TÂY TIẾN ĐOẠN 1
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành cơng nhất là thơ. Ơng là nhà thơ
nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu
chất nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của "Xứ Đoài mây trắng" với những tác phẩm nổi tiếng như: " Mây đầu
ô", "Thơ văn Quang Dũng"...Trong đó tiêu biểu là bài thơ "Tây Tiến". Bài thơ khơng chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về
đồn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên
miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi...
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Bài thơ "Tây Tiến" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có
nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến
phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc
quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa
bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là "Tây Tiến". Mở đầu
bài thơ bằng những dòng thơ chan chứa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"
Dịng sơng Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài
tình khi sử dụng từ láy "chơi vơi" kết hợp với hiệp vần "ơi" mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả
tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong lịng người ra đi nhưng cảm xúc rất chân thực của
một người đồng đội đã rời xa đơn vị để rồi nỗi nhớ như choán đầy cả không gian " Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi". Câu
thơ có bảy từ thì có hai từ "nhớ". Điệp từ "nhớ" như tơ đậm cảm xúc tồn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề
ban đầu của bài thơ tác giả đặt là " Nhớ Tây Tiến". Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ
hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của
mình, tất cả trở thành kỉ niệm khơng thể nào quên. Không phải khi đến với "Tây Tiến" người đọc mới cảm nhận được nỗi
nhớ mà ngay ở trong thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than"
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ "chơi vơi" là trạng thái trơ trọi giữa khoảng khơng,
khơng thể bấu víu vào đâu, một mình với hồi niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lịng người đọc
khơng thể nào qn. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian và thời gian ấy Quang Dũng đã đưa người đọc đến với
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng. Đó là những địa danh mà đồn qn Tây Tiến đã
đi qua, "Sài Khao", "Mường Lát", "Pha Luông", "Mường Hịch", "Mai Châu". Những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng
nó khơng cịn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên trong lịng người đọc khơng khí núi rừng xa
xơi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn. Khơng chỉ vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày "lấp" cả đoàn quân, Quang Dũng dùng chữ
"mỏi" như tái hiện hình ảnh đồn qn mệt rã rời tuy vậy họ vẫn đi trong " sương lấp" thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ
có thế, Mường Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả khơng nói "hoa nở" mà "hoa về" khơng nói sương mà là
"đêm hơi" như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính Hà Thành. Con đường hành
qn ấy cịn vơ cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng
của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường
quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời. Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ "Ngàn thước
lên cao ngàn thước xuống" tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ
đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.
Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập ghềnh hiểm trở thì đến mới câu thơ tiếp theo như một phút lắng lịng
của những người lính Tây Tiến bên những ngơi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thống trên mặt biển trong khơng
gian bình n và êm ả của mưa giăng đầy thung lũng thành 'xa khơi". Đọc câu thơ người đọc thấy bình yên đến kì lạ, phải
chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến đấu tiếp với kẻ thù cũng như thiên
nhiên khắc nghiệt nơi đây:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Quang Dũng nhớ đến âm thanh "gầm thét" của thác dữ, tiếng gầm gào của lồi hổ dữ rình rập như muốn nuốt chửng
người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của
chốn "sơn lâm bóng cả cây già". Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng
về một vùng núi hoang vu dữ dội nơi thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.
Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng miền Tây được vẽ bằng bút pháp vừa
hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất
mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua. Đoạn thơ
không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung tâm của nỗi nhớ ấy cịn là những người lính, những đồng đội cũ
được Quang Dũng thể hiện bằng vẻ đẹp bi tráng trên chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm. Ấn tượng trong
lịng người đọc về người lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy
chất lính:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Đó là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh "súng ngửi trời". Nếu viết
"súng chạm trời", nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như
chạm cả vào nền trời. Cịn ở đây, Quang Dũng đã gợi được "chất lính" trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm
hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội. Đồng thời cịn mang đến người đọc
sự mới lạ, hóm hỉnh đầy chất lính, mũi súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh "súng ngửi trời" tinh nghịch,
đầy chất thơ, mang cảm hứng lãng mạn đồng thời khẳng định chí khí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm
cao gợi cho người đọc đến với câu thơ của Tố Hữu:
"Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang leo với gió đèo"
Và trên chặng đường hành quân ấy dù với cái nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người lính Tây Tiến khơng thể tránh được sự
thật đã có những người đồng đội:
"Anh bạn dãi dầu khơng bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Khi nói về cuộc chiến tranh khốc liệt ấy. Tác giả đã không né tránh hiện thực của những mất mát đau thương trong cuộc
chiến . Trong cuộc hành quân gian khổ đã có những người ngã xuống vì kiệt sức. vì mũi súng của kẻ thù. Nhưng Quang
Dũng đã thể hiện cách nói giảm, nói tránh về cái chết vừa xót xa ,vừa ngạo nghễ "không bước nữa" để rồi "bỏ quên đời"
như một sự bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhớ những người đồng đội đã ngã
xuống nhưng không gợi cảm giác bi luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng,
kiêu hãnh "Gục lên súng mũ bỏ quên đời".Đó là một tư thế chết trong chiến đấu, trong sự hiên ngang, bất khuất.
Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ , có những lúc đồng đội hi sinh, đồn qn Tây Tiến đã có dịp dừng lại một bản
làng-Mai Châu
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi"
"Nhớ ơi"là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lịng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ đậm đà tình quân
dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc. Họ dừng chân nơi xóm núi
sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo
mới.Nhớ mùi thơm "nếp xôi" hương vị của núi rừng Tây Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình
nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi khơng
thể phai mờ trong lịng những người lính Tây Tiến . Như Chế Lan Viên từng viết về tình quân dân ấy trong bài thơ "Tiếng
hát con tàu"
"Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày khơng có lịch
Bữa xơi đầu cịn tỏa nhớ mùi hương"
Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà cịn thành
cơng với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi trán. Sử dụng ngơn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình,
từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.
Đoạn thơ mở đầu trong bài thơ "Tây Tiến" dù chỉ mới là khúc dạo đầu của một bản tình ca về nỗi nhớ, song cũng đã kịp
ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những
người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Đồng thời thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là
biểu hiện của một tấm lịng gắn bó với q hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng u thương với những
người đồng đội, đồng chí của mình.
TÂY TIẾN ĐOẠN 2
"Thơ làm cho tất cả những gì tốt đẹp trở thành bất tử". (Shefley) Và Quang Dũng đã làm sống lại những gì đẹp
đẽ nhất, những kí ức khó qn nhất trong cuộc đời người lính. Đó khơng chỉ là những giây phút hành quân nơi
núi cao vực sâu dốc thẳm mà cịn là những khoảnh khắc bình yên. Đêm hội liên hoan tại một bản làng trên
vùng núi cao Tây Bắc là một hành trang tinh thần khơng thể thiếu trong cuộc đời người lính.
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa"
Doanh trại không chỉ là không gian của hiện thực mà cịn là khơng gian của tâm tưởng, của hồi niệm và nỗi
nhớ. Nơi đó đang bừng lên bởi những ngọn lửa bập bùng mà tác giả liên tưởng đến đuốc hoa. Những bông
hoa lửa như thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn, đẩy lùi bóng tối, xua tan sự lạnh lẽo, làm bừng sáng cả không
gian. Hai từ "bừng lên" không chỉ là bừng lên của ngọn đuốc mà còn là "bừng lên" của kỉ niệm, của hồi ức như
một tiếng reo vui biết bao hồ hởi, say mê. Khơng cịn những chặng đường hành qn vất vả, cũng khơng cịn
những bước chân nhọc nhằn ra trận mà chỉ cịn lại khơng khí rộn ràng sơi nổi. Người lính như quên hết những
mệt mỏi hiểm nguy để đắm hồn mình vào đêm hội liên hoan ấy.
Hình ảnh trung tâm của đêm hội liên hoan là sự hiện diện của những cơ thiếu nữ vùng sơn cước:
"Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."
Trong ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc lung linh kì ảo, trong tiếng khèn tiếng nhạc du dương, những cô thiếu
nữ vùng cao xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy, quyến rũ, e ấp, duyên dáng và tình tứ khiến những chàng lính khơng
khỏi ngạc nhiên, ngỡ ngàng. "Kìa em" là tiếng reo với bao bất ngờ vui sướng và có cả sự thán phục ngợi khen.
Với những bộ trang phục thật đẹp và lạ mắt, với những vũ điệu đậm sắc màu dân tộc và cả nét e ấp e thẹn,
những cô gái sơn cước đã khiến bao chàng trai Tây Tiến như bị hút hồn, ngây ngất.
Cảnh vật và con người đểu như ngả nghiêng, say sưa trong tiếng khèn, tiếng nhạc, trong những vũ điệu ngọt
ngào say đắm, vừa có chút gì đó hoang dại bí ẩn mê hoặc lòng người. Những âm thanh khốc liệt của súng đạn
bị đẩy lùi chỉ còn những tâm hồn lãng mạn, những "hồn thơ" hịa mình trong điệu nhảy điệu múa đến say lịng
người.
Sau những hồi niệm về đêm lửa trại ấm áp tình quân dân là những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ miên
man về cảnh sông nước và con người miền Tây Bắc.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ"
Sông nước miền Tây hiện ra vào một buổi chiều sương tĩnh lặng. Không gian giăng mắc một màn sương mênh
mang, mờ ảo và nhạt nhòa, tạo nên vẻ đẹp lãng mạn huyền ảo. Ở đây không phải là sương lấp, sương che hay
sương phủ mà là sương giăng, ta như cảm nhận được cái thực và cái mộng của khí trời Tây Bắc bảng lảng
sương khói hiện ra như một miền cổ tích.
