiếm ưu thế trong một số ngành, như giáo dục,
y tế, và dịch vụ. Trong công tác chuyên môn, phụ nữ chiếm số đông trong các
bộ môn văn học, ngôn ngữ, y dược, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và
kinh tế. Tổng số giờ làm việc của nữ giới (kể cả ở nhà và bên ngoài) cao hơn
rất nhiều so với tổng số giờ làm việc của nam giới”.
Xét về phương diện phụ nữ tham gia chính trị, tuy tỷ lệ phụ nữ giữ
những cương vị lãnh đạo chủ chốt ở các cấp từ Trung ương đến địa phương
cịn ở mức khiêm tốn nhưng hình ảnh, vị thế của họ đang gây được những
thiện cảm tốt, tạo được niềm tin, sự gần gũi với nhân dân. Cũng theo số liệu
thống kê, “phụ nữ Việt Nam chiếm 51,48% số dân và 48% lực lượng lao động
toàn xã hội, và chiếm khoảng 20% cán bộ làm công tác lãnh đạo và quản lý
nhà nước các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó, số nữ Ủy viên Trung
ương Ðảng khóa VII là 12, khóa VIII tăng lên 18 (tuy vậy khóa IX lại cịn
12). Ở cấp tỉnh, tỉnh ủy viên là nữ cũng tăng từ 182 ở khóa VII lên 280 trong
khóa VIII. Phụ nữ tham gia các cấp ủy địa phương đạt 10-11%, trong đó bí
thư, phó bí thư, ủy viên thường vụ đạt từ 3% đến 8%. Phần lớn phụ nữ tham
gia thường vụ cấp ủy đều được phân công công tác kiểm tra và dân vận. Về
chính quyền, trong khóa VIII, tỷ lệ nữ Bộ trưởng và tương đương chiếm
13,1%, nữ Thứ trưởng và tương đương chiếm 7,4%; nữ vụ trưởng, vụ phó và
tương đương chiếm 13%. Chủ tịch UBND cấp tỉnh, huyện và xã có khoảng
1,6% là nữ. Phó Chủ tịch UBND là 2 - 4%. Khóa 1999 - 2004, số nữ là đại

biểu HÐND cấp tỉnh chiếm 22,5%, cấp huyện chiếm 20,7%, cấp xã chiếm


10

17%. Nữ đại biểu QH khóa X là 26,22%, khóa XI là 27,31%. Việt Nam là
nước có tỷ lệ nữ đại biểu QH cao thứ hai trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương (sau New Zealand)”.
Sự gia tăng số lượng nữ tham gia quản lý nhà nước chứng tỏ chất
lượng, trình độ cán bộ lãnh đạo của nữ giới ngày càng nâng cao. Hiện nay,
“phụ nữ chiếm tỷ lệ 61% những người có trình độ cao đẳng, 34% những
người có trình độ đại học, 30% những người có trình độ thạc sĩ, 21% những
người có trình độ tiến sĩ và 4% những người là tiến sĩ khoa học”. Mặt bằng
học vấn này đã giúp phụ nữ tham gia ngày càng tốt hơn công tác quản lý nhà
nước. Theo đánh giá của Văn phòng Quốc hội, việc tham gia xây dựng pháp
luật và chính sách, đóng góp ý kiến cho công tác quản lý nhà nước và tọa đàm
với cử tri của các nữ đại biểu Quốc hội ngày càng có chất lượng. Vì vậy, phụ
nữ càng thêm tự tin, trình bày ý kiến đại diện cho người dân và cho chính giới
nữ trong các kỳ họp của Quốc hội.
Bảng số 2: Tỷ lệ nữ ĐBQH Việt Nam qua 13 kỳ bầu cử
Nhiệm kỳ

Nữ Đại biểu

Tổng số Đại
biểu

Tỷ lệ nữ/
Tổng số


Khoá XIII (2011-2016)

122

500

24,40%

Khoá XII (2007-2011)

127

493

25,76%

Khoá XI (2002-2007)

136

498

27,31%

Khoá X (1997-2002)

118

450


26,22%

Khoá IX (1992-1997)

73

395

18,48%

Khoá VIII (1987-1992)

88

496

17,74%

Khoá VII (1981-1987)

108

496

21,77%

Khoá VI (1976-1981)

132


492

26,83%

Khoá V (1975-1976)

137

424

32,31%


11

Nữ Đại biểu

Tổng số Đại
biểu

Tỷ lệ nữ/
Tổng số

Khoá IV (1971-1975)

125

420

29,76%


Khoá III (1964-1971)

62

366

16,94%

Khoá II (1960-1964)

49

362

13,54%

Khoá I (1946-1960)

