1
HỌC VIỆN CÁN BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐẠI CƯƠNG
-----------------
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
NỀN VĂN MINH TRUNG HOA CỔ ĐẠI
Họ tên SV : Nguyễn Thị Ngọc Giàu
MSSV : 192020008
Lớp : K04202A
Ngày: 25/09/2020
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09/2020
2
Nhận xét của giảng viên
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
..........................
3
MỤC LỤC
Chương 1 : Mở đầu
1.1 Lý
do chọn đề tài............................................................................... 4
1.2 Giới
hạn nội dung, thời gian và không gian...................................... 5
1.3 Những cơ sở lý thuyết và thực tiễn của chủ đề/đề tài nghiên cứu......5
1.3.1 Cơ sở lý luận....................................................................................5
Chương 2 : Nội dung
2.1 Nhận diện những thành tựu của nền văn minh Trung Hoa cổ đại.......6
2.1.1 Niên Đại............................................................................................7
2.1.2 Nguồn Gốc........................................................................................8
2.1.3 Địa Lý...............................................................................................9
2.1.4 Chính trị - Xã hội.............................................................................10
2.1.5 Tơn Giáo...........................................................................................12
2.1.6 Chữ Viết............................................................................................17
2.1.7 Văn Học.............................................................................................19
2.1.8 Sử Học................................................................................................23
2.1.9 Nghệ Thuật.........................................................................................29
2.1.10 Khoa học tự nhiên.............................................................................34
2.1.11 Địa lý học...........................................................................................34
2.1.12 Nông Học...........................................................................................35
4
2.1.13 Bốn phát minh quan trọng.................................................................36
2.2 Ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa ảnh hưởng đến các nước......39
Chương 3 : Kết luận
Tài liệu tham khảo........................................................................................ 42
CHƯƠNG 1 : MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Như vậy với những ưu thế nổi vốn có của mình thì Trung Quốc đã có một
nền văn minh vơ cùng rực rỡ về nhiều mặt, trong đó nổit bật như chữ viết, văn
học, sử học, khoa học –tự nhiên…Đặc biệt Trung Quốc rất coi trọng việc giáo
dục con người thể hiện trong việc mở các trường học và tổ chức các khoa cử
trong các triều đại trước. Với một đất nước có bề dày về mặt lịch sử, bề rộng
về mặt địa lý, ngay từ thời cổ đại Trung Quốc đã có những phát minh lớn có
tiếng vang và ảnh hưởng đến cả thế giới, trong đó tiêu biểu nhất là giấy, la
bàn,thuốc nổ…Việc phát minh ra giấy là một cuộc cách mạng trong truyền bá
chữ viết, trao đổi tư tưởng và phổ biến kiến thức Những phát minh đó cho
thấy con người Trung Quốc rất năng động, sáng tạo.Hơn nữa, suốt 5000 năm
tồn tại và phát triển, văn minh Trung Quốc không chỉ có ảnh hưởng đến các
dân tộc châu Á,mà cịn có những đóng góp lớn cho tiến trình phát triển của
văn minh loài người.Những phát minh lớn của Trung Quốc trong lịch sử khoa
học -kĩ thuật của thế giới.những phát minh đó đã làm thay đổi bộ mặt thế
giới,loại thứ nhất trên bình diện văn học , loại thứ hai trên bình diện chiến
tranh, loại thứ ba trên bình diện hàng hải… Từ một nước nghèo nàn ,lạc hậu
thì Trung Quốc đã phấn đấu đi lên thành một nước có chỉ số phát triển đầu
người cao nhất thế giới. Chính trị từ khủng hoảng đến ổn định. Những đóng
5
góp của văn minh Trung Quốc cho nhân loại là rất lớn,chúng ta khơng thể phủ
nhận nó.Thực tế đã cho thấy điều đó. Ảnh của nền văn minh Trung Quốc là
rất lớn,trong đó khơng thể ngoại trừ Việt Nam.Việt Nam cần học tập con
người Trung Quốc về sự nhạy bén với thời cuộc,sáng tạo hơn nữa trong các
lĩnh vực. Với những thành tựu đó,ngừơi Trung Quốc hồn tồn có thể ngẩng
cao đầu trên trường quốc tế,ngừơi Trung Quốc có thể tự hào về con ngừơi và
đất nước mình.Trung Quốc xứng đáng để cả thế giới ngưỡng mộ và học tập
nên em chọn đề tài này.
1.2 Giới hạn nội dung, thời gian và không gian
- Giới hạn nội dung nghiên cứu
Trong chủ đề này em tập trung nghiên cứu 3 vấn đề chính:
+ Thành quả cống hiến và giá trị văn hóa văn minh trường tồn của nền văn
minh Trung Hoa cổ đại
+Giá trị khai sáng và ý nghĩa mở đường theo thời gian và lịch sử cụ thể của
nền văn minh Trung Hoa cổ đại
- Thời gian nghiên cứu :
+ Nền văn minh Hy Lạp cổ đại cho đến ngày nay
- Không gian nghiên cứu :
+ Nền văn minh Hy Lạp cổ đại
1.3 Những cơ sở lý thuyết và thực tiễn của chủ đề/đề tài nghiên cứu
1.3.1 Cơ sở lý luận
Văn minh là một loại xã hội phức tạp được đặc trưng bởi sự phát triển đô
thị, sự phân tầng xã hội, một hình thức của chính phủ và các hệ thống giao
tiếp mang tính biểu tưởng như chữ viết.
Các nền văn minh có mối liên hệ mật thiết với nhau và thường được xác
định rõ hơn bởi các đặc điểm kinh tế chính trị - xã hội khác, bao gồm tập
trung hóa, thuần hóa cả con người và các sinh vật khác, chun mơn hóa lao
động, các hệ tư tưởng về tiến bộ và siêu quyền lực được nhúng sâu vào văn
6
hóa, các kiến trúc di tích, đánh thuế, sự phụ thuộc của xã hội vào canh tác và
bành trướng lãnh thổ.
Trong lịch sử, nền văn minh thường được hiểu là một nền văn hóa lớn hơn và
"tiên tiến hơn", trái ngược với các các nền văn hóa nhỏ hơn, được cho là
nguyên thủy. Theo nghĩa rộng này, một nền văn minh tương phản với các xã
hội bộ lạc không tập trung, bao gồm các nền văn hóa của những người theo
chủ nghĩa du mục, xã hội đồ đá mới hoặc những người săn bắt hái lượm,
nhưng đơi khi nó cũng tương phản với các nền văn hóa được tìm thấy trong
chính các nền văn minh. Các nền văn minh được tổ chức tại các khu định cư
đông dân được chia thành các tầng lớp xã hội phân cấp với tầng lớp dân cư đô
thị và nông thôn trực thuộc, tham gia vào nông nghiệp thâm canh, khai thác,
sản xuất và buôn bán quy mô nhỏ.