Hai bên bờ sơng là những dãy lau ngút ngàn gợi lên một không gian hoang sơ tĩnh lặng. Những bơng lau chập
chờn lay động như có hồn. Hồn của lau hay chính tâm hồn của nhà thơ đã hóa thân vào cảnh vật trong những
bông lau phất phơ, huyền ảo. Khung cảnh sông nước hoang vắng man mác buồn chợt khiến ta nhớ đến dịng
sơng Đà trong trang văn của Nguyễn Tn "dịng sơng như chảy từ tiền cổ", "bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa."
Sơng nước miền Tây không chỉ hiện lên đậm chất hiện thực mà cịn rất đỗi thơ mộng trữ tình. Vẻ đẹp của con
người hịa quyện trong vẻ đẹp của thiên nhiên.
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa."
Hình ảnh thiếu nữ Tây Bắc xuất hiện trên chiếc thuyền độc mộc với vẻ đẹp vừa mềm mại uyển chuyển, duyên
dáng lại vừa vững chãi đưa con thuyền xi dịng. Hình ảnh người con gái trở thành trung tâm hội tụ linh hồn
của bức tranh sông nước miền Tây. Khơng phải ngẫu nhiên khi Quang Dũng đặt hình ảnh người thiếu nữ bên
cạnh "hoa đong đưa". "Đong đưa" chứ không phải là "đung đưa". Nếu "đung đưa" chỉ là sự chuyển động vật lý
thì "đong đưa" cịn đem đến tâm trạng, linh hồn cho cảnh vật. Những bông hoa rừng trở thành những sinh thể
có hồn. Hoa cũng như con người đang soi mình trên gương nước chịng chành, cũng biết làm duyên làm dáng.
Hóa ra con người Tây Bắc, bóng dáng của người thiếu nữ trên chiếc thuyền độc mộc cũng đẹp như những bông
hoa rừng trong chiều sương mờ ảo.
TÂY TIẾN ĐOẠN 3
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng khơng chỉ nhớ núi rừng mà cịn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội suối,
vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ
đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc
nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả quân đoàn. Người lính ấy phải sống trong
điều kiện sinh hoạt, chiến đấu gian khổ, thiếu thốn nên có một vẻ bề ngồi kì dị khác thường:
"Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm"
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc phải.
Nhà thơ Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" cũng đề cập đến căn bệnh này: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
- Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi." Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó
khăn, căn bệnh quái ác và sự hi sinh lớn lao của người lính Tây Tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được
nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc cận chiến, những cái đầu bị
rụng tóc, vẻ xanh xao vì thiếu thốn, sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai
phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực yêu thương:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức "trừng" lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn
để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em, những người bạn gái thân thương
nơi quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc họa chân dung người lính khơng chỉ ở dáng vẻ bề
ngồi mà cịn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này không che giấu
theo cách riêng của ông:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng như "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường" kết hợp với từ láy "rải rác"
đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp
lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói "chẳng tiếc đời
xanh" vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.
Hai câu thơ:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành qn chiến đấu khơng có
đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng
mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội
của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dịng sơng, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói
lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi
sinh của người lính khơng hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vơ hạn và sự trân trọng,
kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Đoạn thơ với cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo
bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây Tiến đậm chất bi
tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những
ngày gian khổ nơi núi rừng miền Tây. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại như cái thời mơ mộng, lãng mạn
hào hùng đến nhường ấy trong hồn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
ĐẤT NƯỚC ĐOẠN 1
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ nổi tiếng với phong cách sáng tác trữ tình chính luận độc đáo. Thơ của Nguyễn
Khoa ln đưa người đọc chìm đắm trong cảm xúc nồng nàn và những suy tư sâu lắng của người thanh niên trí
thức ln ý thức sâu sắc về vai trị, nhiệm vụ, trách nhiệm của bản thân trong cuộc chiến đấu giành lại tự do
dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Có thể nói, “Trường ca Mặt đường khát vọng” trong đó có đoạn trích Đất nước là tác phẩm tiêu biểu cho
phong cách trữ tình chính luận của Nguyễn Khoa Điềm. Phân tích đất nước đoạn 1 sẽ thấy được cảm xúc thân
thương trong cách ơng lí giải tinh tế về nguộn cội của đất nước.
Nguồn cội của đất nước được lí giải gần gũi, giản dị
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.”