10

333

3,00%

Nhiệm kỳ

Hiện nay, số cán bộ công chức nữ tham gia công tác quản lý nhà nước
trong hệ thống chính quyền các cấp nhiều hơn so với trước: một Phó Chủ tịch
nước, ba Bộ trưởng, 26 thứ trưởng và tương đương, hai Chủ tịch UBND, 22

Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo ở cấp bộ,
vụ còn thấp, mới khoảng 8 - 15%, chưa tương xứng lực lượng lao động và
năng lực đóng góp của phụ nữ.
Trong thực tế, phụ nữ Việt Nam đang có mặt ở hầu hết cơ quan quản lý
hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp. “Phụ nữ chiếm 50,3% số người làm
công ăn lương và 32,4% các chủ doanh nghiệp. Trong số hơn 300 nghìn
doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, có khoảng 15% do phụ nữ
đứng đầu hoặc nắm giữ cương vị chủ chốt. Tỷ lệ phụ nữ làm quản lý doanh
nghiệp của một số ngành: dệt, may mặc, giày dép, thực phẩm, đồ uống...
chiếm hơn 50%, ở các ngành giao thông - vận tải, xây dựng, khai khống... có
20% người quản lý doanh nghiệp là nữ. Trong số 900 nghìn hộ kinh doanh gia
đình, có 27% do phụ nữ điều hành”.
Tại Đại hội XII (năm 2016) tỷ lệ cán bộ nữ là ủy viên Trung tăng lên so
với nhiệm kỳ Đại hội XI. Ngày 26/1/2016, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII đã tiến hành bỏ phiếu bầu cử Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, gồm
200 đồng chí, trong đó 180 Ủy viên chính thức và 20 Ủy viên dự khuyết. Có
20/200 Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII là nữ, chiếm tỉ lệ 10% (tăng 1%
so với số nữ Ủy viên Trung ương được bầu tại Đại hội XI của Đảng là


12

18/200). Trong 20 nữ Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII có 17 Ủy viên
chính thức và 3 Ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất BCH Trung ương
Khóa XII đã bầu 19 đồng chí trong số 180 ủy viên chính thức vào Bộ Chính
trị, trong đó có 3 nữ Ủy viên Bộ Chính trị.
Trong cơ cấu thành phần nữ Đại biểu Quốc hội khóa XIV sắp tới, tỷ lệ
đại biểu nữ cũng được quan tâm và được Quốc hội dành một tỷ lệ nhất định.
Theo Nghị quyết số 1135/2016/UBTVQH13 ngày 22/01/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, dự kiến số lượng, cơ cấu, thành phần ĐBQH khóa 14,

tổng số đại biểu Quốc hội khóa 14 là 500 người. Số đại biểu của các tỉnh
thành tùy theo số lượng dân cư. Đại biểu là phụ nữ, khi lập danh sách chính
thức những người ứng cử, phải bảo đảm ít nhất là 314 người bằng 35% tổng
số người trong danh sách ứng cử và phấn đấu trúng cử ít nhất 150 đại biểu
bằng 30% tổng số đại biểu Quốc hội.
Điều này minh chứng cho sự tham gia tích cực của phụ nữ trong đời
sống chính trị - xã hội, khẳng định vị thế, uy tín của họ trong trong việc nâng
cao vị thế, tự khẳng định bản lĩnh, trách nhiệm trước Tổ quốc, nhân dân.
4. Thuận lợi đối với phụ nữ tham chính tại Việt Nam
Thứ nhất, là sự quan tâm của các cấp các ngành với những chủ trương,
chính sách đúng đắn, phù hợp. Có thể thấy trong những năm qua Đảng, Nhà
nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, chỉ thị về việc đẩy mạnh chiến lược phát
triển đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tiêu
biểu có thể kể tới: Nghị quyết số 11-NQ/TƯ của Bộ Chính trị (ngày 27-42007) "Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước" trong đó xác định: "Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ
nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội
dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng". Nghị quyết
cũng đề ra chỉ tiêu: "Cần bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia các khóa đào tạo tại các


13

trường lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước từ 30% trở lên", "Phấn
đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở
lên; nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%.
Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo
chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ có
tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới". Tiếp theo Nghị quyết 11 là
Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, số 22-HD/BTCTW ngày 21-102008 về công tác quy hoạch cán bộ xác định cơ cấu nữ trong cấp ủy viên tỉnh,
thành khoảng 10-15%. Hướng dẫn 15-HD/BTCTW ngày 5-11-2012 thay thế

