TRƯỜNG…
KHOA …
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
1. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Lý luận mà khơng có
thực tiễn là lý luận sng, thực tiễn mà khơng có lý luận là thực tiễn
mù quáng”. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận. (5đ)
2. Vận dụng phương pháp luận triết học để giải thích nhận định
sau đây: “Những ai có thể đặt mình vào vị trí của người khác, những
ai có thể hiểu những suy tư, cảm nhận của mọi người thì không bao
giờ phải lo lắng cho tương lai” (5 đ) (Đắc nhân tâm)
Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,
- 2022
MỤC LỤC
Trang
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Lý luận mà khơng
1.
có thực tiễn là lý luận sng, thực tiễn mà khơng có lý luận
là thực tiễn mù qng”. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
1
(5đ)
Vận dụng phương pháp luận triết học để giải thích nhận
định sau đây: “Những ai có thể đặt mình vào vị trí của
2.
người khác, những ai có thể hiểu những suy tư, cảm nhận
của mọi người thì khơng bao giờ phải lo lắng cho tương
lai” (5 đ) (Đắc nhân tâm)
10
Câu 1. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Lý luận mà khơng có
thực tiễn là lý luận sng, thực tiễn mà khơng có lý luận là thực tiễn mù
quáng”. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận. (5đ)
1. Mở đầu
Quan điểm triết học Mác - Lênin về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
với thực tiễn là “cơ sở lý luận cho việc xác định nội dung nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận với thực tiễn. Tuy nhiên, suy cho cùng thì cơ sở của nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là mối liên hệ hiện thực, thực tế giữa thực
tiễn và lý luận. Một khi nhận thức, lý luận đã xuất hiện và tỏ rõ vai trị khơng thể
thiếu của nó đối với thực tiễn thì người ta phải ý thức được mối liên hệ hữu cơ
của nó với thực tiễn và như thế đưa đến hình thành những quan điểm, nguyên
tắc cho hoạt động. Như vậy, những quan điểm, nguyên tắc không chỉ được hình
thành trên cơ sở thực tiễn, mà cịn phải phục tùng những mục đích, điều kiện
thực tiễn của con người” [2, tr.201].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vơ giá, đó chính là hệ thống quan điểm,
tư tưởng của Người trên nhiều lĩnh vực, trong đó có quan điểm về nguyên tắc lý
luận và thực tiễn. Người cho rằng: “Lý luận mà không có thực tiễn là lý luận
sng, thực tiễn mà khơng có lý luận là thực tiễn mù quáng”, nghiên cứu quan
điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa phương pháp luận to lớn cho
chúng ta khi giải quyết các vấn đề thực tiễn xã hội đặt ra.
2. Nội dung
“Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những hạn chế trong quan
niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó trong lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đa ra một quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn cũng như
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý
luận nhận thức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm cho triết học của các ông hơn hẳn
về chất so với toàn bộ các trường phái triết học khác. Theo quan điểm của triết
3
học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có
tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội” [2, tr.199].
Con người muốn cải tạo được thế giới cần phải có những hiểu biết về nó,
nhưng những hiểu biết ấy khơng có sẵn trong con người. “Muốn có hiểu biết (tri
thức) con người phải tác động vào thế giới khách quan bằng và thông qua hoạt
động thực tiễn. Trên cơ sở đó, con người tích lũy được những tri thức kinh
nghiệm. Nhưng tri thức kinh nghiệm mới chỉ đem lại sự hiểu biết về từng mặt
riêng lẻ, bề ngoài của sự vật” [1, tr.419]. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: ‘‘Sự quan sát
dựa vào kinh nghiệm tự nó khơng bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính
tất yếu’’. Để hiểu được tính tất yếu, bản chất của sự vật, con người phải khái
quát những tri thức kinh nghiệm thành lý luận. Hồ Chí Minh chỉ rõ : ‘‘Lý luận là
sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên
và xã hội tích trữ lại trong q trình lịch sử’’ [5, tr.445]. “Lý luận được hình
thành trên cơ sở khái quát kinh nghiệm thực tiễn, nhưng không phải cứ có kinh
nghiệm thực tiễn là có được lý luận. Lý luận được hình thành thơng qua hoạt
động tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát lý luận của các nhà lý luận. Vì
vậy, lý luận khơng thể ra đời một cách tự phát và ln ln phải được bổ sung,
hồn thiện, phát triển bằng tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn mới, phong phú
bởi các nhà lý luận. Do tính độc lập tương đối của mình, lý luận có thể phản ánh
vượt trước các dữ liệu thực tiễn. Nhưng xét đến cùng, lý luận không thể không
dựa trên cơ sở của kinh nghiệm thực tiễn. Như vậy, có thể hiểu lý luận khoa học
là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù” [8, tr.60].