Hai câu thơ đầu là lời khẳng định của tác giả rằng Đất nước đã tồn tại từ rất lâu, đã luôn tồn tại như một điều
hiển nhiên suốt nhiều thiên niên kỷ. Đất nước có lịch sử từ thời các vua Hùng dựng và giữ nước. Và Đất nước
không phải là một khái niệm trừu tượng, Đất nước gần gũi và thân thương, bình dị lắm trong các câu chuyện
“ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể. Mẹ kể câu chuyện ẩn chứa bài học về cách làm người, về lòng biết ơn,
về lịng son sắc với đồng bào đồng chí, là lẽ phải, là ước mơ khát vọng tự do, độc lập.
Phân tích đất nước đoạn 1 có thể thấy, ngay ở hai câu thơ đầu, ngôn từ mà tác giả sử dụng là ngơn từ tự
nhiên, giản dị, bình dị và vì thế gây xúc động cho người đọc.
Đất nước mà Nguyễn Khoa Điềm biết đến và tâm tình cùng người đọc là đất nước với những phong tục, tập
qn. Đất nước khơng chỉ có trong câu chuyện cổ tích mẹ kể, mà đất nước bắt đầu với trầu bà ăn.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Với người phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là người già, nhai trầu đã trở thành thói quen, tập quán đặc trưng. Câu
chuyện sự tích trầu cau xa xưa là nói về tình nghĩa con người. Và từ những năm trước công nguyên, thời Hai Bà
Trưng, Bà Triệu nhân dân ta đã mạnh mẽ đứng lên chống giặc xâm lăng. Rồi truyền thuyết Thánh Gióng với
hình ảnh Thánh Gióng nhổ lũy tre làng đánh giặc. Và đất nước bắt đầu từ đó, bắt đầu từ những bình dị đời
thường, bắt đầu tính tình chất phác, thật thà, bắt đầu từ lòng yêu nước. Tất cả những điều đó là đại diện cho
đời sống tinh thần, cho phong tục tập quán, từng bước lớn lên thành một dân tộc, một đất nước với lớp lớp
người ý thức được trách nhiệm bảo vệ bờ cõi, bảo vệ lãnh thổ của mình.
Và nguồn cuội của đất nước khơng chỉ ở truyền thống về lòng yêu nước, mà trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, đất
nước còn gắn liền với vẻ đẹp của thuần phong mĩ tục thật giản dị và gần gũi của con người Việt Nam:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Từ xa xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam ln xuất hiện cùng mái tóc dài được bụi gọn gang phía sau đầu.
Đó là vẻ đẹp của người bà, người mẹ, người chị, là vẻ đẹp đại diện cho người con gái, người phụ nữ Việt Nam;
tuy giản dị mà ln tốt lên vẻ nữ tính, thuần hậu rất riêng biệt.
Trong câu thơ trên, tác giả vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” để nói về lịng thủy chung của con người.
Điều này làm cho câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đậm ân tình, gừng càng già càng cay, muối càng để lâu càng
mặn và con người sống với nhau lâu năm tình nghĩa sẽ bền chặt, đong đầy.
Phân tích đất nước đoạn 1 ta thấy, bên cạnh những phong tục tập quán, tình nghĩa của con người, Nguyễn
Khoa Điềm còn định nghĩa đất nước gắn liền với truyền thống lao động sản xuất của người nông dân:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Con người đã biết chặt gỗ làm nhà từ xa xưa. Những ngôi nhà được dùng kèo, cột giằng giữ vào nhau vững
trãi, để tránh được mưa gió và thú dữ nguy hiểm. Ngơi nhà đó cũng là tổ ấm để gia đình quây quần bên nhau,
cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn. Và những ngôi nhà hình thành nên làng xóm, nên Đất nước. Như ông bà xa
xưa vẫn nói, “an cư lạc nghiệp”, có một tổ ấm và sống giữa cộng đồng với những nét văn hóa riêng biệt, đồng
lịng giúp đỡ nhau nhờ đó mà đất nước hình thành.
Trong câu thơ, tác giả đã khéo léo sử dụng thành ngữ “Một nắng hai sương” nhằm nói lên sự chăm chỉ, cần cù
của cha ông trong lao động sản xuất. Để làm ra hạt gạo, người nông dân phải trải qua “xay – giã – dần – sàng,
đó là quy trình làm việc vất vả. Hạt gạo bé nhỏ hàm chứa nhiều nhọc nhằn của người nông dân. Và thành quả
ngọt ngào từ hạt lúa khơng chỉ giúp nhân dân no ấm mà cịn đưa Việt Nam trở thành niền văn minh lúa nước
và rồi hội nhập trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.
Sau tất cả những điều bình dị, kiên cường, đẹp đẽ trên, tác giả khẳng định rằng:
“Đất Nước có từ ngày đó…”
Nói “ngày đó” mà khơng phải một ngày cụ thể là bởi chúng ta và cả tác giả cũng không biết là ngày nào.