Hướng dẫn 22 xác định rõ hơn: "Bảo đảm tỷ lệ cán bộ nữ không dưới 15%
trong quy hoạch cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy và ban lãnh đạo chính quyền
các cấp". Tiến tới Đại hội Đảng lần thứ XII, Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30-52014 của Bộ Chính trị về cơng tác nhân sự yêu cầu: "Phấn đấu đạt tỉ lệ cấp ủy
viên nữ khơng dưới 15% và cần có cán bộ nữ trong ban thường vụ cấp ủy".
Cùng với những Chỉ thị, Nghị quyết là Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
đến năm 2020; Luật Bình đẳng giới (năm 2006) cũng được ban hành là những
bằng chứng về cam kết chính trị trong việc trao quyền cho phụ nữ.
Việt Nam đã ký nhiều công ước quốc tế như Công ước xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Cương lĩnh hành động Bắc
Kinh, Tuyên bố thiên niên kỷ, v.v, cam kết ủng hộ phụ nữ tham chính và nỗ
lực giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Việt Nam tích cực tham
gia Cương lĩnh hành động Bắc Kinh với 12 lĩnh vực quan tâm, trong đó có
vấn đề ra quyết định và cơ chế thể chế, bên cạnh các lĩnh vực quan tâm khác
như nghèo đói, giáo dục và đào tạo, sức khỏe, bạo lực, xung đột vũ trang,
kinh tế, quyền con người, truyền thông, môi trường và trẻ em gái. Gần đây
nhất, Việt Nam ký kết tham gia Chương trình nghị sự thế giới về phát triển
bền vững, trong đó có Mục tiêu 5: Trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái trên


14

tồn cầu, trong đó có chỉ tiêu đảm bảo phụ nữ có quyền tham gia đầy đủ, hiệu
quả, bình đẳng các cơ hội lãnh đạo và ra quyết định.
Để thúc đẩy phụ nữ tham chính, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều
giải pháp quan trọng như khuyến khích phụ nữ tham chính, có các chính sách
hỗ trợ, đưa thêm phụ nữ vào danh sách ứng cử, khuyến khích đề bạt thêm phụ
nữ vào Đảng, v.v. Nhằm nâng cao năng lực cho các nữ ứng viên Đại biểu
Quốc hội và Đại biểu Hội đồng Nhân dân, chuẩn bị tốt cho kỳ bầu cử 2016,
Hội LHPN Việt Nam, phối hợp với UNDP và Bộ Ngoại Giao đã tổ chức nhiều
lớp tập huấn với nội dung hữu ích, trang bị cho các ứng cử viên nữ kiến thức

về hệ thống chính trị Việt Nam, về quy trình bầu cử, xây dựng chương trình
hành động, kỹ năng chuẩn bị cho hội nghị tiếp xúc cử tri và trình bày chương
trình hành động, v.v.
Thứ hai, sự phát triển của đời sống vật chất, kinh tế - xã hội được cải
thiện, nâng cao, phụ nữ có thêm nhiều cơ hội, điều kiện để phát triển toàn
diện. Sự thay đổi trong nhận thức, trong cung cách ứng xử của xã hội, như tư
tưởng trọng nam khinh nữ, gia trưởng, nam quyền đã có những thay đổi theo
chiều hướng tích cực. Tầng lớp những người yếu thế, trong đó có phụ nữ, trẻ
em ln nhận được quan tâm, ủng hộ của các cấp các ngành với nhiều chính
sách được luật hóa nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền và những giá trị nhân bản,
tốt đẹp của người phụ nữ.
Thứ ba, những rào cản trong suy nghĩ của chính chị em phụ nữ đã có
những chuyển biến trong việc địi hỏi quyền lợi, nghĩa vụ; trong việc tham gia
chính trường. Sự phát triển của công nghệ thông tin, cập nhật tri thức thường
xuyên khiến cho nhiều phụ nữ thấy được tầm quan trọng, sứ mệnh thiêng
liêng và vị trí khơng thể thay thế trong gia đình và xã hội. Sự ra đời của các tổ
chức quốc tế, như Hội liên hiệp phụ nữ dân chủ thế giới, Liên minh phụ nữ
quốc tế, Ủy ban đại diện phụ nữ quốc tế… đã giúp phụ nữ hiểu được quyền