Nền văn minh tập trung quyền lực, mở
rộng sự kiểm soát của con người đối với phần còn lại của tự nhiên, bao gồm
cả những con người khác. Văn minh, là một khái niệm ban đầu được liên kết
với các thị trấn và thành phố. Sự xuất hiện sớm nhất của các nền văn minh nói
chung gắn liền với giai đoạn cuối của Cách mạng thời đại đồ đá mới, đỉnh cao
là quá trình cách mạng đơ thị và hình thành nhà nước tương đối nhanh chóng,
một sự phát triển chính trị gắn liền với sự xuất hiện của giới cầm quyền.
Trung Hoa là một nước có nhiều nhà khoa học nổi tiếng đóng góp những
thành tựu quan trọng cho nền văn minh phương Đông về triết học, tốn học,
thiên văn học. Những đóng góp đó vẫn còn tồn tại và được sử dụng đến ngày
nay.
1.3.2 Những cơ cở lý luận được vận dụng trong đề tài
Tiểu luận dựa trên các phương pháp cơ bản như phương pháp nghiên cứu
về tổng hợp, phương pháp biện chứng lịch sử: phân tích, tổng hợp, so sánh,
đối chiếu…. từ các số liệu tham khảo, thu thập thông tin cũng như là các cơ
sở lý thuyết dựa vào đề cương tài liệu sách tham khảo, hay từ nguồn thông tin
7
báo đài, truyền thông. Tất cả số liệu đều được chọn lọc và sử dụng một cách
hợp lí và hiệu quả nhất. Nhằm khái quát một cách hiệu quả nhất về nền văn
minh Trung Hoa cổ đại và hiểu thêm được nhiều điều về nền văn minh từ rất
lâu đời.
CHƯƠNG 2 : NỘI DUNG CHÍNH
2.1 Nhận diện những thành tựu của nền văn minh Trung Hoa cổ đại
2.1.1 Niên đại
Nền văn minh Trung Hoa bắt nguồn tại các khu vực thung lũng dọc
theo Hoàng Hà và Trường Giang trong Thời đại đồ đá mới, nhưng cái nôi của
nền văn minh dân tộc của quốc gia Trung Hoa đầu tiên được cho là tại trung
và hạ lưu của sơng Hồng Hà trước tiên (Đồng bằng Hoa Bắc) mà dần mở
rộng và phát triển và duy trì như ngày nay. Với hàng ngàn năm lịch sử tồn tại
và phát triển, đây là một trong những nền văn minh lâu đời, vĩ đại nhất thế
giới.Các văn bản ghi chép lịch sử của Trung Hoa được tìm thấy có niên đại cổ
nhất là từ đời nhà Thương (khoảng 1700-1046 TCN), mặc dù một vài văn bản
khác như Sử ký (khoảng 100 TCN) và Trúc thư kỷ niên khẳng định rằng triều
đại nhà Hạ đã tồn tại trước nhà Thương.Một số phong tục văn hóa, văn họ,
chính trị và cả triết học được phát triển cực kỳ mạnh trong suốt thời kỳ nhà
Chu.
Năm 221 TCN, được coi là năm Trung Quốc bắt đầu thống nhất đi trở
thành một đế chế lớn mạnh, với 1 vị Hoàng đế-Tần Thủy Hoàng cai trị, đánh
dấu sự khởi đầu của đế quốc Trung Hoa. Vào thời kỳ này, Tần Thủy Hoàng
8
cho xây dựng Vạn lý trường thành để bảo vệ đất nước khỏi các tộc người
phương Bắc. Ông cho thống nhất chữ viết, các đơn vị đo lường và tiền tệ.
Trải qua gần 4000 năm năm đế chế (khoảng 2000 TCN – 1912 CN), văn
minh Trung Hoa phát triển rực rỡ, với những thành tựu đáng nể, gồm các phát
minh vĩ đại như giấy, nghề in, la bàn.... Trong thời gian này, có hai nền đế chế
trên tồn Trung Quốc phụ thuộc vào các tộc người ngoại tộc thiểu số, là
người Mông Cổ (nay đã độc lập và tự do khỏi Trung Hoa )lập nên nhà
Nguyên và người Mãn Châu (thuộc Trung Quốc) lập nên nhà Thanh.
2.1.2 Nguồn gốc
Vào năm 5000 TCN, các cộng đồng nông nghiệp đã trải dài khắp trên đa
phần lãnh thổ Trung Quốc hiện nay, và đã có những làng nơng cày từ đồng
bằng sơng Vị chạy về phía đơng, song song với sơng Hồng Hà, bắt nguồn
từ dãy núi Côn Lôn chảy về hướng vùng hồng thổ nơi có cánh rừng trụi lá ở
đồng bằng phía bắc Trung Quốc. Ở đó con người có rừng và có nước để
trồng kê, khoảng năm 5500 TCN họ săn hươu, nai và các loài thú khác, câu cá
làm thức ăn. Họ thuần hóa chó, lợn và gà. Họ đào đất để xây những ngơi nhà
một phịng, với mái bằng đất sét hay rạ, nhiều ngôi nhà ngầm như vậy tạo
thành một làng. Họ đã có guồng quay tơ và biết đan cũng như dệt sợi. Họ
cũng chế tạo đồ gốm có trang trí.
Tình trạng lụt lội của Hồng Hà tồi tệ hơn rất nhiều so với khu vực
dọc Trường Giang về hướng nam. Dọc theo Trường Giang, qua lòng chảo Hồ
Bắc và ở đồng bằng ven biển về hướng vịnh Hàng Châu, việc trồng trọt cũng
đã phát triển, nhưng người dân sống gần Hoàng Hà phải chống chịu với thiên
nhiên khắc nghiệt hơn để chế ngự lũ lụt và tưới tắm mùa màng, và có lẽ điều
này đã kích thích một nỗ lực tổ chức tốt hơn. Ở bất kỳ mức độ nào, đồng bằng
phía bắc Trung Quốc đã trở thành vùng lớn nhất với số dân cư tập trung đông
9
đảo nhất. Nền văn hóa tiền sử hình thành nên Trung Quốc là Văn hóa Hồng
Sơn ở tại Hoa Bắc.
Ở những nơi con người sản xuất ra được nhiều lương thực hơn nhu cầu
của họ, các chiến binh đã được thúc đẩy để khơng chỉ đi cướp đoạt mà cịn để
chinh phục. Và các vị vua chinh phục đã bắt đầu nổi lên ở đồng bằng phía bắc
Trung Quốc cũng như tình trạng ở phía tây châu Á.Xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử Trung Quốc bắt đầu ở đồng bằng phía bắc Trung Quốc đã được
miêu tả là thuộc về nhà Hạ – giai đoạn cai trị của họ được tin rằng đã bắt đầu
khoảng năm 2200 TCN.
