Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Cảm nghĩ về bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối được thạchlam thể hiện trong truyện hai đứa trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.42 KB, 46 trang )

Cảm nghĩ về bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối được Thạch
Lam thể hiện trong truyện Hai đứa trẻ.
Đến với Thạch Lam ai cũng biết ông là một cây bút tài hoa xuất sắc của văn học Việt
Nam, là nhà văn lãng mạn thuộc thành viên của nhóm “tự lực văn đồn” nhưng văn của
Thạch Lam lại nghiêng về cuộc sống cơ cực, bế tắc, vất vả của những người nông dân,
tiểu tư sản, thị dân nghèo. Vì vậy trong sáng tác của Thạch Lam xuất hiện chất hiện
thực và trữ tình hịa quyện đan cài tạo nên nét đặc sắc trong cách nghệ thuật. Truyện
ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đã biểu hiện được phẩm chất đó. Hiện lên trong tác
phẩm là bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống, bức tranh tâm trạng của con
người.
Có lẽ điều mà mỗi bạn đọc khi đến với “Hai đứa trẻ” của Thạc Lam phải cảm nhận
được ngay đó là bức tranh thiên nhiên, cảnh hồng hơn của thiên nhiên nơi phố huyện
nghèo khi một ngày đã tàn. Bức tranh ấy có cả màu sắc, âm thanh rất đặc trưng của
thơn q Việt Nam. Bức tranh đó được tác giả đặt trong ba thời điểm :chiều tàn, buổi tối
và đêm khuya. Cả ba thời điểm ấy như tàn dần đi theo thời gian và không gian.
Trước hết người đọc phải thấy được cảnh chiều tàn, cảnh chiều ấy có cả màu sắc của
mặt trời “phương Tây đỏ rực như lử cháy và những đám mây ánh hồng như hịn than
sắp tàn”. Và hình ảnh bóng tối ập đến “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt
trên nền trời”. Tất cả những thứ màu sắc ấy như báo hiệu một ngày đã hết, thời gian
mà con người sống thực với bản thân mình đã đến. Bức tranh ấy có cả âm thanh, thứ
âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam “tiếng trống thu khơng trên cái chịi của
huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều” thứ âm thanh ấy nghe sao mà
nhẹ nhàng, chậm chạp nặng nề buồn tê cả lịng người. Tiếng thu khơng ấy khác chi
tiếng trống trong bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương.
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”
Cũng là tiếng trống buồn rầu, chậm chạp đến đáng sợ ấy. Hay những thứ âm thanh
như “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió đưa vào”,”tiếng muỗi
vo ve” đó là những âm thanh quen thuộc mà vùng quê nào cũng có. Tiếng chõng tre
kêu cót két như bản nhạc buồn vang lên trong buổi chiều tàn. Đối với Liên chị làm sao
quên được “mùi ẩm mốc bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc
quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Tất cả những


thứ âm thanh, màu sắc, mùi vị ấy như hòa quyện vào nhau đưa vào lòng người đọc
một vùng quê êm đềm nhẹ nhàng. Buổi chiều tàn ấy như nhường cho thời gian đêm tối
tràn đến. Cảnh đêm tối ấy như gợi lên cho người đọc được sắc màu, màu của bóng tối
như bao chùm lên tất cả nơi phố huyện này “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông,
con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Cái bóng tối
đáng sợ ấy như ám ảnh con người nơi đây, nó thống trị tất cả từ con người đến cuộc
sống. Ánh sáng khơng phải khơng có, nhưng nó nhỏ bé leo lét khơng đủ sức để xé tan
màn đêm. Thứ ánh sáng ấy như càng làm cho bóng tối trở nên mênh mơng hơn, tối
tăm hơn. Đó chính là khung cảnh chung của làng quê Việt nam lúc bấy giờ. Trong màn
đêm tĩnh lặng ấy người ta có thể nghe thấy cả tiếng lá bàng rơi rụng xuống vai Liên khe
khẽ, từng loạt một. Tiếng động ấy khơng đủ sức ngân vang rồi chìm ngày vào đêm tối.
Lúc đó ta mới thấy giá trị của ánh sáng, nó trở nên vơ giá và rất q báu. Cảnh đêm về
lại càng làm cho không gian trở lên vắng lặng hơn. Và tất cả chỉ mong đợi chuyến tàu
đêm hoạt động cuối cùng trong ngày đi qua.
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy đã diễn ra hoạt động đời sống của con
người. Đó là khung cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn “trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ
bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lúa úa”. Đó là tất cả những gì cịn lại của phiên chợ tàn, hình
ảnh ấy gợi ra đó là những món quà quê rẻ tiền. Từ đó cũng đã thấy được cuộc sống


nghèo nàn còn nhiều thiếu thốn của người dân nơi đây. Tác giả đã chọn thời điểm cuối
ngày đó là lúc chiều tàn cho đến đêm khuya để làm nổi bật cuộc sống của con người
tàn tạ, bế tắc héo úa. Tại sao tác giả lại chọn hình ảnh phiên chợ tàn mà khơng chọn
hình ảnh khác? Phải chăng chỉ có phiên chợ tàn ấy mới gợi ra được cuộc sống tàn tạ
bế tắc trong đêm tối không chút ánh sáng, khơng chút tương lai ở phía trước. Những
kiếp người tàn tạ ấy đang hiện lên trong cái nhìn của Liên tại phiên chợ tàn. Phải chăng
nhân vật Liên có cái nhìn tinh tế lắm? Khác với người phương Tây, người Việt Nam ta
thường có tính chậm chạp, cũng như ở tác phẩm chợ đã tàn nhưng “ một vài người
bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, địn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ cịn
đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa”. Cịn ngồi đường “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở

ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tịi, chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre,
hanh bất cứ cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đến những
đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi học mà cũng phải tham gia vật lộn hy sinh vất vả để kiếm cái
ăn hằng ngày cho bản thân cho gia đình. Ngay cả An với Liên dù khá giả hơn chúng
cũng phải giúp mẹ trông hàng. Kiếp người ấy đâu chỉ là những đứa trẻ mà cịn là chị Tí
với đứa con của mình. Chị kiếm sống bằng cơng việc ngày đi mị cua bắt ốc, tối chị bá
hàng nước. Hàng hóa chị bán là những thứ rẻ tiền, cả cửa hàng như vậy chị chỉ gánh
một lần trên vai là hết. Những người khách của chị là “mấy người phục vụ gạo hay phu
xe, mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa”. Số khách vốn đã ít ỏi nay lại
khơng ổn định ngày nhiều ngày ít”. Tất cả như dự báo cái nghèo sẽ đeo bám gia đình
chị. Câu trả lời của chị Tí với Liên như tiếng thở dài của số phận của cuộc đời “ôi chao!
Sớm với muộn mà có ăn thua gì” nó thể hiện tâm trạng ngao ngán không thể trông chờ
vào quán nước này mà mưu sinh được nữa. Có lẽ trong cái phố huyện nghèo này thì
gia đình bác Siêu là gia đình có kinh tế khá giả nhất. Nhưng khách hàng của bác cũng
ngày ít đi, khách của bác phải là những người có điều kiện về kinh tế. Bởi món hàng
của bác là món hàng sa sỉ nhiều tiền. Dự báo cuộc sống của bác sẽ phá sản vì những
người đi tàu chỉ mua bao thuốc…đâu có để ý đến phở của bác. Hay gia đình bác Sẩm
chỉ biết góp vui bằng tiếng đàn bầu. Trong cuộc sống nghèo khổ ấy đâu ai còn tiền để
nghe bác hát.những đứa con nghịch ngợm bị ra ngồi mảnh chiếu rách. Kiếp người ấy
cũng chính là bà cụ Thi, dù chỉ xuất hiện thống qua nhưng cũng để lại ám ảnh trong
lịng người đọc. Từng ngôn ngữ của chỉ của bà cụ chứng tỏ bà vẫn nhận thức được
cuộc sống “A em Liên thảo nhỉ? Hơm nay lại rót đầy cho chị cơ đấy”. Bà khơng hồn
tồn mất đi mọi cảm giác, nhưng điều đau xót nhất là bà nghiện rượu, bà ln trong
trạng thái bất bình thường với “ tiếng cười khanh khách” khác chi tiếng cười của một
đứa trẻ con. Ta không hiểu tại sao bà lại rơi vào trạng thái khơng bình thường như vậy,
nhưng nó dấy lên một điều lo sợ mơ hồ. Liệu trong cuộc sống khốn khổ ấy sẽ thêm một
bà cụ Thi nữa hay không?
Sự đồng cảm của nhà văn được thể hiện qua cách nhìn, cách cảm nhận của nhân vật
Liên, qua đó ta thấy được nỗi lịng xót thương, xót xa những mảnh đời đầy bất hạnh
của thời gian: vượt lên trên tất cả cả hồn cảnh sống nhưng trong họ ln giàu lịng