15

lợi, trách nhiệm cơng dân, đồn kết với phụ nữ quốc tế để cùng đấu tranh bảo
vệ quyền thiêng liêng của con người nói chung và phụ nữ nói riêng.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong việc nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần; sự tham gia tích cực vào đời sống chính trị - xã hội; thực hiện tốt
quyền được cung cấp, chia sẻ thông tin… Nhưng do những yếu tố đặc thù về
điều kiện lịch sử - chính trị - xã hội, truyền thống văn hóa; những tác động
xấu của thời đại tồn cầu hóa… khiến cho việc thực thi, cụ thể hóa vấn đề
bình đẳng giới và sự tham chính của phụ nữ cịn những hạn chế, bất cập với

những trở ngại nhất định. Việc nhận diện những rào cản, những nguyên nhân
tác động đến sự phát triển, đến quyền bình đẳng của phụ nữ trong giai đoạn
hiện nay là việc làm cần thiết để có những cơ chế, chính sách tác động phù
hợp, thúc đẩy sự phát triển và sự tiến bộ của phụ nữ.
5. Một số khó khăn đối với phụ nữ tham chính ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, chịu ảnh hưởng
sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, truyền thống văn hóa lúa nước, khí hậu khắc
nghiệt… Một mặt, những điều kiện địa lý, lịch sử góp phần hun đúc lên
những đức tính tốt đẹp trong bản lĩnh, nhân cách người phụ nữ. Tuy nhiên,
những hạn chế của những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu cũng đã chi phối, ảnh
hưởng lớn đến tâm sinh lí của họ.
Hiện nay, trẻ em nữ nói riêng và phụ nữ nói chung vẫn thuộc nhóm yếu
thế, là nạn nhân của những câu chuyện buồn. Ở đây xin được kể tới một số
những tồn tại, hạn chế trong công tác chăm sóc, quan tâm, phát triển phụ nữ.
Thứ nhất, Những định kiến về văn hóa – xã hội và vai trị giới truyền
thống. Trong nhiều gia đình Việt Nam hiện nay, tâm lí gia trưởng, nam quyền,
trọng nam khinh nữ vẫn còn nặng nề. Người phụ nữ phải hứng chịu những
định kiến về giới xuất phát từ những nhận thức lạc hậu ăn sâu trong tiềm thức
của nhiều thế hệ. Nhiều phụ nữ suốt ngày chỉ quanh quẩn trong không gian
gia đình, nơi “xó bếp”, làm đủ những cơng việc nội trợ, khơng có thời giờ để


16

tham gia các công việc xã hội. Với phần lớn phụ nữ Việt Nam, nghề nghiệp
chính của họ là làm ruộng, khi khơng cịn ruộng để canh tác (do q trình đơ
thị hóa) thì họ đi làm cơng nhân, đồng thời đảm nhiệm hầu hết các cơng việc
gia đình, từ chăm con đến những chuyện tang ma hiếu hỉ của bà con xóm
giềng. Những cơng việc khơng tên ấy tiêu tốn khá nhiều thời giờ để rồi họ
khơng có được không gian riêng trong việc hưởng thụ, nghỉ ngơi, giải trí,

tham quan, hưởng thụ những giá trị, sinh hoạt tinh thần.
Tại Việt Nam, vẫn tồn tại định kiến liên quan đến khả năng tham chính
và năng lực lãnh đạo của phái đẹp như việc cho rằng phụ nữ thiếu kiên quyết,
dứt điểm trong việc ra quyết định; hay quan niệm “nam trưởng, nữ phó” khiến
phụ nữ ít được ủng hộ vào các vị trí lãnh đạo có tầm ảnh hưởng lớn.Bên cạnh
đó, quan niệm về vai trị giới truyền thống cho rằng, phụ nữ đóng vai trị quan
trọng trong việc nội trợ, bếp núc, chăm sóc con cái, gắn chặt họ với thiên
chức của người mẹ, người vợ, người con, khiến vị trí lãnh đạo trên chính
trường của họ thường đứng sau nam giới. Thông thường, họ phải nỗ lực làm
việc gấp đôi mới được thừa nhận.
Thứ hai, mặt trái của nền kinh tế thị trường và q trình tồn cầu hóa đã
tác động khơng nhỏ đến cuộc sống của phụ nữ. Trước sức ép của cuộc sống
hiện đại, nhiều người thường đề cao, coi trọng, chạy theo giá trị vật chất, danh
lợi, chức vụ, dẫn đến sự khủng hoảng tâm lí, cuộc sống vợ chồng tan vỡ,
những bi kịch hôn nhân thường xuyên diễn ra. Theo thống kê của ngành tịa
án cho thấy, “nếu năm 2000 chỉ có 51.361 vụ thì năm 2005 đã tăng lên 65.929
vụ; đến năm 2010, con số này lên tới 126.325 vụ. Nguyên nhân dẫn tới tình
trạng trên là do những mâu thuẫn về lối sống (27,7%), ngoại tình (25,9%),
nguyên nhân kinh tế (13%), bạo lực gia đình (6,7%), lý do sức khỏe (2,2%) và
do xa nhau lâu ngày (1,3%). Tỉ lệ ly hôn, ly thân cao nhất là ở Đông Nam bộ
và đồng bằng sơng Cửu Long. Đây cũng là hai vùng có xu hướng ly hôn sớm