Trong thời gian từ năm 1927 đến năm 1937, tại Chu Khẩu Điếm phía tây
nam Bắc Kinh, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã phát hiện được di tích người
vượn Trung Quốc, còn gọi là người vượn Bắc Kinh, với hài cốt đã hóa thạch
và các di tích văn hóa còn tồn tại. Người vượn Trung Quốc là giống người
nguyên thủy Trung Quốc sinh sống hàng 50 đến 60 vạn năm trước đây. Họ có
thể chế tạo và sử dụng đồ đá đơn giản như rìu, búa, cũng biết dùng đồ xương
của người xưa. Những nơi có người vượn Bắc Kinh sinh sống đã phát hiện
được nhiều xương hóa thạch cùng các dụng cụ bằng đá, các nồi chảo đã có
lửa đốt đun, chứng minh họ đã biết dùng lửa. Trong 2 năm 1922 và 1923 đã
phát hiện được người Hà Sáo ở Nội Mông, giống người này gần người hiện
đại hơn, cách đây khoảng 20 vạn năm. Trong 2 năm 1933 và 1934 đã phát
hiện được người Sơn Đỉnh Động ở Chu Khẩu Điếm. Giống người này đã
dùng nhiều đồ đạc chế tạo bằng xương, đồ đá ít. Xã hội ngun thủy thành lập
các cơng xã khơng có bóc lột, khơng có giai cấp, cuộc sống lạc hậu, mơng
muội. Sau đó tới thời kỳ đồ đá, Trung Quốc được khai sáng bởi văn hố
Ngưỡng Thiều.
Về vương quốc thì có một số quốc gia tiêu biểu như : Nhà Hạ, Nhà Thương,
Nhà Chu, Nhà Xuân Thu, Thời Chiến Quốc
10
Về các đế quốc thì có một số đế quốc tiêu biểu : Nhà Tần, Nhà Hán, Nhà Tấn,
Nhà Tùy, Nhà Đường, Nhà Tống, Nhà Nguyên, Nhà Minh, Nhà Thanh.
2.1.3 Địa Lý
Địa lý Trung Quốc kéo dài khoảng 5.026 km
ngang qua theo khối lục địa Đông Á giáp với biển
Đông Trung Hoa, vịnh Triều Tiên, Hồng Hải,
và Biển
Đơng,
giữa Bắc
Triều
Tiên và Việt
Nam trong một hình dạng thay đổi của các đồng
bằng rộng lớn, các sa mạc mênh mông và các dãy núi cao chót vót, bao gồm
các khu vực rộng lớn đất khơng thể ở được. Nửa phía Đơng của quốc gia này
là các vùng duyên hải rìa các đảo là một vùng bình nguyên phì nhiêu, đồi và
núi, các sa mạc và các thảo nguyên và các khu vực cận nhiệt đới. Nửa phía
Tây của Trung Quốc là một vùng các lưu vực chìm trong các cao nguyên,
các khối núi, bao gồm phần cao nguyên cao nhất trên trái đất.
Sự rộng lớn của quốc gia này và sự cằn cỗi của vùng nội địa phía tây kéo
theo những vấn đề quan trọng trong chiến lược phịng thủ. Dù có nhiều bến
cảng tốt dọc theo chiều dài bờ biển khoảng 18000 km nhưng định hướng
truyền thống của đất nước không phải ra biển mà hướng về đất liền, để phát
triển thành một quốc gia hùng mạnh với trung tâm ở Hoa Trung và Hoa Nam,
vươn tới tận vùng đồng bằng bắc Hồng Hà. Trung Quốc cũng có cao ngun
Tây Tạng về phía Nam. Cao nguyên Tây Tạng là một cao nguyên rộng lớn với
cao độ cao. Về phía Bắc của cao nguyên Tây Tạng là các Sa
mạc Gobi và Taklamakan, trải ra từ Cực Tây Bắc về phía Đơng qua Mơng Cổ.
2.1.4 Chính trị - Xã hội
Chính trị Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa diễn ra trong một khuôn khổ bán
tổng thống chế xã hội chủ nghĩa với một hệ thống đơn đảng, là Đảng Cộng
11
sản Trung Quốc. Quyền lực nhà nước tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
(PRC) được thực hiện thông qua Đảng Cộng sản, Quốc vụ viện và các đại
diện cấp tỉnh và địa phương. Đảng Cộng sản Trung Quốc sử dụng thông tin
nội bộ để quản lý và theo dõi những bất đồng nội bộ giữa nhân dân của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa. Tài liệu số 9 đã được Cục Quản lý Tập-Lý lưu hành
trong Đảng Cộng sản Trung Quốc vào năm 2013 để thắt chặt kiểm soát hệ
thống tư tưởng ở Trung Quốc để đảm bảo sự lãnh đạo tối cao của Nhà nước
Cộng sản mà không bị thách thức bởi các ảnh hưởng của phương Tây. Vị
trí Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa, phục vụ với tư cách
đứng đầu nghi lễ của Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc. Thủ tướng Quốc
vụ viện Trung Quốc là người đứng đầu chính phủ, chủ trì Quốc vụ viện bao
gồm bốn Phó Tổng lý và người đứng đầu các bộ, ngành. Do là hệ thống đơn
đảng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm giữ quyền lực và quyền
hạn tối cao đối với nhà nước và chính phủ. Các vị trí Chủ tịch nước, Tổng Bí
thư, và Chủ tịch Quân ủy Trung ương đã được trao cho một cá nhân duy nhất
kể từ năm 1993, cho phép cá nhân này nắm quyền trên luật pháp và thực tế
trên cả nước.Dân số lớn của Trung Quốc, sự khổng lồ về mặt địa lý và sự đa
dạng xã hội đã hạn chế nỗ lực cai trị của Bắc Kinh. Cải cách kinh tế trong
những năm 1980 và sự giảm bớt quá trình ra quyết định từ chính quyền trung
ương, kết hợp với sự quan tâm mạnh mẽ của các quan chức Đảng Cộng sản
đối với việc làm giàu cho chính họ, đã làm cho chính quyền trung ương ngày
càng khó khăn để khẳng định quyền lực của mình . Quyền lực chính trị đã trở
nên ít có tính cá nhân hơn và có tính thể chế hơn so với giai đoạn 40 năm đầu
của CHNDTH. Ví dụ, Đặng Tiểu Bình chưa bao giờ là Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước, hoặc Thủ tướng Trung Quốc, nhưng là
lãnh đạo của Trung Quốc trong một thập kỷ. Ngày nay, thẩm quyền của các
nhà lãnh đạo Trung Quốc gắn liền với địa bàn cơ sở của họ nhiều hơn. Vụ
việc của các Nhà xuất bản Missing Booksellers ở Hồng Kông đã báo động
cho công chúng rằng cuộc đối đầu chính trị của các cán bộ chính trị khác nhau
12
ở cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn là chủ đề chính của chính trị
Trung Quốc.