u thương giữa con người với con người. Đối với Liên một cơ bé mới lớn khi nhìn thấy
“những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mảnh đất đi lại tìm tịi.
Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì” cơ lại động lịng thương và
muốn cho chúng tiền nhưng bản thân cơ lại khơng có. Hay khi bà cụ Thi vào uống rượu
cơ chỉ “lẳng lặng rót một cút rượu ti đầy đưa cho cụ”. Cố sợ khơng dám nhìn cụ, nhưng
cơ lại thương cụ rót cụ thêm tí rượu để làm thỏa mãn nhu cầu của cụ. Còn đối với mẹ
con chị Tí và mọi người xung quanh thì Liên ân cần, nhẹ nhàng, chu đáo hỏi thăm.
Nhưng cuộc sống không cho họ những gì họ mong muốn mà cịn đẩy đưa số phận của
họ vào những con đường tăm tối với cuộc sống bần hàn khổ cực. Trước hoàn ảnh ấy,
tác giả đã thể hiện sự cảm thơng xót xa cho những mảnh đời nghèo khổ, cơ cực, khơng
có tương lai, không chút ánh sáng của những con người nơi phố huyện này. Đó là ai?
Chính là gia đình Liên, mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, gia đình bác Sẩm và cả


những đứa trẻ nghèo kia. Tất cả họ chỉ sống quẩn quanh trong phố huyện nghèo nàn
này, muốn thoát ra cũng khơng được. Thấu hiểu điều đó tác giả đã thắp lên cho cuộc
sống của họ những ước mơ, khát khao cháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó
cũng chính là ước mơ của họ “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi
sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ” cái ước mơ ấy khơng chỉ về giá trị vật
chất mà cịn tinh thần. Ước mơ ấy được tác giả gửi gắm vào hình ảnh đồn tàu vì đó là
sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Hơn thế nữa chuyến tàu xuất hiện hàng đêm
đó như mang đến một thế giới khác với cuộc sống nghèo nàn, tăm tối mà Liên với
những người khác đang sống. Khi “đèn rọi đã ra” hai chị em Liên đứng hẳn lên để nhìn
cho rõ. Hai chị em Liên háo hức mong đợi chuyến tàu đi qua. Khi đoàn tàu đi qua hai
chị em đứng hẳn lên để nhìn cho kĩ. Chuyến tàu ấy mang đến cho phố huyện tối tăm
một chút ánh sáng của một thế giới vị thành có “các toa đèn sáng trưng, toa hạng sang
trọng, đồng và kền lấp lánh, các cửa kính sáng”. Khi đồn tàu đi qua để lại bao nuối tiếc
trong Liên đầy mơ mộng về một Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và hun náo
mà khi cơ cịn sống ở đó. Đó là hoài niệm của một quá khứ rực rỡ “Liên được uống
những cốc nước lạnh xanh, đỏ, đi chơi bờ Hồ” nhưng hiện tại Liên khơng thể có được.

Phải chăng để vẽ được một bức tranh thiên nhiên, bức tranh của cuộc sống con người
nơi phố huyện nghèo này với sự đồng cảm sâu sắc thì Thạch Lam phải có ngịi bút vô
cùng tinh tế? Thạch Lam là nhà văn lãng mạn vậy nên cách nhìn, cách miêu tả thiên
nhiên trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” rất tinh tế và nhạt cảm. Tác giả lấy điểm nhìn từ buổi
chiều tàn “chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”. Câu văn như gieo vào lòng người
đọc sự êm ả nhẹ nhàng, nhưng cũng từ đó mới gợi được ra cuộc sống tàn tạ bế tắc.
Và khung cảnh đêm buông xuống cũng đầy nhẹ nhàng như vậy “trời đã bắt đầu đêm,
một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Tất cả gợi cái hồn quê tĩnh
lặng, thanh bình, yên ả đều được đặt dưới cái nhìn tinh tế sâu lặng đầy cảm xúc. Điều
đó đã được hà văn gửi gắm qua nhân vật Liên-một cô gái mới lớn có tâm hồn phong
phú tinh tế và giàu lịng u thương.
Chất thơ vẻ đẹp lãng mạn trong truyện được cảm nhận qua cách nhìn về thời gian.
Thời gian trong truyện khơng được miêu tả thống nhanh mà thật chậm dãi qua quan
sát của Liên. Đã tạo lên những giai điệu ngân nga lắng sâu vào trong lòng người đọc
“chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru” nó thể hiện cái nhìn mượt mà, êm ái, nhẹ
nhàng. Hay “tiếng trống thu khơng trên cái chịi của huyện nhỏ, từng tiếng vang ra để
gọi buổi chiều”. Câu văn như gợi một cái gì đó êm ả, dịu dàng, thời gian cứ trơi đi chầm
chậm theo từng bước nhịp của cơn gió “trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như
nhung và thoảng qua gió mát”, những câu văn mượt mà thấm đẫm chất thơ, uyển
chuyển khiến người đọc khó có thể cưỡng lại được cảm xúc tươi mới khiến lịng người
tươi mới, thanh sạch hơn.
Nhưng có lẽ điều mà tạo nên vẻ đẹp lãng mạn trong truyện chính là khơng gian đậm
chất q n bình lặng lẽ của Việt Nam. Những tiếng âm thanh của muỗi bắt đầu vo ve,
hay tiếng thu khơng trên cái chịi của huyện nhỏ. Âm thanh “văng vẳng tiếng ếch nhái
kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Những âm thanh ấy mang đậm chất
hồn quê Việt Nam, tâm trạng u buồn như thấm đẫm vào tâm trạng bạn đọc. Mỗi vùng
quê trầm lặng, đơn điệu cùng những thứ âm thanh rời rạc. Hình ảnh bóng tối chính là
khơng gian của nghệ thuật. Mở màn là cảnh ngày tàn kết thúc là đêm tĩnh mịch đầy
bóng tối. Xun suốt trong tồn bộ tác phẩm chủ yếu là khơng gian bóng tối. Tiếng
trống đánh tung lên một tiếng rồi chìm sâu vào đêm tối. Hay hình ảnh đồn tàu kêu xa

dần rồi chìm vào bóng tối. Phải chăng hình ảnh bóng tối ấy đâu phải là bóng tối của
thiên nhiên mà là bóng tối của cuộc đời con người? Hình ảnh bóng tối ấy như ám ảnh
con người nơi đây gợi lên cuộc sống cơ cực, khơng lối thốt khơng tương lai. Nhưng
dưới cái nhìn của Liên đã trở thành “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió


mát”. Lên ngồi lặng lẽ bên mấy quả thuốc sơn đen “đơi mắt chị bóng tối ngập đầy dần
và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”. Liên “thấy
lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Những câu văn ấy gợi lên chất thơ,
lắng lại những cảm xúc trong lòng người đọc.
Vẻ đẹp lãng mạn của truyện được nhà văn Thạch Lam miêu tả, xây dựng khi miêu tả
ánh sáng trong truyện. Cảm xúc tinh tế của tác giả đã bắt gặp cái nhìn đồng điệu của
nhân vật. Để phát hiện ra ánh sáng hiếm hoi trong ánh lên nhịp sống của con người. Đó
là những hột sáng, khe sáng, chấm sáng, quầng sáng, vùng sáng, vầng sáng. Thậm chí
cịn phát hiện ra hòn đá bên sáng bên tối. Phải tinh tế lắm tác giả mới phát hiện ra thứ
ánh sáng quý giá như vậy? Chất thơ trong truyện được thể hiện qua sự nhìn nhận của
Liên “vịm trời ngàn ngơi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom
đóm bay là là trên mặt
đất hay len vào những cành cây”. Từ đó người đọc thấy được vẻ đẹp thơ mộng đến
tĩnh lặng.
Truyện ngắn của Thạch Lam thường không chỉ dừng lại ở cuộc sống bế tắc, tù túng,
bần hàn. Mà con người nơi phố huyện này còn mang vẻ đẹp đậm nét của con người
Việt Nam. Dù nghèo khổ nhưng luôn cần cù, chịu thương chịu khó, sống ln có tình
cảm chan hịa ấm áp. Đó chính là tình cảm bằng hành động quan tâm của Liên với
những đứa trẻ, bà cụ Thi hay chính mẹ con chị Tí. Sự quan tâm ấy khơng chỉ giúp họ
về vật chất mà còn về cả tinh thần giúp cuộc sống của họ được cải thiện. Hình ảnh
chuyến tàu là hoạt động duy nhất cịn lại trong ngày nó mang giá trị tinh thần to lớn. Đó
là niềm háo hức mê say đối với hai chị em Liên. Khi đồn tàu đến hai chị em Liên đứng
lên để nhìn thật kĩ. Hình ảnh các khoang tàu lối đi nhau chạy, ánh sáng thì kém hơn
mọt lần, người cũng ít hơn. Tàu đi đã để lại nhiều kỉ niệm về Hà Nội xa xăm, đông vui

và náo nhiệt. Gợi về q khứ hạnh phúc mà Liên khơng cịn có được.
Nếu “thơ là hiện thực, là cuộc đời và còn là thơ nữa” thì “Hai đứa trẻ” của nhà văn
Thạch Lam là một tác phẩm như vậy. Truyện không chỉ về cuộc đời mà cịn chính là
thơ. Chất thơ thể hiện cái nhìn của Liên, ở giọng văn của Thạch Lam bàn bạc trong
khắp thiên chuyện. Và nói như Thạch Lam “văn chương làm cho lòng người thêm thanh
sạch và phong phú hơn” thì có lẽ “Hai đứa trẻ” của ơng đã đáp ứng được những địi hỏi
đó. Vì vậy tác phẩm khơng chỉ có giá trị với riêng văn học giai đoạn 1930-1945 mà nó
cịn khẳng định chỗ đứng của mình trong mãi sự nghiệp văn học nước nhà sau này.
2Cảm nhận về bức tranh phố huyện nghèo lúc chiều tối qua truyện ngắn “Hai đứa
trẻ”
Trong Tự Lực văn đoàn, nhà văn Thạch Lam đứng thành một dòng riêng biệt. Nhất Linh
với Khái Hưng cịn có thể viết tiểu thuyết chung nhưng Thạch Lam thì khơng. Giọng
điệu của Thạch Lam nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, sâu lắng, nhiều dư vị, có sức truyền cảm đặc
biệt. Thạch Lam lại hướng về các nhân vật bé nhỏ ở tầng lớp dưới của xã hội. Trong
khi đó, các nhà văn khác của Tự lực văn đoàn lại hướng về các nhân vật thượng lưu.
“Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam, cho khuynh hướng tư
tưởng của Thạch Lam, hướng về cuộc đời, hướng về cái Thiện, cái Mĩ.
Truyện của Thạch Lam khơng có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa
trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu.
Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hồng hơn, rồi đêm
đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ
Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm
thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc
tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người


đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao,
Nguyên Hồng, Tô Hồi (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người
đọc bằng những ước mơ, hồi bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn
Nhất Linh, Khái Hưng, Hồng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu

trên hoa. Bức tranh bằng ngơn ngữ của ơng có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn
dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.
Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức
tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông
xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao
rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây
ánh hồng như hịn than sắp tàn”. Nhưng làng q thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong
cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đơi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ
thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất
mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn
thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh
đời sống phố huyện nghèo.
Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm.
Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và
tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố
huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ
bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh cịn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà
văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá,
khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện
trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.
Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ,
nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi
ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò
cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên
manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác
bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ
khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua
rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những ****
sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong
đêm tối mênh mơng, chỉ cịn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn

Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy
chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà
thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình
ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi
trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những
**** sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.
Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại. Chiều
tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi
ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải
chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một
chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người **** khổ ấy. Nhất Linh
cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão
“chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ
hằng ngày của họ”.
Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang
sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây
thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vơ thức hiện thực đó, khát


vọng đó. Chính vì khao khát được thốt khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên
đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi
qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và
ánh lửa bác Siêu.
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai
cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và
khn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn
lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và
trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ
nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những
người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm

của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta
thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho
những con người lao động nghèo khổ.
3Đề bài: Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người ở phố huyện lúc chiều trong
truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam (chú ý làm rõ những nét đặc sắc trong nghệ
thuật miêu tả của tác giả).
Mở bàiThạch Lam là hiện tượng đặc biệt trong văn học lãng mạn 1930-1945. Ông sở
trường về truyện ngắn. Văn phong của Thạch Lam trong trẻo, nhẹ nhàng, gợi cảm. Và
đằng sau những trang văn tinh tế đầy cảm xúc ấy là tấm lòng trắc ẩn đối với những
kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ.
Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Thạch Lam. Thiên truyện
được in trong tập truyện ngắn Nắng trong vườn (1938). Truyện khơng có cốt truyện mà
chỉ là thế giới tâm hồn của hai đứa trẻ Liên và An thay mẹ trông coi một gian hàng xén,
đêm đêm thức đợi chuyến tàu từ Hà Nội về.
Hiện thực cuộc đời buồn tẻ, vô vọng ở phố huyện nhỏ được thể hiện qua bức tranh
cảnh vật và bức tranh nhân thế.
Phân tích
Bức tranh cảnh vật lúc chiều tối
Tác giả chọn thời khắc hồng hơn - ngày tàn. Cảnh mỗi lúc một tối hơn. Ánh sáng lụi
tàn dần. Bóng tối bắt đầu lan tỏa khắp nơi; trên cái chòi, đám mây và lũy tre làng và
bao trùm lên cảnh vật, gợi lên từ âm thanh của tiếng trống thu không u vang ra từng
tiếng để gọi buổi chiều, gợi lên từ màu sắc: Phương Tây đồ rực như lửa cháy và
những đám mây ánh hồng như hịn than sắp tàn.
Đó là cảnh vật phố huyện nghèo nàn, xơ xác tiêu điều: tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch
nhái kêu ra, cảnh chợ tàn, trên nền đất chỉ còn rác rưởi, một miền đất như đang lụi tàn
trong quên lãng.