17

nhất nước với số năm sống chung trước ly hôn là 8,7 năm (Đông Nam bộ) và
7,5 năm (đồng bằng sơng Cửu Long). Cịn theo số liệu điều tra xã hội học ở
TP. Hồ Chí Minh, mỗi năm có hơn 50.000 trẻ em rơi vào hoàn cảnh cha mẹ
bỏ nhau và 30% trẻ em lang thang đường phố”.
Khơng chỉ tình trạng ly hơn ở những gia đình trẻ tăng cao, phụ nữ cịn

ln phải đối diện với nạn bạo hành, nạn buôn bán người, nạn mại dâm. Theo
thống kê của Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an), “giai đoạn 1998 - 2006, có
5.746 phụ nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài và 665 phụ nữ và trẻ em bị buôn
bán trong nước, chưa kể đến con số 7.940 phụ nữ và trẻ em nghi ngờ bị buôn
bán. Từ năm 2005 đến tháng 6-2008, toàn quốc đã xảy ra 1.100 vụ với 2.800
phụ nữ và trẻ em bị buôn bán, diễn ra mạnh nhất tại các tuyến biên giới Việt
Nam - Trung Quốc với hơn 65% tổng số vụ. Tuyến Việt Nam - Campuchia
cũng chiếm đến 15% tổng số vụ buôn bán phụ nữ và trẻ em, tuyến Việt Nam Lào chiếm khoảng 6,5% số vụ. Toàn quốc hiện nay có 54 tuyến trọng điểm về
bn bán phụ nữ và trẻ em, trong đó có năm tuyến quốc tế và 18 tuyến liên
tỉnh” (6). Còn theo thống kê của Ban Chỉ đạo 130/CP (Ban Chỉ đạo phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em), “chỉ trong sáu tháng đầu năm
2009, cả nước đã xảy ra 191 vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em, với 362 đối tượng,
lừa bán 417 nạn nhân. Đáng chú ý, tình trạng chiếm đoạt, bắt cóc trẻ em, mua
bán trẻ sơ sinh đưa ra nước ngoài bán liên tục xảy ra ở một số địa phương
phía Bắc như Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Quảng Ninh, Hải
Phòng, Quảng Nam”.
Về nạn bao hành phụ nữ, Theo kết quả nghiên cứu quốc gia về bạo lực
gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam do Tổng cục Thống kê và WHO thực
hiện cho thấy “có tới 32% phụ nữ đã từng kết hơn phải hứng chịu bạo lực thể
xác trong đời sống gia đình. Đồng thời trên hơn nửa phụ nữ Việt Nam đã phải
hứng chịu bạo lực tinh thần trong đời. Trong đó tỷ lệ bị bạo lực đối với phụ
nữ đã kết hơn là 9%. Cứ 10 cặp vợ chồng thì có một cặp từng trải qua các


18

hình thức bạo lực nghiêm trọng nhất. Phụ nữ thường là đối tượng của bạo lực.
Cũng theo nghiên cứu của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội cho thấy
2,3% hộ được phỏng vấn báo cáo có bạo lực về thể chất, 25% có bạo lực tinh
thần, 30% có bạo lực tình dục. Về nạn mại dâm ở phụ nữ, theo Ủy ban Quốc

gia phòng chống AIDS và tệ nạn ma túy, mại dâm, số nữ giới nhiễm HIV
ngày càng cao; cả nước có gần 26.000 người bán dâm, nạn mại dâm nam đang
có xu hướng gia tăng”.
Thứ ba, Khó khăn trong tiếp cận các chương trình giáo dục của trẻ em
gái, đặc biệt là ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa. Nghiên cứu của Viện
LĐXH, Bộ Lao động (2015) cho rằng mặc dù Đảng và Nhà nước đã rất quan
tâm đến việc nâng cao quyền năng giáo dục cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái
các vùng sâu, vùng ra; việc tiếp cận các cơ hội, các chương trình giáo dục của
trẻ em gái cịn nhiều hạn chế. Phân tích số liệu thống kê từ Tổng điều tra Dân
số và Nhà ở năm 2009 của Tổng Cục Thống Kê cho thấy trẻ em gái vùng dân
tộc miền núi phía Bắc có: tỷ lệ chưa bao giờ đi học cao hơn so với các vùng
khác trong cả nước; tỷ lệ biết đọc biết viết thấp nhất trong cả nước; tỷ lệ biết
đọc biết viết thấp hơn trẻ em trai tại tất cả các tỉnh trong cùng vùng và càng
học cao trẻ em gái càng bỏ học nhiều hơn so với trẻ em trai.
Ở một số vùng miền sâu, vùng xa, do điều kiện kinh tế khó khăn, hủ tục
lạc hậu, nhận thức của người dân chưa cao nên tỷ lệ học sinh nữ đến trường
còn thấp, nhiều em phải bỏ học giữa chừng để kết hơn, làm việc nhà. Mặt
khác do tâm lí coi trọng con trai nên nhiều gia đình quyết tâm phải sinh bằng
được quý tử. Điều này dẫn đến sự mất cân bằng giới tính, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe sinh sản của người phụ nữ. Ở những nữ vị thành niên, do
thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng sống, chạy theo lối sống gấp, sống nhanh, sống
thử dẫn đến những hệ lụy khôn lường. Trên cả nước, “tỷ lệ phá thai vị thành
niên năm 2012 là 2,3% trong tổng số người đến làm thủ thuật. Số trẻ vị thành