Nguyễn Khoa Điềm chỉ biết rằng, ngày mà chúng ta có đất nước là ngày mà chúng bắt đầu có những truyền
thống, phong tục tập quán và nền văn hóa riêng biệt, giản dị mà thấm đượm lòng tự hào dân tộc. Ngày đó là
ngày mà dân ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm lịch sử.
Phân tích đất nước đoạn 1 có thể thấy, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng khéo léo và thành công các thành ngữ,
tục ngữ, ca dao cùng các chất liệu văn hóa dân gian như ăn trầu, búi tóc, truyền thống đánh giặc, văn minh
nông nghiệp vào tác phẩm. Đồng thời, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nghe như tâm tình thủ thỉ đã mang
đất nước thật gần gũi, bình dị với người đọc. Và qua cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về nguồn cội
của đất nước, Việt Nam hiện ra là đất nước có nền văn hóa lâu đời, có truyền thống, phong tục tập quán tốt
đẹp và hơn hết là mang đậm dấu ấn của người Việt Nam yêu nước, yêu lao động.
Cho đến ngày nay, đất nước càng hội nhập, tác phẩm trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung và đoạn
trích “Đất nước” nói riêng của Nguyễn Khoa Điềm như một lời nhắc thế hệ mai sau về nguồn cội đất nước. Và
dù nhiều năm tháng qua đi, bài thơ vẫn còn nguyên vẹn giá trị với lời thơ, ý thơ và tư tưởng tình cảm bình dị
mà đẹp đẽ.
ĐẤT NƯỚC ĐOẠN 2
Nếu như ở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi gợi tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, cắt nghĩa sự hình
thành của Đất Nước thì ở khổ thơ thứ hai, con mắt thơ Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều
rộng địa lý. không gian, chiều dài thời gian lịch sử, và trong các mối quan hệ mật thiết của mỗi cá nhân.
“Đất là nơi em đi học
Nước là nơi tôi tắm
Đất nước là nơi chúng ta gặp nhau
Đất nước là nơi tôi đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
Mảnh đất nơi “phượng hoàng bay về núi bạc”
Mặt nước là nơi “móng vuốt của ngư dân nước biển”
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt trong cách dùng từ, đặt câu khi ở đây, nhà thơ trích
ra hai chữ Đất Nước để phân tích tâm hồn ẩn sâu bên trong nó. Đất là nơi em đi học, nước là nơi em tắm,
nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vơ cùng gần gũi, gắn bó mật thiết với đời sống con người. Trước đây, khi
viết về đất nước, các nhà thơ thường gọi nó, tơ vẽ nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, thì nay Nguyễn
Khoa Điềm gợi ra đất nước cịn là khơng gian thân thương, nơi gắn bó tình cảm, nơi khơi nguồn và khơi nguồn
cảm hứng. là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm kín của người con gái nên nó vừa
tuyệt vời vừa là mảnh ký ức gợi nhớ cho tâm hồn bất cứ ai. Ở hai câu thơ tiếp theo, Đất nước tái hiện trong ca
dao, tục ngữ, để thấy rằng Đất nước khơng chỉ đánh thức kí ức tuổi thơ mà cịn đánh thức kí ức văn hố cộng
đồng, nét đẹp của con người. truyền thống cộng đồng.
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đồn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Đất nước là sự rèn giũa, kết hợp giữa dịng chảy vơ tận của thời gian bao la nhưng thời gian ở đây không phải
là thời gian vô tri vô giác mà là thời gian của lịch sử văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ là gợi
lại những ký ức lịch sử, văn hóa của cộng đồng, đồng thời cũng là điểm tựa để gợi nhớ những nét đẹp văn hóa
dân gian của dân tộc. Đất Nước trường tồn, Đất Nước vẫn bất tử giữa khơng gian bao la, khơng gian hùng vĩ.
Nhìn đất nước theo cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, đất nước còn là sợi dây kết nối những thế hệ
đã qua và thế hệ sau.
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”Để làm nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất nước, chắc chắn đó là sự tích tụ,
tiếp nối của biết bao thế hệ con cháu đã ngã xuống, hy sinh cho nền độc lập dân tộc. Đất nước sáng mãi trong
lòng mỗi người bởi sự hy sinh cao cả, vĩ đại, bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa truyền qua bao thế hệ. Và vì
thế, đồng bào các dân tộc ln tự nhắc mình đạo lý uống nước nhớ nguồn truyền thống: Hằng năm nhớ ngày
giỗ Tổ.