Bức tranh nhân thế
Trong cảnh xơ xác, tiêu điều ngập đầy dần bóng tối là những cuộc đời đầy bóng tối:

Những đứa trẻ nghèo vờ vật trong buổi chiều tàn. Mẹ con chị Tí ngày mị cua bắt tép,
tối lại đội cái chõng tre tàn ra sân ga bày bán với một hi vọng còm cõi như chõng hàng
của chị. Bà cụ Thi xuất hiện trong bóng tối và trở về cùng đi lần vào bóng tối... Thấp
thống sau họ là một bà cụ mosm phải cho thuê bớt một gian hàng ọp ẹp, một người
cha mất việc. Bao quanh họ là những đồ vật tàn: những tấm phên nứa dán nhật trình,
cáo chõng sắp gãy...
Tất cả những con người ấy sống đơn điệu từ ngày này qua ngày khác. Nhịp sống
lặp đi khơng thay đổi nói lên cái mịn mỏi, vô nghĩa của kiếp người trong xã hội cũ.
Con người khơng chỉ chịu đựng cuộc sống nghèo mà cịn phải chịu đựng cuộc sống
uể oải, nhàm chán. Nhưng nhân vật của Thạch Lam dường như còn mong đợi một cái
gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ. Họ chờ đợi cái gì khơng rõ, chỉ thấy nỗi
lịng thương xót của nhà văn.
Nổi bật trong bức tranh phố huyện mù tối ấy là hai đứa trẻ, đặc biệt là cô bé Liên
Nhân vật Liên trong thời khắc chiều tối gây ấn tượng cho người đọc ở sự nhạy cảm
và chiều sâu tâm hồn: cảnh thiên nhiên trong ánh nắng chiều lặng trầm và u uất làm
Liên buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn. Liên thương những đứa trẻ nhặt rác
ở bãi chợ.
Nhà văn như hóa thân vào nhân vật để day dứt về kiếp sống vô nghĩa, lụi tàn.
Những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của tác gỉa.
Hai đứa trẻ là truyện ngắn giàu chất thơ:
Chất thơ tỏa ra từ cảnh vật quê hương: khơng gian chiều là khơng gian quen thuộc,
cảnh bình dị nhưng giàu sức gợi. Mùi vị quê hương hiện lên chân thực và thú vị.
Chất thơ tỏa ra từ bức tranh đời sống u buồn, hiu hắt.
Chất thơ còn tỏa ra trong cách tác giả miêu tả hồn người, tác giả tinh tế trong việc
nắm bắt những rung cảm mơ hồ trong tâm hồn nhân vật.
Hệ thống lời văn, hình ảnh góp phần làm ngơn ngữ miêu tả của tác phẩm đầy chất
thơ
Kết luận



Đằng sau bức tranh phố huyện, đằng sau những kiếp người mòn mỏi là tư tưởng
nhân đạo của tác giả. Đó là lịng u nhân ái, nỗi day dứt trước những cuộc đời đơn
điệu, nặng nề. Là tâm hồn tinh tế, đồng cảm với nỗi khổ và khao khát ánh sáng của
họ.
Nghệ thuật miêu tả đặc sắc của tác giả góp phần thành cơng cho thiên truyện.
4Hẳn các bạn đã từng thả hồn mình cho bóng hồng lan rũ xuống để thưởng
thức giọng văn tươi mát dịu ngọt “ngon lành như cánh bướm non” củaThạch
Lam ? Và với giọng văn quyến rũ ấy ông đã gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp
trong lòng người đọc khi miêu tả bức tranh đời sống phố huyện lúc về chiều
Hai đứa trẻ xuất bản năm 1938 in trong tập “nắng trong vườn”. Đã gọi là nắng trong
vườn thì làm sao có được những cảnh ồn ào nhộn nhịp khẩn trương nơi đô thị ?
Buổi chiều nơi phố huyện thật lặng lẽ và cô quạnh. Khơng gian êm ả đâu đó có tiếng
động là tiếng của cơn trùng nỉ non ngồi bãi cỏ. “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như
ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngồi đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Nhịp điệu
câu văn như buông chùn, kéo dài gợi nỗi buồn man mác khó lí giải. Khơng phải tác giả
giật mình nhận ra chiều đang tới mà có lẽ hình ảnh buổi chiều đã in đậm sâu trong tâm
hồn người nên câu văn “chiều, chiều rồi” chỉ đọc ba tiếng nhưng tiết tấu của nó ngân
vang tồn tác phẩm. Âm thanh thiên nhiên biểu hiện qua tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch
nhái bên bờ ruộng xa xa… Thạch Lam đã lấy ngày tàn làm nền bóng tối là gam màu
chủ yếu, bóng tối quê nhà như phủ đầy phố huyện, phủ lên số phận cô đơn tủi cực của
một số kiếp người, trong đơi mắt Liên thì con đường phố huyện thăm thẳm tăm tối, gian
hàng phở của Bác Siêu, manh chiếu của người xẩm mù hay hàng nước của chị Tí đầy
bóng tối. Những ánh đèn leo lét hắt ra từ những ngôi nhà phố huyện tăng thêm đêm tối
mịt mù.
Tuy nhiên, dười ngòi bút tinh tế và nặng lịng gắn bó với q hương thì bức tranh q
hiện lên bình dị và có phần nên thơ. Đó là đời sống phố huyện nghèo được miêu tả
chân thực, cảm xúc trữ tình đã gây cho ta buồn thương day dứt về số phận của con
người.
Hình ảnh những đứa trẻ nghèo hèn nhặt nhạnh bất cứ thứ gì cịn sót lại, cái người ta
vứt trên nền chợ đã làm Liên động lòng thương, Liên rất muốn giúp đỡ chúng nhưng

chính chị cũng khơng có tiền kia mà ! Cái nghèo cái đói đã cướp đi ba dự định tốt đẹp
vốn có tính truyền thống “lá lành đùm lá rách” của đạo lí Việt Nam. Và ở đâu đấy cịn
biết bao hình ảnh thương tâm khác đang diễn ra tương tự trong âm thầm lặng lẽ.
Đó là mẹ con chị Tí dọn hàng để rồi thu xếp hàng về vì chẳng có ai buồn ghé lại uống
cho chị vài bát nước. Chị vẫn ngồi đó, ngồi để làm bạn với lũ ruồi, ngồi để hi vọng về
một điều gì. Bác phở Siêu cũng vậy, ở xứ sở mà người ta chỉ dám mua ½ bánh xà
phịng thì hàng của bác quả là 1 thứ xa xỉ chả ai dám mị đến…Họa chăng người ta chỉ
nhắc đến nó với niềm tiếc rẻ về 1 kỉ niệm xa xôi…Qua giọng văn miêu tả ta cũng thấy
rõ sự ế ẩm chán nản mịn mỏi nơi phố huyện về đêm. Có lẽ hình ảnh đau lịng hơn cả
là gia đình bác xẩm mù bên manh chiếu rách. Thời buổi người ta ko còn lịng thương
để lo cho cho chình mình thì làm sao bác xẩm có thể khơi gợi lịng thương từ người
khác ? bác sờ sẫm cuộc đời mình trong bóng tối ? có lẽ mọi bế tắc của cuộc đời đều
dồn về với bác, bác khơng thấy ánh sáng bình thường cuộc đời và bất hạnh hơn khi
trông thấy được tương lai phía trước. Rồi lại đột ngột xuất hiện tiếng cười trong chuyện
một kiểu Chí Phèo thứ 2. Đó là bà cụ hơi điên tên Thi, một cuộc đời vô cị ko nghĩa lí