19

niên mang thai trong tổng số mang thai của cả nước cũng tăng qua từng năm,
năm 2009 là 2,9%, năm 2012 là 3,2%” . Còn theo thống kê của Ủy ban quốc
gia dân số và kế hoạch hóa gia đình, ở nước ta, “cứ 1 trẻ em ra đời thì có 1

bào thai bị phá bỏ. Mỗi năm có 1,2 - 1,6 triệu trẻ em được sinh ra tương ứng
với đó là con số bào thai bị phá bỏ” . Đáng chú ý hơn cả là số trẻ vị thành niên
nạo phá thai ở Việt Nam cao hơn nhiều lần so với các quốc gia dẫn đầu về nạo
phá thai. Theo bà Tơ Thị Kim Hoa, Phó Giám đốc sở Y tế, Chi cục trưởng Chi
cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: hiện
nay, tỉ lệ nạo phá thai ở Việt Nam là khoảng 300.000 ca mỗi năm. Trong đó có
khoảng 20% ở độ tuổi vị thành niên. Con số này cho thấy Việt Nam đang là
nước đứng thứ 5 trên thế giới và đứng đầu khu vực Đông Nam Á về tình trạng
nạo phá thai.
Thứ tư, Rào cản về thể chế có ảnh hưởng khơng nhỏ tới khả năng tham
chính của phụ nữ. Mặc dù ý thức chính trị và sự tham dự, gánh vác những
trọng trách quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong giới
phụ nữ có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên tỷ này so với nam giới vẫn cịn
khiêm tốn cần phải có những cơ chế, chính sách cụ thể, thiết thực để phụ nữ
có thêm nhiều cơ hội phát triển năng lực, trí tuệ, tài năng, thực hiện tốt quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm công dân.
Sự khác biệt trong độ tuổi nghỉ hưu giữa nam giới và phụ nữ đã hạn chế
sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo cao cấp, hạn chế cơ hội quy
hoạch, bổ nhiệm của phụ nữ. Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng
còn thấp. Ở địa phương, tỷ lệ ủy viên nữ trong Đảng ủy cấp tỉnh chỉ chiếm 11%,
trong khi đó cấp quận, huyện là 15% và cấp xã phường là 18%. Với mức tham
gia cấp ủy Đảng hạn chế như vậy, thực sự phụ nữ chưa đại diện đượclượng nữ
đơng đảo trong xã hội. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt cán bộ nữ trong một số lĩnh vực
quan trọng khiến việc hoạch định và thực thi chính sách hạn chế.


20

6. Giải pháp tăng cường bình đẳng giới trong chính trị
Để thực hiện tốt quyền bình đẳng giới cũng như nâng cao vị thế, vai trò

của người phụ nữ trong đời sống xã hội, nhất sự tham gia của họ vào đời sống
chính trị, trước hết cần phải có sự vào cuộc của các cấp các ngành, sự ủng hộ,
thống nhất trong nhận thức của toàn xã hội với những biện pháp cụ thể như:
Thứ nhất, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc cụ thể các
chủ trương và định hướng về sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý.
Kể từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn ý thức và đánh giá cao
vai trò của phụ nữ Việt Nam - một lực lượng quan trọng trong suốt chặng
đường phát triển của đất nước. Các cấp các ngành cần quán triệt sâu sắc tinh
thần nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về chiến lược phát triển phụ nữ
trong thời kỳ mới, như Chỉ thị số 44- CT/TW (năm 1984) về Công tác cán bộ
nữ, đến Nghị quyết số 04-NQ/TW (năm 1993) của Bộ Chính trị về Đổi mới
và tăng cường cơng tác vận động phụ nữ trong tình hình mới và gần đây nhất
là Nghị quyết số 11-NQ/TW (năm 2007) của Bộ Chính trị về Cơng tác phụ nữ
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, tun truyền sâu rộng trong nhân dân về vai trò, vị thế của
người phụ nữ. Cần tạo ra cái nhìn khách quan về vấn đề bình quyền, bình
đẳng giới, tránh những định kiến sai lầm và sự phân biệt, đối xử với phụ nữ.
Tạo mọi cơ hội, điều kiện để phụ nữ tham gia vào mọi cơng việc, mọi lĩnh
vực có thể, tùy theo khả năng và mong ước của họ. Với nam giới, cần có cái
nhìn cởi mở, tơn trọng, bảo vệ phụ nữ. Cùng chung tay chia sẻ, gánh vác
việc nhà, ni nấng con cái, cùng nhau có trách nhiệm trước những vấn đề
chung đặt ra.
Thứ ba, xây dựng chiến lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực nữ, trong đó chú trọng đến cơng tác quy hoạch nguồn lãnh đạo nữ
các cấp, các ngành.