Quan điểm thực tiễn là “quan điểm khởi đầu và xuyên suốt trong cuộc đời
và tư tưởng của Hồ chí Minh. Hồ Chí Minh khơng có phát minh gì mới về phạm
trù thực tiễn và về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Người chỉ thực hành
cách mạng nhưng thông qua thực hành cách mạng Người đã thể hiện rất sớm
một khuynh hướng tối ưu, một khuynh hướng vô cùng đúng đắn cho cả cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình mà vào thời đó khơng có một nhà cách mạng
4
nào đạt được. Đó là vào năm 21 tuổi Người muốn tận mắt xem nước Pháp và
các nước thuộc địa khác, nhưng lại phải xem xét tường tận, cụ thể rồi sau đó
phải làm gì là tùy thuộc vào tình hình thực tế” [8, tr.61].
Ngay từ khi cịn rất trẻ Hồ Chí Minh đã bộc lộ là “một con người thực tiễn,
con người hành động chính thực tiễn cách mạng và cách mạng thế giới đã hướng
dẫn tư tưởng và hành động của Người. Khi vận dụng vào thực tiễn của cách
mạng nước ta. Hồ Chí Minh thường dùng các khái niện thực tế hay thực hành
cùng với các khái niệm thực tiễn. Khái niệm thực tiễn và thực tế tuy có nội dung
khác nhau, vì thực tế rộng hơn thực tiễn, nhưng trong một số trường hợp thì Hồ
Chí Minh lại dùng khái niệm thực tế thay cho thực tiễn, bởi vì khái niệm thực tế
nhân dân ta đã quen dùng, chẳn hạn Người nói: Lý luận phải liên hệ với thực tế,
nhưng Người cũng nói: thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc
căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin” [4, tr.87]. Theo Hồ Chí Minh: “thực tế là
các vấn đề mình giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật. Chúng ta là những cán bộ
cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề cách mạng đề ra cho ta giải
quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm cơng tác và tư tưởng
của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng
cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới” [6, tr.497].
Tuy xác định khái niệm thực tế là rất rộng, nhưng “Hồ Chí Minh chỉ khn
vào trong các lĩnh vực cụ thể mà người cán bộ cách mạng phải đối mặt, phải giải
quyết kể từ công tác trong thực hành cách mạng, kinh nghiệm cách mạng, đường
lối, chính sách của cách mạng, đến công tác tư tưởng của cán bộ… các vấn đề
trong nước và thế giới. Bằng việc làm cụ thể và những lời giáo huấn, Hồ Chí
Minh ln đề cao vai trị của thực tiễn, cho dù nhiều lúc nêu cao vai trò của lý
luận nhưng bao giờ Người cũng nhấn mạnh lý luận cũng phải gắn với thực tiễn,
phục vụ thực tiễn. Ngay từ năm 1924, khi đọc diễn văn tại đại hội lần thứ V
Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nhắc nhở Đảng Cộng Sản Pháp phải có hành
động thực tiễn về vấn đề thuộc địa” [8, tr.64]. Người nói: “Vậy phải hành động
thực tiễn như thế nào. Đề ra những luận cương dài dằng dặc và thông qua những
5
nghị quyết rất kêu để sau đại hội đưa vào viện bảo tàng như từ trước vẫn làm thì
chưa đủ. Chúng ta cần có biện pháp cụ thể” [6, tr.281].
Thực tiễn không chỉ được coi là “những công việc cụ thể, thực tế, hiện thực
của cách mạng, mà còn được hiểu như là thực hành, kinh nghiệm rút ra từ trong
cơng tác. Người thường nói: lý luận gắn liền với thưc hành, lời nói đi đơi với
việc làm. Xác định vai trò quan trọng của thực tiễn đối với lý luận và nhận thức
của con người, nhưng đồng thời chúng ta cần phải nhận thức được rằng thực tiễn
không đứng im một chỗ mà thực tiễn luôn luôn vận động biến đổi và chuyển hóa
khơng ngừng, cho nên, sự vận động của thực tiễn quyết định sự vận động lý luận
và nhận thức của con người” [8, tr.65].