Xã Hội Trung Quốc phần lớn thời gian hơn 2.000 năm lịch sử, kinh tế
Trung Quốc luôn được xem là một trong những nền kinh tế lớn và phức tạp
nhất trên thế giới, với những lúc thì hưng thịnh, khi thì suy thối. Kể từ khi
tiến hành cuộc cải cách kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc đã trở thành một
trong các nền kinh kế lớn có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Năm 2019, quy
mô nền kinh tế Trung Quốc với hơn 1,4 tỷ dân đạt mức 27,8 nghìn tỷ USD đứng số một thế giới tính theo sức mua tương đương (PPP), GDP danh nghĩa
thực tế đạt mức 14,1 nghìn tỷ USD, đứng vị trí thứ 2 sau Hoa Kỳ, thu nhập
bình quân đầu người đạt mức 10,098 nghìn USD/người - xếp hạng 65 toàn
cầu. Trung Quốc là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và có qn đội thường
trực lớn nhất thế giới, với ngân sách quốc phòng lớn thứ nhì. Cộng hịa Nhân
dân Trung Hoa trở thành một thành viên của Liên Hiệp Quốc từ năm 1971,
khi chính thể này thay thế Trung Hoa Dân quốc trong vị thế thành viên
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc cũng là thành
viên của một số tổ chức đa phương chính thức và phi chính thức, trong đó
có WTO, APEC, BRICS, SCO và G-20. Trung Quốc là một cường quốc và
một số học giả nhận định đây là một trong những siêu cường tiềm năng trên
thế giới.Trung Quốc đang có mục tiêu trở thành một siêu cường có thể cạnh
tranh với Mỹ trên mọi mặt kinh tế, chính trị, qn sự, văn hóa; thậm chí đặt
tham vọng thay thế Mỹ để trở thành siêu cường số một thế giới, mặc dù mục
tiêu này không dễ đạt được cũng như bản thân Trung Quốc hiện vẫn là
một nước công nghiệp mới đang phát triển.
Hiện nay, mặc dù đạt được những thành tựu kinh tế ấn tượng, Trung Quốc
cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề, thách thức lớn cả ở trong lẫn ngồi
nước nhaư tình trạng ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng thu nhập, chênh lệch
mức sống giữa thành thị và nông thôn, tham nhũng, phong trào ly khai ở Tân
13
Cương, Tây Tạng và Hồng Kông, cùng với các lệnh trừng phạt cấm
vận thương mại và cơng nghệ từ phía Hoa Kỳ.
2.1.5 Tôn Giáo
Tôn giáo tại Trung Hoa từ lâu đã là một cái nôi và chủ nhà của một loạt
các tôn giáo lâu đời nhất, truyền thống triết học của thế giới. Nho giáo và Đạo
giáo, sau đó được Phật giáo gia nhập, tạo thành "tam giáo" đã định hình Trung
Hoa. Khơng có ranh giới rõ ràng giữa các hệ thống tôn giáo đan xen này,
chúng không tuyên bố là độc quyền, và các yếu tố của mỗi tôn giáo phổ biến
hoặc Tơn giáo dân gian Trung Hoa. Hồng đế Trung Hoa đã tuyên bố Thiên
mệnh và tham gia các hoạt động tôn giáo của Trung Hoa.
Đầu thế kỷ 20, các quan chức và trí thức có đầu óc cải cách đã tấn công tất
cả các tôn giáo là "mê tín", và kể từ năm 1949, Trung Hoa đã bị Đảng Cộng
sản Trung Quốc cai trị, một tổ chức vô thần cấm các đảng viên thực hành tôn
giáo khi còn đương chức. Trong đỉnh điểm của một loạt các chiến dịch chống
lại các tôn giáo đã được tiến hành từ cuối thế kỷ 19, Cách mạng Văn
hóa chống lại các thói quen, tư tưởng, phong tục và văn hóa cũ, kéo dài từ
năm 1966 đến 1967, đã phá hủy hoặc buộc chúng chuyển sang hoạt động
ngầm. Chính phủ chỉ chính thức cơng nhận năm tơn giáo: Phật giáo, Đạo
giáo, Hồi giáo, Tin lành và Công giáo (mặc dù Giáo hội Công giáo Trung
Quốc độc lập với Giáo hội Công giáo ở Rome). Vào đầu thế kỷ 21, ngày càng
có sự cơng nhận chính thức của Nho giáo và tơn giáo dân gian Trung Quốc
như là một phần của sự kế thừa văn hóa của Trung Hoa. Dân gian hay tơn
giáo phổ biến, hệ thống tín ngưỡng và thực hành phổ biến nhất, đã phát triển
và thích nghi kể từ ít nhất là các triều đại Nhà Thương và Chu trong thiên niên
kỷ thứ hai trước công nguyên. Các yếu tố cơ bản của một giải thích thần học
và tâm linh cho bản chất của vũ trụ đã trở lại thời kỳ này và được xây dựng
thêm trong Thời kỳ Axial. Về cơ bản, tôn giáo Trung Hoa liên quan đến lòng
14
trung thành với shen, thường được dịch là "linh hồn", định nghĩa một loạt các
vị thần và bất tử. Đây có thể là những vị thần của mơi trường tự nhiên hoặc
nguyên tắc tổ tiên của các nhóm người, khái niệm về văn minh, anh hùng văn
hóa, nhiều người trong số họ đặc trưng trong dân gian và lịch sử Trung Quốc.
Triết học Nho giáo và thực hành tôn giáo bắt đầu sự tiến hóa lâu dài của họ
trong thời Chu sau này; Đạo giáo thể chế hóa tơn giáo do nhà Hán phát
triển; Phật giáo Trung Quốc trở nên phổ biến rộng rãi bởi triều đại nhà
Đường, và để đáp lại các nhà tư tưởng Nho giáo đã phát triển các triết lý Nho
giáo, và các phong trào phổ biến của sự cứu rỗi và các giáo phái địa phương
phát triển mạnh. Kitô giáo và Hồi giáo đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ 7. Kitô
giáo đã không bén rễ tại Trung Hoa cho đến khi nó được giới thiệu lại vào thế
kỷ 16 nhờ các nhà truyền giáo Dịng Tên. Vào đầu thế kỷ 20, các cộng đồng
Kitơ giáo đã phát triển, nhưng sau năm 1949, các nhà truyền giáo nước ngoài
đã bị trục xuất, và các nhà thờ được đưa vào dưới các thể chế do chính phủ
kiểm soát. Sau cuối những năm 1970, các quyền tự do tôn giáo cho các Kitô
hữu được cải thiện và các nhóm tơn giáo Trung Hoa mới xuất hiện: Trung
Hoa cũng thường được coi là ngôi nhà của chủ nghĩa nhân văn và thế tục, tư
tưởng thế giới này bắt đầu từ thời Khổng Tử.