21

Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định “Xây dựng,

phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ
nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược cơng tác
cán bộ của Ðảng”. Do đó “Các cấp ủy đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng
quy hoạch cán bộ nữ trong quy hoạch tổng thể về cán bộ của Ðảng ở từng
cấp, từng ngành, từng địa phương. Ðối với cán bộ nữ, đồng thời với việc xây
dựng quy hoạch, phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng để chủ động về nhân sự; đề
bạt, bổ nhiệm cần bảo đảm tiêu chuẩn của từng chức danh, có khả năng hoàn
thành tốt nhiệm vụ, phát huy được thế mạnh, ưu điểm của cán bộ nữ. Thực
hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào
tạo, đề bạt và bổ nhiệm”.
Dự án nâng cao năng lực cho đội ngũ nữ đại biểu Quốc hội, nữ đại biểu
hội đồng nhân dân các cấp, nữ cán bộ quản lý, nữ lãnh đạo các cấp; nữ ứng cử
đại biểu Quốc hội, nữ ứng cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2016 - 2020, nữ cán bộ thuộc diện quy hoạch là một trong 5 dự án quốc gia
được Chính phủ phê duyệt thực hiện bằng nguồn kinh phí của Nhà nước. Dự
án nằm trong khn khổ Chương trình Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2011 - 2015, là một trong những chiến lược quốc gia quan trọng đối với việc
nâng cao vị thế của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, các cơ quan, nhất là người đứng đầu cơ quan phải đặt
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong tổng thể công
tác cán bộ của cấp ủy. Trong từng cơ quan, đơn vị cần tiếp tục đổi mới công
tác đánh giá cán bộ nữ theo quan điểm phát triển, chú trọng yếu tố giới. Trong
quy hoạch, đào tạo của cơ quan phải nhất thiết bảo đảm tỷ lệ nữ phù hợp.
Công tác luân chuyển cán bộ nữ phải phù hợp với điều kiện, sở trường công
tác để đào tạo toàn diện từ thực tiễn đối với cán bộ nữ. Đồng thời, mạnh dạn
đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ trẻ có triển vọng phát triển.


22


Thứ tư, nâng cao vai trò của tổ chức hội liên hiệp phụ nữ các cấp.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thông qua quy định trách nhiệm của
các cấp Hội trong công tác cán bộ nữ cần tăng cường thực hiện chức năng đại
diện của tổ chức; chủ động, tích cực tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng và
thực hiện các chủ trương, chính sách về cơng tác cán bộ nữ; phát hiện, bồi
dưỡng, giới thiệu nguồn cán bộ nữ có chất lượng cho Đảng; tham gia có hiệu
quả vào công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nữ ở các cấp. Trong đó cần coi
trọng cơng tác tham mưu, đề xuất, tham gia giám sát và phản biện xã hội; giới
thiệu nguồn cán bộ nữ; tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của hội viên... góp phần vào thành tựu chung về bình
đẳng giới của Việt Nam.
Thơng qua chức năng, nhiệm vụ của mình, các cấp hội phụ nữ cần
khuyến khích mỗi hội viên khơng ngừng nâng cao sự hiểu biết, kiến thức xã
hội, chuyên môn nghiệp vụ. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hội liên hiệp
phụ nữ địa phương trong việc tạo môi trường, sân chơi cho phụ nữ được bày tỏ
chính kiến, quan điểm; chia sẻ cảm xúc, suy nghĩ cá nhân. Hỗ trợ giúp đỡ các
hội viên khó khăn; động viên kịp thời những việc làm hay, những tấm gương
giỏi. Chú trọng phát hiện các nhân tố có năng lực để có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng và tạo nguồn cho các vị trí trong hệ thống chính trị. Tăng cường cơng
tác giáo dục, tuyên truyền để từng bước nâng cao nhận thức về vai trò và vị thế
của phụ nữ Việt Nam là một trong những cơng việc thường xun. Cần có
những sáng kiến trong các chương trình, kế hoạch của Hội, như tổ chức thi tìm
hiểu về Luật Bình đẳng giới và khuyến khích các gương điển hình, tiên tiến
trong các phong trào của Hội, tránh bệnh hình thức, quan liêu. Thơng qua mỗi
hội viên để xây dựng hình ảnh phụ nữ thời đại mới, hình thành những giá trị,
chuẩn mực mới về bình đẳng giới để từng bước đẩy lùi những quan niệm định
kiến giới đã ăn sâu trong tiềm thức của các nhóm xã hội.