Tiếp tục mạch lập luận, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả mối quan hệ của mỗi cá nhân:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hịa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Trong anh và em, trong mỗi chúng ta đều thấm đượm hồn quê. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái
chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân và cả cộng đồng, giữa cái nhỏ và cái lớn, giữa cái mộc mạc gần gũi và cái
xa vời vợi. Từ đó, bắc một nhịp cầu đến trái tim người đọc, rằng: Đất nước ở trong ta, khơng ở ngồi ta, và do
đó:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời…”
Viết về đất nước, đó là nguồn cảm hứng bất tận và ở mỗi giai đoạn lịch sử, các nhà thơ, nhà văn lại gửi gắm
vào đó linh hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất nước với mong muốn thức tỉnh những
người chiến sĩ tham gia kháng chiến kiến quốc, soi sáng, hướng dẫn họ nhưng giọng thơ của ông không hề giáo
điều. đong đầy, nghẹn ngào yêu thương, như lời nhắn nhủ chân thành, như lời chuyển giao thế hệ. Nó khiến
người đọc đồng cảm hơn, cảm nhận rõ hơn về sự hòa hợp, gắn kết của đất nước trong tâm hồn mỗi người. Đất
nước là máu xương của mỗi người, bởi nó được xây dựng và gìn giữ bằng chính cuộc đời và lòng yêu nước
thiêng liêng của biết bao thế hệ đã ngã xuống và hy sinh. Và cũng bởi Đất nước cho ta máu thịt, cho ta cách
sống, cách nghĩ, cho ta điểm tựa về truyền thống văn hóa, lịch sử – những yếu tố ấy đã hun đúc nên vẻ đẹp
tâm hồn của chính ta. của người Việt Nam, trong đó có bạn và tơi, mỗi chúng ta. Nếu cá nhân nào tồn tại đơn
độc, không có cộng đồng để bấu víu, làm điểm tựa cho sự phát triển và ni dưỡng văn hóa tinh thần, thì
chẳng khác nào chúng ta trở nên vơ minh. bạn thua? Đó là ý nghĩa sâu xa nhất mà Đất Nước có tác động đến
mỗi chúng ta. Vì vậy, mỗi chúng ta đều có trách nhiệm hóa thân thành hình đất nước, phải dấn thân hy sinh, vì
đó cũng chính là sự sáng tạo tinh thần của mỗi chúng ta.
Khổ thơ thứ hai thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Vì vậy, nó
khơng chỉ tạo được sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn làm tăng sức nặng của những triết lí, tư
tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu sắc.
ĐẤT NƯỚC ĐOẠN 3
Từ xưa đến nay, viết về đất nước luôn là nguồn cảm hứng chủ đạo của văn học. Tiếp nối mạch nguồn văn học
dân tộc, tác giả Nguyễn Khoa Điềm, một gương mặt nổi bật của văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những
cái nhìn rất mới về ước mơ đất nước. Quan điểm ấy được ông thể hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích “Đất Nước”
trong sử thi Mặt đường đầy khát vọng.
Đất nước là một khái niệm khác nhau đối với mỗi người. Đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng
tình cảm của mình, bằng sự phân tích bằng tư duy logic, và lần lượt từng tầng ý niệm về đất nước dần được
ơng mở ra. Ơng không định nghĩa bằng những khái niệm quá mơ hồ, trừu tượng mà từ những điều rất cụ thể
trong chính cuộc sống:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc
Qua quan niệm của tác giả, hình ảnh đất nước hiện lên thật bình dị, đất nước đến từ truyện cổ tích, từ trầu
cau, từ truyền thuyết Thánh Gióng trồng tre đánh giặc Ân. Tổ quốc ta có từ ngày ấy, đã thấm nhuần trong lịng
mỗi đứa trẻ từ thuở ấu thơ.
Không chỉ vật, mà nước cịn được hình thành từ những thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền
thống tốt đẹp của cả dân tộc ta. Hình ảnh “tóc mẹ vén sau đầu” thể hiện nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa được
lưu giữ từ ngàn đời nay của ơng cha ta. Nghìn năm Bắc thuộc, nếu phương Bắc tìm cách Hán hóa bằng mọi
cách thì cũng khơng cách nào xóa bỏ được vốn văn hiến cao đẹp của dân tộc ta. Đất nước cịn được hình thành
từ lối sống thủy chung, tình cảm, bắt nguồn từ tình nghĩa vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối
mặn”. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng bậc thầy ca dao: “Tay nâng đĩa muối gừng/ Gừng cay muối mặn
xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất nước được hình thành từ những gì có vẻ là. giản dị nhưng rất thiêng
liêng và cao cả.
Tiếp tục mạch cảm hứng đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đã đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước khơng cịn là xa lạ mà là không gian sống, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của tất cả chúng ta.