Bởi vì nhiều người, có lẽ hầu hết, người Hán không coi niềm tin và thực hành
tâm linh của họ là một "tôn giáo" và trong mọi trường hợp không cảm thấy
rằng họ phải thực hành bất kỳ một trong số họ, rất khó để thu thập số liệu
thống kê rõ ràng và đáng tin cậy. Theo ý kiến học thuật, "đại đa số dân số hơn
1,4 tỷ người Trung Hoa" tham gia vào tôn giáo vũ trụ học Trung Quốc, các
nghi lễ và lễ hội của lịch âm, không thuộc bất kỳ giáo lý thể chế nào. Các
cuộc điều tra quốc gia được thực hiện vào đầu thế kỷ 21 ước tính rằng khoảng
80% dân số Trung Hoa hơn một tỷ người, thực hành một số loại tôn giáo dân
gian hoặc Đạo giáo của Trung Hoa : 10 đạo; 16% là Phật giáo; 2 đạo 3%
là Kitô giáo; và 1 đạo; 2% là Hồi giáo. Các phong trào tôn giáo dân gian của
15
sự cứu rỗi tạo thành 2 từ 3% đến 13% dân số, trong khi nhiều người trong
tầng lớp trí thức tuân thủ Nho giáo như một bản sắc tôn giáo. Ngồi ra, các
nhóm dân tộc thiểu số thực hành các tôn giáo đặc biệt, bao gồm Phật giáo Tây
Tạng và Hồi giáo giữa các dân tộc như Hồi và Duy Ngô Nhĩ.
Về Triết Học Trung Hoa
Khổng phu tử hoặc Khổng Tử ( là
danh hiệu tơn kính của hậu thế
cho Khổng Khâu 28 tháng 9, 551
TCN - 11
tháng
4,
479
TCN)
tự Trọng Ni. Ông được suy tôn là nhà
khai
sáng Nho
giáo,
đồng
thời
là giảng sư và triết gia lỗi lạc bậc nhất
cõi Á ĐôngKhổng Tử cùng với Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni (563 - 483
TCN) được coi là 2 nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất tới Văn hóa Á Đơng,
và có một sự trùng hợp là 2 người đã sống trong cùng một thời kỳ lịch sử.
Trí tuệ và cơng đức của Khổng Tử được đúc kết trong mỹ tự Vạn thế sư biểu
(Bậc thầy của mn đời sau) hoặc Đại thành chí thánh tiên sư, hay như có thơ
rằng Thiên bất sinh Trọng Ni, vạn cổ như trường dạ, tạm dịch: Trời không
sinh Trọng Ni, muôn đời như đêm dài).Con cháu Khổng Tử kế thừa truyền
thống gia phong, luôn ghi nhớ lời dạy về cội nguồn gia tộc, thế hệ nào cũng
ghi chép gia phả để thể hiện niềm tự hào về công lao của tổ tiên. Năm 2005,
dòng họ Khổng Tử được Sách Kỷ lục Guinness ghi nhận là gia tộc có bộ gia
phả lâu dài nhất trong lịch sử thế giới, với 86 thế hệ con cháu được ghi chép
lại đầy đủ, trải dài trên 2.500 năm. Bộ gia phả không chỉ có giá trị to lớn với
con cháu Khổng Tử, mà cịn là tư liệu q để tìm hiểu về lịch sử Trung Quốc
trong 2.500 năm qua.
16
Triết học Trung Hoa qua các thời kỳ :
Nhà Hạ, Thương và Tây Chu
Theo các nhà sử học, nhà Hạ ra đời khoảng 2100 năm trước Công nguyên.
Đây là nhà nước đầu tiên vào thời kỳ xã hội cổ đại ở Trung Hoa. Người Hạ đã
biết chế tạo, sử dụng những cơng cụ, vũ khí bằng đồng và có dấu hiệu xuất
hiện văn tự. Tín ngưỡng thờ linh vật phổ biến ở thời kỳ này.
Khoảng nữa đầu thế kỷ XVII trước Công nguyên, Thành Thang - người đứng
đầu bộ tộc Thương đã lật đổ vua Kiệt nhà Hạ, lập nên nhà Thương đặt đô ở
đất Bạc (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Đến thế kỷ XIV trước Công nguyên,
Bàn Canh dời đô về đất Ân (thuộc huyện An Dương, Hà Nam ngày nay). Vì
vậy nhà Thương cịn gọi là nhà Ân. Vào thời nhà Thương, trình độ sản xuất
cịn thấp, cơng cụ sản xuất cịn thơ sơ (đồ sắt chưa phổ biến). Về văn hoá đã
phát minh ra chữ viết, đã quan sát được sự vận hành của Mặt Trăng, các vì
sao, tính chu kỳ lên xuống của nước sơng, làm ra âm lịch, lịch mùa dựa trên
"can" và "chi". Về tư tưởng, con người ở thời nhà Thương đã bước vào giai
đoạn thờ tổ tiên thay cho tín ngưỡng Tơ tem giáo. Con người đã nhận thức
được tính quy luật của một số hiện tượng tự nhiên từ đó sau này sẽ phát triển
thành các quan điểm triết học.
Khoảng thế kỷ XI trước Công nguyên, Chu Vũ Vương – con trai Chu Văn
Vương đã diệt vua Trụ nhà Thương, lập nên nhà Chu, đóng đơ ở Thiểm Tây
ngày nay, phía tây nước Chu, gọi là Tây Chu, đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa
lên đỉnh cao. Nhà Chu thực hiện chế độ quốc hữu về tư liệu sản xuất (ruộng
đất) và sức lao động. Về nguyên tắc, ruộng đất và mọi thành viên đều thuộc
quyền quản lý của vua nhà Chu. Trong xã hội có sự phân chia thành hai hạng
người, đó là quân tử (quý tộc) và tiểu nhân (thường dân). Đã xuất hiện sự
phân công lao động và hình thành các giai cấp nhưng chưa triệt để. Về tư
tưởng có sự gắn chặt giữa thần quyền và thế quyền.
17
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc
Thời Xuân Thu từ khoảng năm 770 đến năm 475 trước Công nguyên. Đây là
thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, cịn
gọi là thời Đơng Chu, do Chu Bình Vương dời đơ về phía Đơng tại Lạc
Dương (Hà Nam ngày nay). Thời Chiến Quốc từ năm 475 đến năm 221 trước
Công nguyên.
Trong thời kỳ này đồ sắt phát triển khá phổ biến, kỹ thuật canh tác phát triển.