cũng tiếng cười man rợ. Đó là cả cuộc sống bế tắc hoàn toàn ko vui buồn hờn giận. Cả
phố huyện dường như bị tê liệt hay mắc chứng bệnh tự kỉ. Chị em Liên cũng vậy hết
dọn hàng rồi lại kiểm hàng mà quanh đi quẩn lại chỉ mấy bánh xà phịng mấy món vặt
cũng tạo thành “gian hàng” của chị. Chính sự lặp lại nhàm chán ấy làm cho họ khơng
màng suy nghĩ khơng màng trị chuyện với nhau. Chợ huyện lạ thật , họ chỉ hỏi nhau và
trả lời theo qn tình vì có chuyện gì đâu để nó với nhau. Quanh đi quẩn lại thì vẫn:
-sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế ?
-cô chưa dọn hàng à ?
Rồi những câu trả lời dường như được sắp xếp sẵn, có khi vừa hỏi thì nó đã bật ra
tiếng cười trả lời :
“ối chao sớm với muộn mà có ăn thua gì”. Cuộc sống của họ như mòn đi. Mẫu đối thoại
rời rạc, câu trả lời nhiều lúc giật mình ta mới nhận thấy người ta nói để có chuyện
chứng tỏ mọi người đã hiểu nhau và ko cịn gì để nó với nhau. Cuộc sống cơ đọng,

khép kín và nhạt nhẽo đến lạ lùng
-dường như sự băng hoại sắp sửa gặm nhắm ấy nếu họ ko có 1 thứ đó là lịng tin,
niềm hi vọng.
Phải, dù trong lịng đêm heo hút hay bán bn ế ẩm nhưng họ vẫn tin tưởng vào 1 điều
gì đó dù rất mơ hồ. Khi con người ta gặp nhiều đau khổ thì cần có 1 niềm tin để sống
cần phải hi vọng dù đang thất vọng .
4 Hai đứa trẻ là tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam được bạn đọc biết đến nhiều nhất. Tác phẩm
được in trong tập Nắng trong vườn (1938). Truyện gây ấn tượng cho người đọc bởi văn phong
nhẹ nhàng, giàu tình người tình đời. Ấn tượng khó qn trong lịng người đọc về thiên truyện
ngắn này có lẽ là hình ảnhhai đứa trẻ mà cô bé Liên là nhân vật được nhà văn Thạch Lam tập
trung
khắc
họa
nhiều
nhất.
Liên là cô bé mới tám tuổi, cái tuổi mà theo như người xưa nói “biết ăn biết ngủ, biết học hành là
ngoan”. Nói đúng hơn là tuổi vơ lo. Nhưng mọi điều đều ngược lại. Dưới ngòi bút của Thạch
Lam, Liên hiện lên với hình ảnh của một cơ bé như già đi trước tuổi. Tuổi thơ chìm trong nỗi
buồn của sự tàn tạ, héo úa của một cuộc sống đầy bóng tối, bế tắc khơng lối thốt. Đối với tâm
hồn thơ bé ấy, đoàn tàu đêm từ Hà nội về chạy ngang qua phố huyện chính là niềm an ủi cuối
cùng
cho
một
niềm
đau.
Thầy Liên mất việc và đặt dấu chấm hết cho những tháng ngày sống ở Hà Nội. Con phố nhỏ
Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương nơi đón chị em Liên về là một nơi đói nghèo trong rơm rạ với những
kiếp người bé nhỏ, lay lắt. Bản thân gia đình Liên cũng chẳng khá giả gì hơn: mẹ làm hàng xáo,
chị em Liên trông coi gian hàng tạp hóa nhỏ xíu với những thức hàng lặt vặt, ngày phiên mà
chẳng

bán
được
bao
nhiêu?
Liên là cơ bé nhạy cảm, hay động lịng trắc ẩn trước những biến thiên của cuộc đời. Tâm trạng
của Liên cũng diễn tiến theo thời gian: từ chiều hơm cho đến khi đồn tàu ngang qua phố huyện.
Truyện mở đầu bằng âm thanh của tiếng trống thu không vang xa để gọi buổi chiều. Đó âm
thanh báo hiệu ngày tàn và cũng là âm thanh chấm hết một ngày đầy ánh sáng mà thay vào đó là
bóng tối và nỗi buồn. Thạch Lam mở đầu truyện rất hồn hậu, rất thơ với bức tranh quê bình dị,
man mác hương đồng gió nội với " Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch
nhái kêu ran ngồi đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào". Đó cũng là thời khắc mở ra thế giới tâm
trạng của Liên, là lúc mà “Trong đơi mắt Liên bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều
quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên khơng hiểu sao nhưng thấy lòng buồn man
mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Buồn mà thấy “không hiểu sao” có nghĩa là cái buồn ghê
ghớm lắm. Buồn mà khơng biết mình buồn vì cái gì thì thật là đau khổ khơng gì bằng. Thạch
Lam đã để nhân vật tự nhận thức và tự bộc lộ tâm trạng chứ không cần kể lể dài dịng. Và bóng
tối đã trùm lên phố nhỏ, trùm lên đồng ruộng, trùm lên cả nỗi buồn của Liên đang thoi thóp thở.
Trong bóng chiều nhá nhem, Liên nhìn về bãi chợ nơi những người bán hàng về muộn. Liên
động lòng thương những mảnh đời cơ cực, đó chính là hình ảnh của “những đứa trẻ con nhà
nghèo đi lại lang thang trên mặt đất nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay những gì cịn sót


lại của mấy người bán hàng”. Hình ảnh đó như xốy sâu vào lịng trắc ẩn của cơ bé tám tuổi giàu
lòng nhân ái. Liên thấy thương những đứa trẻ nghèo nhưng chính chị cũng khơng có tiền mà cho
chúng nó. Thế đấy, nhân vật Thạch Lam thường ít nói nhưng suy tư nhiều và mang đến những vẻ
đẹp của tình người đằng sau những nghĩ suy tha thiết về cuộc sống.
Trong cảm nhận của Liên, bóng tối thật ghê ghớm “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con
đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối là hiện thân của sự
tù túng ngột ngạt, bế tắc khơng lối thốt. Đó là bóng tối của sự đói nghèo, lam lũ. Là hình ảnh
đất nước ta trước năm 1945 đầy nước mắt:

Cha
ơng
ta
từng
đấm
nát
bàn
tay
trước
cánh
Cửa
vẫn
đóng

đời
im
Cả
dân
tộc
đói
nghèo
trong
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi

cửa
cuộc
đời
ỉm
khóa
rơm

rạ

Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập để miêu tả bóng tối và ánh sáng. Nếu như
bóng tối nuốt chửng tất cả phố huyện vào trong cái dạ dày tối thui của nó thì ánh sáng xuất hiện
với tần số thấp. Đó chỉ là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng”… tất cả đều hiện
lên thật bé nhỏ tội nghiệp “ mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Và cùng với ánh sáng nhỏ nhoi,
yếu ớt đó là những phận người với cuộc sống bấp bênh, trơi nổi và lụi tàn, le lói như ngọn đèn
trước gió. Liên thương hết thảy những con người nơi phố huyện nhỏ bé này. Đó chính là chị Tý
với cuộc đời cơ cực “mò cua bắt ốc”, tối đến cùng ghánh hàng nghèo xơ xác chỉ với bát nước
chè, điếu thuốc lào, thanh kẹo lạc… tất cả gia tài mưu sinh bên ngọn đèn con chỉ chiếu sáng một
vùng đất nhỏ. Liên thương bác phở Siêu với ghánh phở xa xỉ, ế ẩm nhưng đêm nào cũng thấy
bác dọn hàng. Thương bác xẩm với manh chiếu rách tả tơi cùng chiếc thau trắng trống trơn chưa
một niềm hi vọng, thương lắm những tiếng đàn bác góp chuyện bật trong yên lặng. Thương bà
cụ Thi điên đơn chiếc với tiếng cười chìm vào bóng tối… Cuộc sống phố huyện là như vậy. Đơn
điệu, tẻ nhạt. Đêm nào cũng như đêm nào, cứ lặp đi lặp lại:
Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.
Điều gì có thể làm chị em Liên quên đi được thực tại này ? May ra chỉ có vũ trụ là cơ hội cuối
cùng để ru hai chị em vào những miền cổ tích. Cảnh hai chị em ngẩng mặt lên trời tìm con vịt
theo sau ông thần nông cho thấy: tâm hồn hai đứa trẻ thật hồn nhiên, vô tư trong sáng và rất đỗi
trẻ con. Nhưng buồn thay, bầu trời đầy sao trên kia cũng không thể nào cứu vớt được hai sinh
linh bé nhỏ, tội nghiệp ấy. Bởi “vũ trụ bao la và thăm thẳm như chứa đầy bí mật và xa lạ với hai
đứa trẻ”. Để rồi cuối cùng chính chúng lại quay về với quang cảnh phố chung quanh mà đặc biệt
là ngọn đèn con của chị Tý. Và cứ thế trong đêm tối những con người tội nghiệp ngồi chờ đợi
một
điều