Nguyễn Khoa Điềm không khoa trương, khơng ngần ngại nói rõ đó là nơi đi học, nơi tắm, nơi hò hẹn, nơi
thương nhớ. Vâng, đó là đất nước được hình thành từ những điều giản dị nhất của cuộc sống. Và để khắc sâu
quan niệm ấy, ông đã truy ngược nguồn gốc, ngược về quá khứ: “Đất nước là nơi nhân dân sum họp/Đất là nơi
chim về/Nước là rồng ở/Lạc Long Quân, Âu Cơ/Đẻ con đồng bào trong bọc trứng”. Từ sự lý giải sâu sắc trên hai
bình diện lịch sử và địa lý, ông dần dần đi đến hoàn chỉnh khái niệm Đất nước. Đồng thời cũng nêu lên trách
nhiệm của mỗi người đối với cuộc sống của đất nước: “Người đã khuất/ Kẻ cịn bây giờ/ Thương nhau mà thơi
con/ Chịu phần người đi trước để lại// Xin dạy con cháu mai sau nên làm gì/ Ăn ở đâu hàng năm/ Con cũng
biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh” đã khẳng định thế hệ mai sau có trách nhiệm trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời Người cũng nhắc nhở, dù có dựng nước cũng khơng được qn cơng lao
của những người có cơng dựng nước, dựng nước. Chỉ với hai hai chữ “lạy” cũng thể hiện được tấm lòng thánh
thiện, thiêng liêng hướng về quê cha đất tổ, nơi tổ tiên sinh ra và lớn lên.
“Trong anh em hơm nay/…/Đất nước vẹn tồn và to lớn”, câu thơ đã khẳng định, đất nước tồn tại và bền vững
là nhờ có sự đồn kết của mọi người, của tình u đơi lứa. . Chỉ khi nào có sự hài hịa giữa cái chung và cái
riêng, giữa cá nhân và tập thể thì mới có một đất nước vĩ đại và tồn vẹn. Và từ đó, Người cũng nêu cao trách
nhiệm của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể thế hệ trẻ đối với đất nước như: “Các em ơi, đất nước là máu
xương của mình/ Phải biết gắn bó và sẻ chia/ Phải biết chuyển mình cho hình dáng đất nước/ Làm cho đất
nước trường tồn” vì:
Những người vợ nhớ chồng cịn đóng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những người dân nào đã góp nên những Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Hàng loạt địa danh, danh lam thắng cảnh được ông đặt tên. Mỗi địa danh ấy cũng gắn liền với một chiến công,
với sự hy sinh thầm lặng để đất nước mãi mãi tươi sáng. Chính vì thế đã khiến Người rút ra kết luận: “Còn đâu
đâu ruộng nương/…/Đời ta đã hóa núi sơng”.
Làm nên đất nước, khơng thể chỉ một cá nhân làm nên văn hóa, truyền thống, lịch sử của dân tộc. Vậy là ai, tất
cả là ai?
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất NướcQuả thật, đó là những con người vơ danh, họ là những cô gái, những chàng trai,
họ “sống chết” “giản dị và bình lặng” họ đặt tên xã là làng, mang về những phong tục tập quán được truyền lại,
gìn giữ cho mn đời sau. . Chính họ cũng đã làm nên đất nước. Với thủ pháp liệt kê và nói “họ”, Nguyễn Khoa
Điềm đã vẽ ra trước mắt người đọc một lớp người vô danh được nối tiếp nhau truyền từ đời này sang đời khác
cho con cháu những giá trị vật chất, vật chất. tinh thần cao thượng. Và mục tiêu của họ là:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Về điểm này, Nguyễn Khoa Điềm cũng khẳng định mạnh mẽ quan điểm tư tưởng của mình về đất nước và
nhân dân. “Trở về cội nguồn đất nước là trở về cội nguồn văn hóa dân gian giàu đẹp” khởi đầu cho truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Đồng thời cũng là nơi tạo dựng và khơi dậy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc ta:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Bài thơ kết thúc bằng những khúc tráng ca tự hào, trải dài dường như vang vọng khắp sông núi. Đồng thời
tiếng hát ấy cũng thể hiện niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với truyền thống văn hiến ngàn đời của cha ông
để lại.
Đất Nước là bài thơ giàu chất suy tưởng, triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, mới mẻ của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc đã được mở mang kiến thức và có cái nhìn chân thực hơn
về Đất nước trong suốt chiều dài lịch sử. Từ đó em càng thêm yêu và tự hào về nơi mình đã sinh ra và lớn lên.
ĐẤT NƯỚC ĐOẠN 4
Thơ Việt Nam ba mươi năm chiến tranh là một bản hợp xướng những bài ca, giai điệu ngọt ngào về đất nước.
Chúng ta khơng thể qn một “đất nước hình tia chớp” trong thơ Trần Mạnh Hảo hay một đất nước như “bà
mẹ sớm chiều gánh nặng nhẫn nại nuôi con cho đời êm ấm” trong thơ Tố Hữu. Đề cập đến chủ đề Đất nước
trong văn học cách mạng sẽ là chưa đầy đủ nếu không nhắc đến Đất nước được trích trong Bài ca khát vọng
với tư tưởng nhân văn tiến bộ: “Đất nước của nhân dân”.