Nền sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sự
phân công lao động và chun mơn hố sản xuất ngày càng cao. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất, của kinh tế đã có tác động mạnh đến hình thức sở hữu
ruộng đất, kết cấu và địa vị kinh tế của các giai tầng trong xã hội. Thời Xuân
Thu, mệnh lệnh của Thiên tử nhà Chu khơng cịn được tn thủ, trật tự lễ
nghĩa, kỷ cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Sự tranh giành địa vị xã
hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến
tranh khốc liệt liên miên. Đây chính là thời kỳ lịch sử mà chế độ thị tộc nhà
Chu tan rã, hình thành xã hội phong kiến; nhà nước quý tộc cha truyền con
nối bị thay thế bởi nhà nước phong kiến với sự nổi lên của kẻ sĩ, lực lượng
sản xuất được giải phóng mở đường cho xã hội phát triển. Sự biến chuyển sơi
động đó của thời đại làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm là nơi các
kẻ sĩ tụ tập để tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của một
xã hội tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ "Bách gia chư tử", "Bách
gia tranh minh". Chính trong q trình ấy đã sản sinh các tư tưởng lớn và hình
thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh.
Đây là thời kỳ triết học Trung Hoa phát triển mạnh nhất, tạo ra những triết
thuyết làm nền tảng cho toàn bộ nền triết học này. Sự phát triển của triết học
Trung Hoa ở các thời kỳ sau là sự phát triển những học thuyết triết học được
sinh ra ở thời kỳ này. Nền triết học nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Trong tư
18
tưởng triết học Trung Hoa cổ, trung đại, tư tưởng triết học liên quan đến con
người như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học
lịch sử... phát triển cịn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt. Các triết gia Trung
Hoa đều tập trung vào lĩnh vực luân lý đạo đức, xem việc thực hành đạo đức
như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ
nhất của sinh hoạt xã hội. Triết học nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa tự
nhiên và xã hội, giữa các giai cấp và các cá nhân trong xã hội; sự hài hoà,
thống nhất giữa các mặt đối lập; coi trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ
tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà các mâu thuẫn là mục tiêu cuối
cùng để giải quyết các vấn đề.
Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy triết học cổ, trung đại Trung Hoa là
nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Cảm nhận
tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật ăn khớp,
khơi vậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó mà nắm bản
thể trừu tượng. Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của
cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, "lấy tâm để bao quát vật". Triết học
Trung Quốc cũng rất chú trọng đến vấn đề bản tính con người. Từ quan điểm
về bản tính con người, các triết gia đi đến các phương pháp cai trị xã hội khác
nhau
2.1.6 Chữ Viết
Cũng giống như các quốc gia khác, ban đầu
phương tiện giao tiếp chủ yếu để biểu đạt
tình cảm, truyền đạt tin tức, trao đổi kiến
thức và kinh nghiệm của người Trung
Quốc
cổ xưa là cách truyền miệng vào các thời
trước thời Hoàng Đế. Đến thời Hoàng Đế người ta đã kết dây thừng (thắt
dây), tức là dùng dây thắt nút để ghi nhớ điều gì đó. Việc lớn thì thắt nút lớn,
19
việc nhỏ thì thắt nút nhỏ. Đây là một phương pháp sơ khai để ghi nhớ sự việc
mà không chỉ người Trung Quốc biết làm.
Khoảng thiên nhiên kỉ II tr.cn, người Ân Thương đã có chữ viết, đó là văn tự
giáp cốt.Giáp là mai rùa, cốt là xương thú, giáp cốt văn tự là khắc trên mai rùa
hoặc xương thú. Giáp cốt văn có niên đại sớm nhất tìm được là thuộc triều Võ
Đinh ( khoảng 1324 – 1266 TCN ); tài liệu này cịn có tên là giáp cốt văn Ân
Khư vì đào được ở Ân Khư. Chữ trên giáp cốt là loại chữ tượng hình nhưng
dần do yêu cầu ghi chép các động tác và các khái niệm trừu tượng, trên cơ sỡ
chữ tượng hình đã phát triển thành hai loại chữ biểu ý ( thể hiện ý ) và hài
thanh ( mượn âm thanh). Tổng số chữ viết trên văn tự giáp cốt có tới 5000
chữ, có những đoạn văn dài đến hơn 100 chữ. Đến thời Tây Chu số lượng chữ
càng nhiều và cách viết càng đơn giản. Chữ viết tiêu biểu thời kì này là kim
văn, cũng gọi là chung đỉnh văn ( chữ viết trên chuông đỉnh ). Các chữ viết
đầu tiên này được gọi chung là chữ đại triện, cũng gọi là cổ văn. Thời Xuân
Thu Chiến Quốc do đất nước không thống nhất nên chữ viết cũng không
thống nhất.
Đến thời Tần, Lý Tư đã dựa vào chữ nước Tần kết hợp với các thứ chữ
của các nước khác, cải tiến cách viết tạo thành một loại chữ thống nhất được
gọi là chữ tiểu triện.
Từ cuối thời Tần Thủy Hoàng ( 221 – 206 TCN ) đến thời Hán Tuyên đế
(73 -49 TCN ), lại xuất hiện một kiểu chữ mới gọi là chữ lệ. Chữ lệ khác chữ
triện ở chỗ chữ triện cịn giữ lại nhiều yếu tố tượng hình, do đó có nhiều nét
cong nét trịn, cịn chữ lệ thì biến những nét đó thành ngang bằng sổ thẳng
vng vức ngay ngắn. Thời gian sử dụng chữ lệ tuy không lâu nhưng chữ lệ
có ý nghĩa rất quan trọng vì đó là giai đoạn quá độ để phát triển thành chữ
chân tức là chữ Hán ngày nay.
Chữ Hán đã nhiều lần cải tiến từ chữ tượng hình thành chữ phù hiệu làm
nó thốt li đồ họa thành văn tự, từ nét không đều hoặc cong queo thành nét
20
đều trịn, từ hình chữ khơng có định thành cố định, từ kết cấu phức tạp thành
đơn giản. Không chỉ dừng lại ở đó, do xuất phát từ yêu cầu tìm tịi nghệ thuật
mà chữ hán đã trở thành một mĩ thuật biểu cảm dân tộc, thể hiện tâm tư và
nguyện vọng của con người, có tác dụng thẩm mỉ và giá trị mĩ học cao.Thư
pháp Trung Quốc thật sự thu hút sự chú ý của loài người. Chữ Trung Quốc đã
có lúc trở thành “ Quốc gia văn tự” đối với các nước Đông Á và Việt Nam. Ra
đời từ thiên nhiên kỉ thứ II TCN, chữ viết Trung Quốc là hệ chữ duy nhất .
2.1.7 Văn Học
Văn học là lĩnh vực phát
triển từ rất sớm ở Trung
Quốc,Trung Quốc có một
nền văn học rất phong phú.
Từ thời Xuân Thu Chiến
Quốc , văn học Trung Quốc đã bắt đầu phát triển. Đến thời Tây Hán tư tưởng
Nho gia được đề cao. Đến thời Tùy Đường chế độ khoa cử bắt đầu ra đời,
trong đó văn chương trở thành thước đo chủ yếu của tài năng; do đó văn học
Trung Quốc càng có nhiều thành tựu lớn lao. Văn học Trung Quốc thời kì này
có nhiều thể loại như thơ ,từ, phú, kịch, tiểu thuyết,….trong đó tiêu biểu nhất
là kinh thi thơ Đường và tiểu thuyết Minh Thanh.
a/ Kinh thi
Kinh thi là tập thơ cổ nhất của Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác từ
những năm đầu Tây Chu đến giữa Xuân Thu ( khoảng 500). Với 305 bài Kinh
thi chia làm ba phần : Phong, Nhã, Tụng.