đó

cho
sự
sống
nghèo
khổ
hằng
ngày
của
họ.
Và đồn tàu từ Hà Nội về đã thực sự là ước mơ và khát vọng của người dân phố huyện. Họ thức
đợi chuyến tàu vì mưu sinh hay vì lí do nào khác nữa. Tất cả thao thức, đợi chờ như thể đợi chờ
một phép màu sẽ đến. Họ mong bán được chút hàng để gỡ gạc cho cuộc sống ngày mai. Cịn
riêng hai đứa trẻ, chúng khơng thức đợi chuyến tàu để bán hàng mà vì lí do khác. Chúng muốn
được nhìn thấy đồn tàu qua phố huyện vì đồn tàu như mang một thế giới khác đi qua đủ làm
cho chúng rạo rực và ánh lên niềm vui sướng dù chỉ là trong chốc lát. Vì thế đêm nào cũng vậy
dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng cả hai chị em vẫn cố thức để đợi chuyến tàu. Điều đó cho thấy
đồn tàu là một hình ảnh đã trở thành quen thuộc và ăn sâu trong tâm hồn hai đứa trẻ và chờ tàu
đã trở thành một khát vọng mãnh liệt và là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống
của
chúng.
Sự mong mỏi của chị em Liên với đoàn tàu quả thật đã làm người đọc xúc động mãnh liệt. Mới
bảy, tám tuổi mà mẹ bắt trơng coi cửa hàng tạp hóa đã là việc làm quá sức lại còn bắt thức cho


tới khuya để chờ bán hàng thì quả là tội nghiệp. Nhưng Liên và An thức tới khi đoàn tàu đi qua
phố huyện không phải là nghe lời mẹ mà là chúng đang hành động theo tiếng gọi của con tàu.
“Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Đó là câu nói của An khi mí mắt đã sụp xuống trong cơn
buồn ngủ rồi mà vẫn còn dặn với chị. Câu nói bình thường thế mà sao mới nghe qua đã thấy xót
thương. Nó chứa đựng trong đó là tất cả niềm khát khao và hi vọng được nhìn thấy đoàn tàu –
hoạt động cuối cùng của đêm khuya. An đi vào giấc ngủ, Liên ngồi im lặng, đầu óc chị bỗng

dưng cũng yên tĩnh lạ thường. Yên lặng đến nỗi có thể nghe được “hoa bàng rụng xuống vai Liên
từng đợt một, có những cảm giác mơ hồ khơng hiểu”. Dường như nhà văn muốn cho nhân vật
của mình được nghỉ ngơi sau một ngày dài mỏi mệt. Thế rồi thống trong tiếng gió xa xơi là
tiếng đồn tàu vụt đến. Rồi tiếng reo thảng thốt, mừng rỡ của bác Siêu “Đèn ghi đã ra kia rồi!”.
Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu
vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xơi. Đó là lúc mà Liên vội vã đánh thức em “
dậy đi An, tàu đến rồi!”. Lời giục dã gấp rút, hối thúc như thể nếu An khơng dậy thì sẽ khơng bao
giờ cịn được nhìn thấy đồn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để miêu tả sự háo hức
của hai chị em mà cái háo hức ấy vẫn cứ hiện lên thật sống động và giàu chất nhân văn.
Hai chị em đứng chờ đoàn tàu từ đằng xa. Chúng có dịp chiêm ngưỡng cái kẻ đã làm chúng đợi
chờ ấy bằng cách đứng gần hơn nữa. Và rồi “tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn
đồn xe vụt qua”. Đây là phút giây hạnh phúc nhất là lúc mà Liên và An dường như quên hết
thảy những nỗi buồn hiện tại, quên cả những đói nghèo lam lũ, ê chề đang bao vây cuộc đời họ.
Trong lịng họ giờ đây chỉ có đồn tàu. Đoàn tàu mang thứ ánh sáng mạnh mẽ, khác thường
ngang qua phố huyện “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường… những toa hạng trên
sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đó là ánh sáng của
sự sang trọng, văn minh, thứ ánh sáng khác xa với những ánh sáng yếu ớt, nhỏ bé nơi phố huyện.
Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng rạch ngang qua bầu trời phố huyện rồi mất
hút vào đêm tối nhưng cái ánh sáng của nó là ước mơ và khát vọng của biết bao nhiêu số phận
con người bé nhỏ đang mong ngóng. Đồn tàu mang một thế giới khác đi qua, chính là khát vọng
muốn được đổi đời của họ. Họ gửi theo chuyến tàu cả tâm hồn của mình, họ muốn được đến với
những chân trời mới, nơi đó có ánh sáng của văn minh của no đủ. Nơi đó sẽ khơng cịn cảnh đói
nghèo lam lũ, khơng có cảnh đơn điệu và buồn tẻ mà ăm ắp niềm vui. Họ xứng đáng được nhận
một cuộc sống như thế, tại sao không? Nhưng ước mơ chỉ là ước mơ. Tất cả lại quay về với
quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn con chị Tý. Chấm hết cho một đêm đợi chờ trong
khát
vọng

kết
thúc

bằng
nỗi
buồn
rưng
rưng
nước
mắt.
Liên và An đứng lặng người trong bóng tối dù chuyến tàu đã “đi vào đêm tối, để lại những đốm
than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em cịn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên
toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”. Sự nuối tiếc của họ dường như đã phơi bày tất cả
một cuộc sống nghèo nàn, bế tắc. Nhất là khi họ tự nhận thức rằng “ Tàu đêm nay không đông và
dường như kém sáng hơn ”. Nghĩa là đoàn tàu cũng chỉ xoa dịu một chút nỗi đau trong tâm hồn
hai đứa trẻ chứ không thể nào phá vỡ bức tường thành mang tên “nỗi buồn” của chúng. Và Liên
lặng người đi trong suy tưởng, đằng sau ánh sáng của đoàn tàu và tiếng động cơ gầm vang đó là
một thế giới rất riêng tư. Đó chính là nỗi nhớ về Hà Nội nơi có ánh sáng của những ngọn đèn,
nơi vui vẻ và huyên náo. Nơi đó là vùng sáng trong tâm tưởng và cũng là vầng sáng trong ký ức
tuổi thơ. Nơi mà ngày xưa chị em Liên được đi chơi bờ Hồ, được uống những cốc nước lạnh
xanh đỏ. Ký ức tươi đẹp thế nhưng giờ họ lại bị cầm tù giữa biết bao nhiêu là buồn bã. Chính
đồn tàu đã mang lại cho Liên liều thuốc an thần và khơi dậy trong tiềm thức biết bao điều tươi
đẹp. Cuộc sống ấy thực sự khác xa với cuộc sống ở nơi này nhiều lắm nhưng biết làm sao được
khi ký ức không thể trở về. “ Một quá khứ huy hoàng. Một hiện tại mong manh. Một tương lai