Ở mỗi thời đại khác nhau lại có những quan điểm khác nhau về đất nước. Nếu như thời trung đại quan niệm
đất nước phải thuộc về vua, lãnh thổ do vua cai trị: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Thời cận đại, khi bàn về trị
nước, Phan Bội Châu cho rằng: “Dân là của dân, nước là nước của dân”. Tư tưởng trên tuy đã thể hiện tư
tưởng tiến bộ hơn so với thời cận đại nhưng vẫn mang nặng tư tưởng nhà nước phong kiến phương Đông và
tư tưởng tư sản. Chỉ đến thời đại Hồ Chí Minh, các nhà thơ mới cảm nhận sâu sắc nhất, sâu sắc nhất tư tưởng
Đất nước là của nhân dân, của đại đa số quần chúng nhân dân:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
(Nguyễn Đình Thi)
Trước hết, suy từ về đất nước trên chiều rộng lãnh thổ đó là điều khơng mới, nhưng chỗ đặc sắc nhất của
Nguyễn Khoa Điềm là ông không gắn lãnh thổ với đế cư, với thiên thư mà gắn với nhân dân vĩ đại:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ơng móng nước biển khơi””
Theo cảm nhận của nhà thơ, “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng,
ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi con người.
Và:
“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hịn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua cịn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dịng sơng xanh thẳm
Người học trị nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ơng Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Đất nước đã trở thành một phần thiêng liêng trong cuộc sống của mọi người. Mỗi người chỉ góp một phần nhỏ
để làm nên đất nước. Vì vậy, xây dựng, bảo vệ và hy sinh vì Tổ quốc là trách nhiệm cao cả của chúng ta vì “Đất
nước này là đất nước của nhân dân”. Khi nghĩ về “Đất Nước” dưới góc độ lịch sử, điều đó khơng mới. Nhưng
cái mới lạ của nhà thơ là khi nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, ông không dùng tư liệu lịch sử như các
nhà thơ khác:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
(Nguyễn Trãi)
Cũng không nhắc đến những anh hùng hữu danh trong lịch sử:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt qn Ngun trên sóng Bạch Đằng…”
(Nguyễn Đình Thi)
Mà Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến muôn vàn con người bình dị vơ danh nhưng lại hết sức lớn lao phi
thường:
“Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết khơng
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Họ còn sáng tạo và truyền lại cho thế hệ sau:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hịn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”
Họ là ai? Phải chăng là những người anh hùng hữu danh trong sử sách? Khơng, đó chỉ là một phần nhỏ bé
trong chữ họ mà thôi. Họ ở đây lớn lao hơn nhiều, là nhân dân là cha ông thuở trước. Chữ “họ” được đứng ở
chữ đầu dòng thơ và được điệp lại cho thấy vai trò lớn lao vĩ đại của nhân dân đối với Đất nước.
Các động từ “giữ – truyền – gánh” cho ta một cảm nhận sự tiến hóa của lịch sử Việt Nam giống như một cuộc
lao động lớn mà ở đó có sự tiếp sức khơng ngừng nghỉ của các thế hệ nhân dân. Họ đã tạo ra từ hạt lúa với
nền văn minh lúa nước, ngọn lửa được tạo nên bởi bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý
báu như phong tục tập quán lâu đời: tên xã, tên làng, giọng nói cha ơng… Như vậy, nhân dân chính là người
làm nên giá trị tinh thần và vật chất cho Đất nước.
Khi nói về Đất nước trong chiều sâu văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm khơng nhắc đến các danh nhân như Nguyễn
Trãi. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương mà nêu lên những truyền thống tinh thần của nhân dân:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”
Những truyền thống văn hóa lâu đời nhưng giản dị được nhà thơ nhắc lại với niềm tự hào sâu sắc. Thành công
đầu tiên trong việc thể hiện tư tưởng nhân dân đó là Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cho mình chất liệu văn học
dân gian phù hợp, dẫu biết rằng chất liệu trong hình thức nghệ thuật cũng chính là chất liệu tạo nên câu thơ
chính là tấm lịng của nhà thơ. họa sĩ. Văn học dân gian thể hiện ở việc sử dụng tục ngữ, ca dao, truyền thuyết,
v.v.
Ngoài ra, sự kết hợp với giọng thủ thỉ có sức lay động mạnh mẽ tâm hồn người đọc. Đất nước là một đề tài lớn
nhưng khi đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm khơng hề khơ khan mà đi vào lịng người như một lời ru, một khúc
hát. Hình thức câu thơ phóng khống với những câu thơ trải dài, nhịp nhàng góp phần thể hiện thành cơng
tình đất nước.
Như vậy, qua đoạn trích “Đất Nước”, tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” là tư tưởng cốt lõi mà nhà thơ muốn
gửi gắm.