Khi xác định vai trị quan trọng của thực tiễn, “Hồ Chí Minh còn nêu cao
vai trò của việc học tập lý luận trong cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm
Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã mượn câu nói của Lênin để mở đầu cho
tác phẩm như một bản tuyên ngôn: không có lý luận cách mệnh thì khơng có
cách mệnh vận động”. Hai mươi năm sau, năm 1947 trong Sửa đổi lối làm việc,
Hồ Chí Minh định nghĩa: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh
nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kĩ lưỡng rõ ràng, làm
thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân
chính” [5, tr.233]. Mười năm sau, năm 1959 nói chuyện tại Trường Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Chí Minh xác định thêm: “Lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài
người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong q
trình lịch sử. Hồ Chí Minh xác định lý luận đặc biệt là lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin rất quan trọng, vì nó là kim chỉ nam cho hành động, chỉ phương
hướng cho chúng ta trong hoạt động thực tế. Khơng có lý luận thì khơng biết
xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng xử lý cho khéo kết quả thường thất bại.
Khơng có lý luận thì lúng túng nhắm mắt như nhắm mắt mà đi, lý luận quan
trọng như vậy nên việc lựa chon lý luận đúng, chủ nghĩa đúng là yếu tố quyết
định đưa đến sự thành bại của cách mạng” [5, tr.718].
Khi xác định vai trị của lý luận “Hồ Chí Minh cũng nêu lên ba khuyết
điểm mà cán bộ ta thường mắc phải, đó là kém lý luận, khinh lý luận, lý luận
6
suông. Kém lý luận là không nắm được lý thuyết chính trị, qn sự, kinh tế, văn
hố để áp dụng vào phong trào, là không hiểu biện chứng là cái gì. Nghĩa là,
trước hết khơng chịu học chủ nghĩa duy vật biện chứng kém lý luận nên không
biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả
thường thất bại. Khinh lý luận là bệnh của những cán bộ kinh qua công tác hàng
ngày nên có bề dày kinh nghiệm có thành tích, họ thường coi khinh lý luận, coi
nhẹ việc học tập lý thuyết, học tập sách vở. Hồ Chí Minh nhắc nhở: Nếu họ đã
có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì cơng việc tốt hơn nhiều… Những
anh em đó, cần nghiên cứu thêm lý luận mới thành người cán bộ tồn diện” [7,
tr.80]. Lý luận sng, theo Hồ Chí Minh: “Lý luận cốt để áp dụng vào cơng việc
thực tế, lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận sng. Có nhiều cán bộ,
trí thức chỉ chăm chú sách vở, học nhiều, bằng cấp lắm nhưng lại không đem áp
dụng vào công việc thực tế, họ trở thành những người lý luận sng. Hồ Chí
Minh nhắc nhở Đảng ta phải nâng cao trình độ lý luận của Đảng, phải tổ chức
học tập lý luận trong Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt cán của Đảng...
Rằng học tập lý luận là một sự cấp thiết đối với Đảng ta” [5, tr.102].
Trong việc vận dụng một cách sáng tạo lý luận nhận thức của triết học
Mácxít, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những kiểu mẫu về việc thực hiện quan điểm lý
luận gắn liền với thực tiễn trong cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh nói:
“Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận sng” [5, tr.496].
Có lẽ vấn đề học tập lý luận và gắn liền lý luận với thực tiễn là “vấn đề
được Hồ Chí Minh quan tâm nhiều nhất trong công tác giáo dục và đào tạo cán
bộ. Sau khi giành được chính quyền khơng lâu, khi viết tác phẩm sửa đổi lối làm
việc, Hồ Chí Minh đã đề cập đến thiếu sót phổ biến của cán bộ ta là kém lý luận,
khinh lý luận và lý luận suông. Người nhắc nhở cán bộ phải đem tri thức vào
thực tế, lý luận phải đem ra thực hành, thực hành phải nhằm theo lý luận. Người
đưa hình ảnh mũi tên và cái đích để dễ hiểu dễ nhớ lý luận cũng như cái tên
7
hoặc viên đạn. Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà khơng bắn, hoặc
bắn lung tung, cũng như khơng có tên” [7, tr.235].