- Phong là dân ca các nước ( gồm 15 nước) nên gọi là Quốc Phong
- Nhã là âm nhạc vùng vương triều nhà Chu trực tiếp thống trị gồm đại
Nhã( phản ánh sinh hoạt của quý tộc), Tiểu Nhã ( phản ánh sinh hoạt của các
tiểu quý tộc) .
- Tụng là loại thơ ca tán tụng công đức của các ông vua thường dùng trong tế
tự ở trong miếu như Thượng Tụng, Chu Tụng ,Lỗ Tụng. Quốc Phong chiếm
21
một nữa số bài trong Kinh thi, cũng là phần có giá trị nhất vì nội dung của nó
mang đậm tính nhân văn và tính hiện thực sâu sắc. Kinh Thi chủ yếu tứ ngơn,
phần lớn mang hình thức “ trùng chương điệp cú”, ngôn ngữ chất phát, cách
điệu mới mẻ, mà hậu thế khái quát thủ pháp biểu hiện trong Kinh thi thành,
Phú, Tỷ, Hứng. Kinh thi đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến văn học Trung Quốc
sau này.
b/ Thơ Đường
Thơ Đường là đỉnh cao của nền thư ca Trung Quốc. Hàng ngàn năm đã
trôi qua nhưng đến nay những bài thơ Dường vẫn làm say mê long người bởi
những nội dung và giá trị tuyệt vời của chúng . Trong núi thơ thời Đường
ngày ấy, nay người ta còn giữ lại được khoảng 48000 bài thơ của trên 2300
tác giả, tiêu biểu nhất là Lý Đường, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
Lý Bạch (701-762) tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên
cư sĩ, quê Miên Châu (Tứ Xuyên), 12 tuổi đã làm
thơ, học rộng, biết nhiều lại giỏi về kiếm thuật.
Ông từng được Đường Huyền Tông trọng dụng,
làm Hàn lâm cung phụng, nhưng chán cảnh luồn
cúi, ưa phóng khống nên đã từ quan bỏ đi chu du khắp nơi. Lý Bạch là nhà
thơ lãng mạn vĩ đại sau Khuất Nguyên. Thơ ông tập trung miêu tả vẻ đẹp của
thiên nhiên, thắm đượm tình yêu đất nước, yêu nhân dân sâu sắc, đồng thời
cũng thể hiện tính cao ngạo, coi thường quyền quý, lớn tiếng đã kích các thế
lực phong kiến đen
tối,….Nhưng bên cạnh những áng thơ kinh điển, ơng cũng có những bài thơ “
đắm mình “ trong rượi và thốt tục du tiên. Dặc điểm nghệ thuật : thơ Lý
Bạch đẹp, hào hùng, bút thế linh hoạt. Ông đã lại trên 1200 bài thơ, tiêu biểu
nhất là bài : Hàn Lộ Nan, Xa Ngắm Thác Núi Lư, Mộng Du Thiên Mu Ngâm
Lưu Biệt,….
Đỗ Phủ (712-770) tự Tử Mỹ, hiệu Thiếu Lăng Dã Lão, tổ tiên người
Tương Dương ( Hồ Bắc). Ông sinh ra ở huyện Cũng( Hà Nam) trong một gia
22
đình quan lại nhỏ sa sút. Ơng đi thi nhiều lần nhưng
không đỗ, 40 tuổi mới làm chức quan nhỏ trong 7
năm. Ông sống trong thời đại mà xã hội thời Đường đi
từ thịnh đến suy. Thơ Đỗ Phủ phản ánh chân thực các
mặt đời sống trước và sau loạn An Sử, chan chứa lịng
u thương tổ quốc và tình cảm nồng hậu với nhân
dân. Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại trong lịch sữ
văn học Trung Quốc. Bên cạnh nội dung tư tưởng sâu
sắc, là
nghệ thuật biểu hiện siêu phàm, ảnh hưởng rất lớn nđến sự phát triển thơ ca
sau này. Trong số 1400 bài thơ truyền đời của ông, tiêu biểu nhất là các tác
phẩm : Phó Phụng Tiên huyện Vinh Hồi, Ngũ bách tự, Bắc chinh, Thạch Hào
lại (Viên lại ở Thạch Hào)…
Lý Bạch và Đỗ Phủ được ví như hai ngơi sao sáng chói trên thi đàn cổ
điển Trung Quốc.
Bạch Cư Dị (772-846) tự Lạc Thiên, quê Hạ Khuê
(Thiểm Tây), xuất thân trong một gia đình quan lại,
đậu tiến sĩ làm quan to trong triều, sau bị giáng
chức xuống làm Tư Mã Giang Châu. Ông là người
đề xướng dùng thể tân nhạc để viết những đề tài
mới về thời sự. Bạch Cư Dị chủ trương thơ ca phải
phản ánh nổi thống khổ của nhân dân, đồng thời
vạch trần cuộc sống hoang dâm và nền chính tị lừa
bịp của giai cấp thống tri…Số lượng thơ ông khá nhiều: 2800 bài, tiêu biểu là
các bài
Mại tháng ông, Khinh phì , Thượng Dương bạch phát nhân. Đỉnh cao của thơ
Bạch Cư Dị là hai bài Trường hận ca và Tùy bà hành.
c/ Tiểu thuyết thời Minh, Thanh.
23
Thời Minh, Thanh đả ra đời một loạt những tiểu thuyết tiếng tăm bất hủ.
Dựa vào các câu chuyện lưu truyền trong dân gian, các nhà văn đã viết thành
tiểu thuyết chương hồi
phong phú về nội dung
và hình thức. Thời Minh
tiêu biểu nhất là bộ Tam
quốc chí diễn nghĩa, Thủy
Hử và Tây du kí. Bộ ba
tiểu thuyết này trở thành di sản quý báu trong nền văn học Trung Quốc và
trong kho tàng văn học thế giới.
Tam quốc chí diễn nghĩa do La Quán Trung tiếp thu từ truyền thuyết dân
gian,rồi căn cứ vào sự thật lịch sử, gia công chỉnh lý mà viết thành sách. Mặc
dù có hư cấu nhưng cốt truyện phù hợp với lịch sử và hợp tình, hợp lý, đậm
đà tính nghệ thuật chân thực. Sách kể lại lịch sử từ năm 184 đến 280 sau CN,
khắc họa cuộc đấu tranh giữa 3 nước Ngụy, Thục, Ngô, phơi bày xã hội đen
tối mục nát và nổi khốn khổ của nhân dân thời loạn lạc.