23


Thứ tư, nâng cao nhận thức cho phụ nữ, nhất là về quyền bình đẳng
giới. Tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội, duy trì truyền
thống tốt đẹp của gia đình. Nhanh nhạy tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
đóng góp cơng sức vào sự phát triển chung của xã hội.
Thứ năm, nâng cao năng lực của cán bộ nữ trong lĩnh vực chính trị.
Phát huy tiềm năng to lớn của lực lượng nữ - nguồn lực quan trọng của
đất nước, là yêu cầu tất yếu, khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến
lược công tác cán bộ của Đảng. Để nâng cao năng lực và phát huy hơn nữa sự
tham gia của phụ nữ trong hệ thống bộ máy đảng, nhà nước và đồn thể ở
nước ta trong tình hình mới, cần quan tâm một số biện pháp như sau:
Tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm về bình đẳng giới và cơng tác
cán bộ nữ trong các cấp ủy đảng, chính quyền, các đồn thể và quần chúng
nhân dân. Tích cực tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới và bình
đẳng giới trong hệ thống chính trị và tồn xã hội.
Quan tâm xây dựng quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, nâng cao năng lực
của phụ nữ về mọi mặt nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các cơ
quan của hệ thống chính trị; thực hiện quy hoạch gắn với đào tạo, bồi dưỡng
và bố trí, sử dụng cán bộ nữ, bảo đảm yêu cầu phát triển liên tục, bền vững
đội ngũ cán bộ nữ thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tránh tình
trạng khi đại hội, bầu cử mới tìm kiếm nhân sự đủ tiêu chuẩn.
Rà sốt, xây dựng, bổ sung, hồn thiện chính sách đối với phụ nữ nói
chung và cán bộ nữ nói riêng nhằm tạo điều kiện phát huy tiềm năng của phụ
nữ. Quan tâm đặc biệt tới xây dựng chính sách cho các đối tượng cán bộ nữ.
Xem xét sửa đổi Bộ luật Lao động và các luật liên quan về vấn đề nghỉ hưu
của nữ cán bộ, công chức./.
KẾT LUẬN


24


Có thể nói trong 30 năm đổi mới vừa qua, cơng tác chăm sóc, phát triển
phụ nữ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nâng cao vị thế, vai trị của
người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Sức ảnh hưởng của phụ nữ đối với sự
phát triển, ổn định của quôc gia, dân tộc là hết sức to lớn. Mặc dù trong quá
trình phát triển, những rào cản, thách thức do những tác động của nhân tố chủ
quan và khách quan là không tránh khỏi, nhưng với quyết tâm của toàn Đảng,
toàn dân với những cơ chế, chính sách khoa học, đúng đắn, phù hợp sẽ thúc
đẩy sự phát triển của phụ nữ, thực hiện tốt quyền bình đẳng giới, quyền được
tơn trọng, bảo vệ, được sống trong mơi trường văn hóa lành mạnh, văn minh.
Đúng như tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XII (2016) khẳng định: “Nâng cao
trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt
bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ
sung và hoàn thiện luật pháp và chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện
và cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia
đình và xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và xử lý nghiêm
minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ
nữ”(11). Để đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, cần sự vào cuộc của
các cấp các ngành, của người dân và chính bản thân phụ nữ với những nhận
thức đúng, hành động tích cực để bảo vệ, phát huy tài năng, trí tuệ, uy quyền
và thế mạnh của phụ nữ trong thời đại ngày nay.
Như vậy, việc tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị là hết sức
cần thiết, nhằm đảm bảo tiếng nói đại diện, thể hiện tâm tư, nguyện vọng của
nữ giới. Mặc dù Đảng, Nhà nước ta có quan tâm đặc biệt tới việc tăng cường
tỷ lệ phụ nữ tham chính, tỷ lệ nữ tham gia vào quốc hội, hội đồng nhân dân
còn thấp. Trên thực tế, phụ nữ Việt Nam có cơ hội tham chính, quyền năng
chính trị của họ được thúc đẩy bởi quy định thuận lợi của luật pháp, chính
sách, tuy nhiên họ gặp khơng ít cản trở về thể chế, về quan niệm xã hội.



×