Hồ Chí Minh “cịn rất quan tâm đến mối quan hệ giữa lý luận - thực tiễn kinh nghiệm trong công tác cách mạng. Người nhắc nhở Đảng ta phải kết hợp lý
luận với kinh nghiệm và thực hành. Trong học tập phải theo nguyên tắc: Kinh
nghiệm và thực tế phải đi đôi với nhau. Đặc biệt trong lý luận, Hồ Chí Minh chú
trọng việc học tập lý luận Mác - Lênin cho cán bộ và đảng viên đồng thời phải
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nhân dân để nhân dân thực hành
công tác cách mạng. Nhưng, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học lấy cái tinh
thần, cái phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, là đem lý luận Mác - Lênin
liên hệ với thực tế cách mạng Việt Nam phải áp dụng chủ nghĩa Mác - Lênin cho
thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc từng nơi” [7, tr.201].
Như vậy, “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên
tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng
dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên
cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không
sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa
vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được
Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng, thực tiễn cần tới lý luận soi đường,
dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để khơng mắc phải bệnh kinh nghiệm,
cịn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ
với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận
cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau” [7, tr.205].
3. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận
Để thực hiện có hiệu quả nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, “trước hết phải nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cơ sở nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động. Cùng với yêu cầu đó, mỗi chủ thể nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải nắm chắc lý luận của các môn khoa học cụ thể cùng các
8
mơn khoa học chun ngành, từ đó vận dụng sáng tạo trong điều kiện, tình
hình cụ thể” [3, tr.45].
“Phải có quan điểm thực tiễn đúng đắn, tích cực hoạt động thực tiễn; rèn
luyện khả năng, trình độ nắm bắt các yêu cầu thực tiễn và nâng cao hiệu quả
hoạt động thực tiễn. Lý luận cần bám sát thực tiễn, vận dụng và cụ thể hoá sáng
tạo. Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn phải thường xuyên sơ kết, tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, khái quát và bổ sung phát triển lý luận; ln có sự kết hợp
chặt chẽ giữa cơng tác tư tưởng và công tác tổ chức” [3, tr.46]. Để khắc phục
chủ nghĩa kinh nghiệm có hiệu quả “chúng ta vừa phải quán triệt triệt sâu sắc
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nghĩa là phải bám sát thực tiễn,
tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung vận dụng lý luận phù hợp
với thực tiễn. Mặt khác, phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường luôn vận động biến đổi, nhất là khi Nước ta đã
gia nhập tổ chức thương mại thế giới và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Nó địi hỏi mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng
tạo, phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó, để chủ động về quyết
sách kinh doanh cho phù hợp. Trong thị trường, khơng có chỗ cho bệnh kinh
nghiệm tồn tại. Khi thị trường hóa tồn bộ các yếu tố của q trình sản xuất sẽ
góp phần khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm” [3, tr.47].
Trái với chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều lại tuyệt đối hóa lý
luận, “tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực
tiễn, vận dụng lý luận một cách máy móc, khơng tính đến điều kiện lịch sử cụ
thể mỗi nơi, mỗi lúc. Biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều trước hết ở việc học tập
lý luận tách rời thực tiễn, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở, câu chữ, tầm
chương trích cú. Mặt khác nó cịn biểu hiện ở chỗ áp dụng rập khn máy móc
kinh nghiệm của nước khác, của nơi khác vào nước mình, địa phương mình.
Chủ nghĩa giáo điều đặc biệt nguy hại. Do giáo điều mà lý luận không mang lại
hiệu quả cho hoạt động thực tiễn, dẫn đến mất lòng tin đối với vai trị của lý luận
nói chung, đối với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam nói riêng. Để khắc phục chủ nghĩa giáo điều, chúng ta phải quán
9
triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phải khái quát từ
thực tiễn, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn và không
ngừng phát triển sáng tạo cùng thực tiễn” [3, tr.50].
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là “một trong những nội
dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, của triết học Mác - Lênin nói
riêng”. Đây khơng chỉ là “ngun tắc được đề xuất trong nhận thức luận mà còn
là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cho quá trình hình thành tri thức khoa học,
tri thức lý luận và phương pháp luận cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan
vì mục đích tiến bộ xã hội”.