mịt”.
Đáng
buồn
thay!
Cuối cùng Liên cũng đi vào giấc ngủ, một giấc ngủ chập chờn hình ảnh ngọn đèn con của chị
Tý . Một giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối. Đó chính là một sự ám ảnh về cuộc sống bế tắc, tù
đọng khơng lối thốt mà biết đến bao giờ chị em Liên mới có thể đổi thay.
Với lối viết nhẹ nhàng, mỗi truyện tựa như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, Thạch Lam đã



mang đến cho người đọc sự đồng cảm sâu sắc về những thân phận cuộc đời trong xã hội cũ. Qua
nhân vật Liên nhà văn đã làm toát lên những giá trị nhân văn cao đẹp, giúp chúng ta thấu hiểu
nỗi buồn đau của dân tộc trong thế kỷ bạo tàn dưới ách đô hộ của bọn thực dân và đế quốc.
Trang văn khép lại rồi mà ta còn thấy trước mắt mình hình ảnh hai đứa trẻ ngồi đấy giữa phố
huyện nhỏ nghèo tăm tối đang đợi chờ chuyến tàu đi qua trong khát vọng mỏi mịn.
5. Đề bài: Em hãy phân tích tâm trạng nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
 Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm , ghi lại cảm xúc của mình trước số phận
hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả  , thầm lặng chịu
đựng và giàu lịng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn
nhạy cảm của ơng, cũng như điểm nhìn của tác giả. Nhân vật Liên trong truyện ngắn “
Hai đứa trẻ” là một trong số  những nhân vật điển hình của ngịi bút Thạch Lam. Sự
nhạy cảm ,sự chuyển biến tâm trạng  nhân vật Liên gợi ra nhiều nét tâm trạng của một
cơ gái mới lớn. Những nét tính cách của Liên được bộc lộ qua những chi tiết nhỏ nhặt
trong truyện ngắn, hay chính là những sự thay đổi trong tâm tư tình cảm của tác giả.
Tâm trạng nhân vật Liên trong tác phẩm được thể hiện qua nhiều giai đoạn, nhưng có
lẽ tâm hồn của một cơ gái sẽ có sự nhạy cảm hơn khi cảnh chiều tà và ngày tàn bng
xuống. Với một cơ gái trẻ đầy suy tư những đường nét, âm thanh và màu sắc của chiều
xuống càng khiến cho tâm trạng cơ thêm lâng lâng khó tả. Buổi chiều  ấy bắt nguồn từ
những âm thanh quen thuộc,tiếng trống thu khơng vưng ra từng tiếng,gọi buổi chiều về,
hình  ảnh của những đám mây hồng  ở cuối trời do ánh mặt trời hắt lên. Dưới con mắt
của một cơ gái, hình  ảnh hồng hơn thật khác. Trên nền áng mây  ấy những ngọn tre
cao vút như in hình và cắt hình rõ rệt trên nền trời.  Trong gian hàng đơn sơ chỉ có mấy
thức hàng đơn giản âm thanh của tiếng ếch nhái kêu ran ngồi đồng, đến cả tiếng của
những con muối vo ve, mà Liên cũng cảm nhận được. Chứng tỏ  rằng khơng gian bây
giờ  rất n tĩnh, ngồi Liên ra, khơng khí thật chìm vào buổi hồng hơn,người ta thấy
được sự  chuyển đổi đó khi nhắc tới những âm thanh những dấu hiệu quen thuộc của
một buổi chiều tà. Trước sự  thay đổi của đất trời, cộng với mùi hơi đất bốc lên hay
chính mùi đất mà chính phố  huyện này mới có, nghĩ rồi Liên lại có một nỗi buồn man

mác, có lẽ là do suy nghĩ của Liên về cuộc sống nơi đây , nghèo nàn, cái phố huyện tàn
tạ. Những nét vẽ của đồng q, với hình ảnh quen thuộc nhưng những âm thanh và cả
buổi chiều êm như  nhung đó,dưới con mắt của một cơ gái nó lại trở  thành cái cớ  cho
sự buồn lâng lâng khơng rõ vì sao.
Tâm trạng nhân vật Liên ­ một cơ gái 9 tuổi cịn được thể hiện qua cái nhìn của cơ trong
bức tranh thiên nhiên và con người khi chợ  tàn. Xuất hiện giữa cảnh chợ  tàn là hình
ảnh của những người bán hàng vẫn đang nán lại dù đã vãn chợ từ lâu,mấy đứa trẻ con
thì nhặt nhạnh những thứ cịn sót lại, đó chỉ  là những thanh tre thanh nứa thơi, nhưng
chúng cũng tỏ ra mải mê với cơng việc. Hình ảnh những rác rưởi vỏ cùng với những gì
xuất hiện trong đầu một cơ gái khiến cho cơ buồn. Buồn khơng chỉ  là do cơ cảm thấy
cuộc sống của cả  những người  ở  đây đều nghèo khổ  như  cơ mà cịn chính cơ cũng
buồn vì khơng thể giúp được gì cho họ, kể cả những đứa trẻ. Một vài chi tiết nhỏ nhặt
vậy nhưng lại nói lên được nhiều điều, tâm sự  của một cơ gái. Điều này cịn cho thấy
Liên là một người giàu lịng trắc ẩn.
Đêm xuống hình  ảnh của cuộc sống cũng nhanh chóng chìm vào bóng tối, khiến cho
Liên   buồn   hơn   nhưng   có   lẽ   nỗi   buồn   đó   đã   quá   quen   thuộc   đối   với   cơ.   Hình   ảnh
của phố  huyện chìm vào bóng tối, cách tác giả  lấy ánh sáng để  miêu tả  bóng tối thật
đặc sắc.Khi chợ  tàn đi đêm bắt đầu bng xuống,Liên mở  gian hàng mà cứ  ngồi trên
chõng tre ngắm ngía nơi ở của mình. Tất cả những hoạt động đều được Liên quan sát


bằng một tình cảm u thương cái vùng q hương của bản thân mình. Đó là hình ảnh
ánh sáng và bóng tối quen thuộc nơi đây. Liên mơ  màng ngồi trên chiếc chõng mà
ngắm cảnh tượng  ấy, dường như  Liên đã đưa mắt đi khắp nơi để  tìm kiếm những
nguồn sáng trên khơng gian phố huyện: đó là những hột sáng, những khe ánh sáng từ
ngọn đèn, phên nứa khiến cho cát cũng hiện lên lóng lánh như những hạt vàng. Đó cịn
là ánh sáng của hàng ngàn ngơi sao ganh nhau lấp lánh thế  nhưng khơng xua được
bóng tối của màn đêm. Khi đêm đến cả phố huyện chìm trong một màn đêm khơng đáy.
Và có lẽ Liên cảm nhận được, trong cơ vẫn là một cảm giác mơ hồ buồn.
 Hình ảnh của mẹ con chị Tí với gánh hàng nước vẫn mở, ban ngày mẹ con chị mị cua