Thủy Hử là bộ trường thiên tiểu thuyết được Thi Nại Am căn cứ vào sử
liêu Bắc Tống cùng với những tình tiết sinh động của các thoại bản và tạp
kịch kể về 108 người trong nhóm Tống Gian đầu đời nguyên mà viết thành
truyện. Thủy hử kể lại cuộc khởi nghĩa của nông dân ở Lương Sơn Bạc dưới
sự lãnh đạo của Tống Gian. Tư tưởng cơ bản trong tác phẩm là tư tưởng “
trung nghĩa” phong kiến… Thành công lớn nhât là tác giả đã sáng tạo ra được
nhiều hình tượng anh hùng nông dân tiêu biểu như Tống
Gian, Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm… sống mãi trong lịng nhân Trung Quốc.
Tây du kí do Ngơ Thừa Ân sáng tác, miêu tả 81 hồi gian truân mà thầy trò
Đường Tăng đã trải qua và chiến thắng. Toàn bộ tác phẩm bậc lên tinh thần
lãng mạn, tính châm biếm hài hước và tính chất chống phong kiến.
24
Từ đầu nhà Thanh đến những năm cuối đời vua Càn Long là thời kì tiểu
thuyết cực thịnh. Tiêu biểu có các tác phẩm Liêu trai chí dị, Thủy Hử hậu
truyện, Tỉnh thế nhân duyên truyện, Nho lâm ngoại sử, Hồng lâu mộng.
Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640-1715) là tập đỗn thiên tiểu thuyết có
490 truyện chia làm 4 loại…Tác giả đã mượn chuyện Hồ Ly Ma Qi để chỉ
khơng khí hiện thực hắc ám đương thời, bày tỏ tình nhân thế thái. Tác phẩm
này đạt đỉnh cao của đoản thiên tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc .
Nho lâm ngoại sử của Ngơ Kính Tử (1705-1754) là bộ tiểu thuyết châm
biếm nhằm đã kích nền luân lý phong kiến thời cổ và chế độ khoa cử thời đó .
Hồng lâu mộng do Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc sáng tác đã miêu tả cảnh
hưng suy của một gia đình phong kiến và chun tình của đơi nam nữ Giả
Bảo NgọcLâm Đại Ngọc. Tác phẩm khắc họa rõ nết bộ mặt phong kiến Trung
Quốc mạc kì, phê phán chế độ thi cử, quan trường và lễ giáo phong kiến, nêu
khác vọng tự do…Nó có tác dụng chống lại ý thức hệ phong kiến. Hồng lâu
mộng là tiểu thuyết có giá trị, xứng đáng là một kiệt tác của nhân loại.
2.1.8 Sử Học
Một trong những đặt điểm của văn hóa cổ đại Trung Hoa là sử học rất
phát triển. Đây là một lĩnh vực đạt nhiều thành tựu to lớn. Dân tộc Trung Hoa
có ý thức cao về lịch sử và rất giàu kinh nghiệm trong biên soạn lịch sử. Chế
độ sử quan chưa hề gián đoạn, ghi chép lịch sử liên tục, phong phú về hình
thức, đa dạng về thể loại. Từ thời Tây Hán, sử học trở thành một lĩnh vực độc
lập và càng ngày càng phát triển. Người đặt nền móng cho sử học Trung Quốc
là Tư Mã Thiên. Sau đây xin điểm qua
một số tác phẩm tiêu biểu nhất.
Sử ký của Mã Tư Thiên là bộ thơng sử theo kiểu bất khoa tồn thư trải suốt
3000 năm lịch sử từ thời Hoàng Đế đến Hán Vũ Đế, gồm 5265000 nghìn chữ
chia làm 13 chương với 5 thể loại phối hợp và bổ sung cho nhau ( 12 bản kỉ,
10 biểu, 8 thư, 30 thế gia, 70 liệt truyện). Sử ký đề cập đến các mặt chính trị,
kinh tế, quân sự, chế độ điển chương, học thuật, văn hóa, y dược, bói tốn,
25
hoạt động của mọi nhân vật thuộc mọi tầng lớp xã hội, thiên văn, địa lí, cơng
trình đê điều, quan hệ giữa các dân tộc, quan hệ giao lưu với các nước
ngoài…, đồng thời phê phán thuyết thiên
phân hợp nhất, âm dương ngũ hành, đề xướng nhân nghĩa, chống bạo lực,
ghét chiến tranh, coi trọng hoạt động sản xuất…, Tư Mã Thiên là người đầu
tiên trong các sử gia trên thế giới ghi chép lịch sử bằng thể ký. Sử ký đã để lại
cho đời sau những tư liệu lịch sử hết sức có giá trị, đồng thời cũng là một kiệt
tác văn học được Lỗ Tấn ca ngợi là: “ lời hát tuyệt vời của các sử gia, thiên Li
Tao không vần”. Sử ký của Tư Mã Thiên được xếp vào những tác phẩm đồ sộ
nhất thế giới.
Hán thư, mở đầu cho cách viết sử chia theo thời đại. Hán thư gồm 12 bản kỉ, 8
biểu, 10 chí, 70 liệt truyện ghi chép những sự kiện xảy ra từ những năm đầu
Hán Cao Tổ ( 260 TCN) đến năm thứ tư – Vương Mãng (năm 23 SCN) theo
thể loại truyện ký. 10 chí của Hán thư so với 8 thư của sử ký thì hồn hảo và
sáng tạo hơn…, nhưng do nhãn quan chính trị của Ban Cố nên Hán thư trỏ
thành một tác phẩm sử học chính thống ủng hộ nền thống trị phong kiến, phê
phán tư tưởng chống đối của Tư Mã Thiên.
Từ đời Hán đến Nam Bắc Triều,ngồi Hán thư cịn có Tam quốc chí của Trần
Thọ, hậu Hán thư của Phạm Diệp. Sau đó, Tùy Văn Đế,Đường Thái Tông,lập
cơ quan biên soạn lịch sử của nhà nước gọi là “ Sử quán” do tể tướng và đại
thần phụ trách .Các chức sử quan được lập chuyên lo việc soạn thảo lịch sử.
Từ đó, nhiều bộ sử như: Tấn thư, Lương thư,Trần thư, Bắc Tề thư, Chu thư,
Tùy thư, Nam sử, Bắc sử… ra đời. Sau này, cịn quy định về quyền soạn
chính sử, theo đó chỉ nhà vua mới có quyền cử người soạn chính sử, tể tướng
giám định, tư nhân không được viết sử
như trước nữa. Trong 15 bộ chính sử được biên soạn có Tùy thư, Tân Đường
thư, Kim sử được đánh giá cao.
Nhưng bộ sử có ảnh hưởng đời sau nhất là bộ Tư trị thông giám của Tư Mã
Quang . Tư Mã Quang ( 1019-1086) đã để ra 19 năm trời để soạn bộ thông sử