4. Kết luận
Dưới ánh sáng của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
“Đảng ta đã vận dụng và giải quyết mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn vào quá
trình xây dựng, phát triển đất nước và đã thu được những thành tựu to lớn. Tuy
nhiên, quá trình nhận thức và vận dụng của Đảng ta là một quá trình biện chứng
phức tạp. Có lúc, sự nhận thức và vận dụng của Đảng ta còn chưa sáng tạo, chưa
phù hợp với thực tiễn đất nước dẫn đến tình hình kinh tế, chính trị - xã hội của
nước ta lâm vào khủng hoảng. Từ thực tiễn đó đặt ra yêu cầu đối với Đảng ta là
đổi mới tư duy lý luận và tư duy chính trị, phải nghiêm túc nhận thức lại và vận
dụng cho phù hợp mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn” [7, tr.194].
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “gắn lý luận với thực tiễn, học đi
đơi với hành có ý nghĩa hết sức quan trọng trong xây dựng, phát triển đất nước
và bảo vệ an ninh Tổ quốc. Nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa đó, làm tốt
những nội dung lý luận phải gắn liền với thực tiễn, học phải đi đơi với hành theo
tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ góp phần thiết thực vào thực hiện thắng lợi công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hiện nay” [7, tr.197].
10
Tài liệu tham khảo
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 33, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1976.
2. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác - Lênin,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.
3. Trần Văn Hùng, Bệnh giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa của đội ngũ
cán bộ ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 90/2019.
4. Vi Thái Lang (2016), Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn, Tạp chí Triết học (số 1), tr. 47 - 49.
5. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
6. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
7. Nguyễn Thế Nghĩa (2014), Những vấn đề cơ bản và cấp bách của triết
học mácxít, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Thảo, Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ lý luận với
thực tiễn và sự vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay, Tạp chí Giáo
dục, số 151/2018.
11
Câu 2. Vận dụng phương pháp luận triết học để giải thích nhận định
sau đây: “Những ai có thể đặt mình vào vị trí của người khác, những ai có
thể hiểu những suy tư, cảm nhận của mọi người thì không bao giờ phải lo
lắng cho tương lai” (5 đ) (Đắc nhân tâm)
1. Vai trò phương pháp luận của phép biện chứng duy vật trong nhận
thức khoa học và hoạt động cải tạo xã hội
Trong hoạt động thực tiễn, “để cải biến sự vật, tạo nên sự thay đổi về chất,
đòi hỏi chúng ta phải quán triệt sâu sắc quan điểm toàn diện, đồng bộ; quan
điểm phát triển; lựa chọn những biện pháp, phương tiện phù hợp để tác động vào
đối tượng sao cho có hiệu quả nhất nhưng lại ít chi phí nhất. Trong quá trình tác
động vào đối tượng, một mặt, chúng ta phải chú ý đến sự đồng bộ, hệ thống về
phương pháp, về phương tiện, về tính tồn vẹn trong sự tác động, lựa chọn
phương pháp tối ưu... Mặt khác, phải xác định đâu là trọng tâm, trọng điểm; đâu
là phương pháp có tính chất trung gian. Không được sử dụng các phương pháp
một cách ngang bằng nhau” [1, tr.50].
“Phương pháp, phương tiện sử dụng để tác động vào đối tượng phải linh
hoạt, mềm dẻo; phải quán triệt nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Tư duy của chúng ta
chỉ có thể là chân thực, đúng đắn khi nó theo sát sự vận động, biến đổi của hồn
cảnh, của đối tượng nhận thức. Mỗi khi tình hình thực tế có sự thay đổi, địi hỏi
chúng ta phải lựa chọn phương pháp tác động phù hợp để có hiệu quả cao nhất”
[1, tr.54].
2. Vận dụng phương pháp luận triết học để giải thích nhận định sau
đây: “Những ai có thể đặt mình vào vị trí của người khác, những ai có thể
hiểu những suy tư, cảm nhận của mọi người thì khơng bao giờ phải lo lắng
cho tương lai”
Khi chúng ta đặt mình vào vị trí của người khác - tức là “trong một không
gian, thời gian xác định với đối tượng cụ thể (ở đây vật chất đang đứng yên tạm
thời) thì chúng ta sẽ thấy nhiều chuyện xảy ra xung quanh khiến ta có thể nhanh
chóng đưa ra những lời phán xét, bàn tán rồi chê bai. Hãy nhớ rằng, ln có ngun
do khiến người ta hành động và suy nghĩ như cách mà họ đang sống. Đừng vội
12
bng những lời cay nghiệt, thậm chí xúc phạm họ mà chưa tìm hiểu họ, thử đặt
mình vào vị trí của họ để suy nghĩ xem cảm giác của họ thế nào” [2, tr.120].
Đôi lúc tôi nghĩ, “mỗi người trong chúng ta đều giống như một cái cây.
Mỗi cái cây với câu chuyện của riêng mình, khi được gieo hạt nảy mầm ở những
vùng đất khác biệt, chịu luồng khí hậu theo từng miền, được tưới tẩm và lớn lên
theo cách không giống nhau. Những điều kiện xung quanh như: gia đình, xuất
phát điểm, cách giáo dục, trải nghiệm. Tất cả những điều đó đã tạo nên những
góc nhìn khác nhau cho mỗi cá nhân. Nhiều lúc trong đời, ta không thể hiểu điều
người khác suy nghĩ, không thể hiểu mình đã làm gì sai, khơng hiểu tại sao thế
giới lại khơng vận hành theo cách mình hằng tưởng bởi vì chúng ta đã khơng đặt
mình vào vị trí của người khác, do vậy không thể hiểu những suy tư, cảm nhận
của mọi người. Điều mà chúng ta vẫn luôn khẳng định là đúng, có thể khơng hẳn
đúng. Điều mà chúng ta cho là sai, biết đâu không hẳn sai. Để nhìn nhận vấn đề
được khách quan, chúng ta phải có phương pháp luận triết học đúng đắn, đặt
mình vào một vị trí khác với một hệ quy chiếu khác, chúng ta sẽ tìm thấy câu trả
lời đằng sau mớ rối ren khiến mình loay hoay” [2, tr.126].
Đặt mình vào vị trí người khác tức là “chúng ta đặt mình vào trong khơng
gian đó, vào thời gian đó và cả hồn cảnh nhất định từ đó chúng ta sẽ cảm nhận
rõ nhất sự vận động, tồn tại của sự vật, hiện tượng, thấy được các mối liên hệ
của nó với các sự vật, hiện tượng khác. Trên cơ sở đó chúng ta nắm được quy
luật vận động, nắm được bản chất của sự vật vật, hiện tượng, tìn ra được các dấu
hiệu đặc trưng của sự vật, hiện tượng. Khi chúng ta đã có được những tri thức
này thì tất yếu có thể làm chủ được các quyết định, khơng phải lo lắng cho
tương lai. Đặt mình vào vị trí của người, là việc cần làm và nên làm. Nếu chỉ
nhìn bề nổi, chúng ta khó lịng hiểu được nhau” [3, tr.180]. Như người xưa từng
có câu: “Có trải qua khổ đau mới thấu được nỗi đau của người khác”. “Có bước
đi trên con đường gập ghềnh sỏi đá mới biết thương người khác phải nhọc nhằn
cực khổ. Nếu có sự thấu hiểu giữa người với người, việc khiến nhau tổn thương
sẽ bớt đi khơng ít. Nhìn được góc nhìn của nhau, ta mới biết cách sửa chữa và
13
hồi sinh mối quan hệ, tìm lại được những cảm xúc tốt đẹp trong trẻo, lấy lại
niềm tin và hy vọng vào cuộc sống” [3, tr.182].
Do vậy, từ sự phân tích trên chúng ta có thể có cái nhìn đúng đắn về nhận
định “Những ai có thể đặt mình vào vị trí của người khác, những ai có thể hiểu
những suy tư, cảm nhận của mọi người thì khơng bao giờ phải lo lắng cho tương
lai”. Cơ sở của nhận định trên là “phương pháp luận của triết học, là quan điểm
của các nhà kinh điển Mác - Lênin về vật chất, về không gian và thời gian.
Phương pháp luận biện chứng duy vật là một hệ thống các quan điểm, nguyên
tắc nền tảng chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng
phương pháp một cách hợp lý và có hiệu quả. Do vậy, phép biện chứng duy vật
vừa là lý luận, vừa là phương pháp luận phổ biến” [1, tr.56]. Vận dụng phương
pháp luận triết học Mác - Lênin giúp chúng ta giải thích nhận định “Những ai
có thể đặt mình vào vị trí của người khác, những ai có thể hiểu những suy tư,
cảm nhận của mọi người thì khơng bao giờ phải lo lắng cho tương lai” đúng
đắn nhất, khách quan nhất, khoa học nhất.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Hiền, Phương pháp luận macxít và sự vận dụng trong thực
tiễn, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thơng, số 131/2020.
2. Nguyễn Mạnh Thế (2016), Tâm và thuật trong đối nhân xử thế, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
3. Phùng Văn Vĩ (2018), Nghệ thuật đối nhân xử thể, Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
14