bắt tép đêm đến mẹ con chị lại mở qn nước để  kiếm thêm. Bên cạnh đó là gia đình
nhà bác Sẩm với hình ảnh manh chiếu rách và hình ảnh đàn bầu, đứa con bị ra nghịch
cát, bác chưa hát vì chưa có ai nghe. Cịn bác Siêu thì lật đật với gánh hàng phở để đi
cũng đi đến. Trong Liên cảm nhận được tất cả  sự  cố  gắng của tất cả  mọi người    vì
cuộc sống mưu sinh. Đặc biệt tình cảm và u thương trắc  ẩn của Liên thể  hiện tình
thương với bà cụ Thi điên. Ngày nào bà cũng đến quan mua rượu uống rồi lại lảo đảo
bước ra cười khanh khách. Liên rót đầy rượu cho bà cụ, khơng nói gì về hành động hay
nhận xét gì về cụ nhiều nhưng qua cách kể , Liên cũng bộc lộ sự u thương qua cách
Liên nghĩ tới nhân vật này.
Thêm một chút gia vị cho tâm hồn liên, hình ảnh con Tàu đêm đến sẽ khiến cho những
con người nơi đây kiếm thêm chút gì đó, và Liên cũng thế. Chị em Liên cũng thao thức
chờ cho đến khi tàu tới mới thơi. Và cũng chính con tàu là nguồn sáng đưa hai chị em
sống về  những kí  ức thời cịn sung sướng, được đi chơi và uống những thức uống
xanh đỏ. An đã ngủ rồi, Liên cứ ngồi trên chõng mong đợi thao thức.
Khi tàu đến vừa bừng sáng phố huyện nghèo vừa mang đến những nét vui trên gương
mặt của những người nơi đây, khi họ mong tàu như mong một tương lai tươi sáng hơn
cịn chị em Liên đặc biệt là Liên, cơ khơng muốn qn đi một q khứ đẹp đẽ ngày nào.
Liên đang tìm đến những niềm vui trong q khứ  để  bù đắp cho những khó khăn hiện
tại của gia đình. Đối với Liên mà nói con tàu là miền kí  ức tuổi thơ  trở  về  chính vì thế
mà cơ ln trân trọng và muốn nhìn thấy nó qua hình ảnh đồn tàu. Ánh mắt của Liên
tập trung vào ánh sáng của tàu, ánh sáng đó như mở ra bao nhiêu kí ức kỉ niệm, cũng
là niềm khát khao của cơ khi muốn theo những ánh sáng đó tìm kiếm những điều đẹp
đẽ nơi xa xơi mà ngay ở nơi phố huyện nghèo này sẽ rất lâu nữa mới có được. Khung
cảnh khi ánh mắt Liên nhìn cho tới khi ánh sáng đó chỉ cịn một chút le lói nữa mới thơi
cũng cho ta càng hiểu thêm điều đó. Dù khơng bán được gì, hay cơ khơng mong chờ gì
nhiều khi hành khách trên tàu có thể xuống và mua nhiều thứ cho gian hàng của cơ, mà
đợi tàu là mong đợi những con người từ mọi miền, hương vị của kí ức chảy qua..
Chỉ là một cơ gái nhỏ nhưng tâm hồn của cơ chẳng khác gì một thiếu nữ trưởng thành,
cùng với đó là sự  nhạy cảm, giàu lịng trắc  ẩn mà khơng phải ai cũng có. Sự  u
thương cảm thơng và cả những  ước mơ lẫn kí ức đẹp đẽ  đa tạo nên một hình ảnh rất

đặc biệt, qua đây cũng thể hiện tâm hồn của chính tác giả Thạch Lam. Khi miêu tả tâm
trạng nhân vật Liên, Thạch Lam muốn thể hiện được sự nghèo khổ hiện thực chua xót
ấy nhưng vẫn mang những nét thi vị  của chốn bùn lầy nước đọng và cũng là sự  cảm
thơng sâu sắc đối với những nhân vật nhỏ bé của mình.
6. Đề 1: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong “ Chữ người tử tù”của Nguyễn
Tuân?
HD LÀM BÀI:


Nguyễn Tuân- một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ơng có những sáng tác
xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm
đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ,
đó là Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng
sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854.
Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.
@ Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách
ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng trong sáng của một người biết quý
trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết khơng chỉ
là kí hiệu ngơn ngữ mà cịn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện
qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả
qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vng
lắm”, nét chữ cịn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý
đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính
mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một vật báu ở trên đời”. Chữ là vật báu trên đời
thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một khơng
hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp
đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ơng là con người tài tâm vẹn tồn.
 @Sự  thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng  ở  hình tượng Huấn

Cao:
Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo
nho thì đáng lẽ phải thể hiện lịng trung qn một cách mù qng. Nhưng ơng đã khơng trung
qn mà cịn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì
Huấn Cao có tấm lịng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp
bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu
hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong
kiến kia thì ơng sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con
đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không
thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém.
Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ơng có tài
“bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người
hiến có trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án.
Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí
phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hồn tồn tự do
bằng hành động “dỡ cái gơng nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh
đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ơng, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu
nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh
bạc”. Ơng đứng đầu gơng, ơng vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người
anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm
phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong
hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì
thì ơng trả lời:
“Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây ”.
Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên
ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng cịn chẳng sợ …”. Ơng không thèm đếm xỉa đến sự
trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội,
ơng biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di,
uy vũ bất năng khuất”. Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp . Theo ơng,

chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được


nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm
tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở
thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao
cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ơng vốn khoảnh. Ta khơng vì vàng bạc hay uy quyền
mà ép cho chữ bao giờ”.
Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng
cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.
Cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử tù “cổ đeo
gơng, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế
ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối
cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm
nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong
đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp
lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy
trước những người đang chịu tránh nhiệm giam giữ mình. Ơng Huấn đã khun viên quản ngục
như một người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến
chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc
mất cái đời lương thiện đi”.
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng
thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng
đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi
mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắ cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức
nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan
bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn
Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho
mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái

“tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn
song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng
Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật
điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ơng
vẫn sẽ mãi trong lịng người đọc thế hệ hơm nay và mai sau.
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác
phẩm Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước
Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt
cua, Chùa Đàn… sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta
đánh Mỹ giỏi, Sông Đà… Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tn trích trong
tập Vang bóng một thời. Nổi bật trong tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng người
anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí phách anh hùng lẫm liệt khiến mỗi lần gấp trang
sách lại ta không thể nào quên.
Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết
mang đến cho người đọc bao hình tượng đẹp. Tập truyện Vang bóng một thời có lẽ là nơi hội tụ
những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ…Gắn liền với
những thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc chí. Chữ người tử tù là tác phẩm
đặc sắc của Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ơng miêu tả
đặc sắc nhất. Đó là anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang –
thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế
kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà
thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân,


nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con
chữ.
Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí:
Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa

(Mười năm lặn lội tìm gươm báu
Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai)
Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn.
Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn.
Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà cịn là “tài bẻ khóa,
vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây không phải là trị của bọn tiểu nhân vơ lại đục tường
kht vách tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại
trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gơng cùm
xiềng xích để thốt khỏi vịng nơ lệ.
Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo
Nho thường thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống
chịu lầm than mn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường
khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử
tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ơng lại
là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngồi vịng cương
tỏa, lững lẫy chẳng khác gì 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn
của ơng khơng thành nhưng ơng vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời.
Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn
tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ơng vẫn giữ thái độ bình thản, xem
thường, dỗ gơng, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông
xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ
ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn.
Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu
ở ngồi). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ơng lại thản nhiên
nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ
ơng nào xem nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ
ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.
Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô "ta – ngươi", miệt thị hạ
nhục“Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng,
ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái

chết chém cũng cịn chẳng sợ nữa là…” Ơng khơng thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị
mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ơng biết đặt vị trí của
mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, khơng hề có một chút trầy xước
nào. Theo ơng, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng q.Có lẽ
chính vì vậy mà khi nghe tin xử trảm: ơng vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất
chấp cái chết, coi thường cái chết.
Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao cịn là vẻ đẹp của con
người tài hoa. Ơng có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng
như ở Trung Quốc, viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một
thú chơi thanh tao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hoá
một thời. "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng
vọng "có được chữ ơng Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Tuy nhiên, ơng lại là người có
ý thức giữ gìn cái đẹp, có lịng tự trọng: “ Ta nhất sinh khơng vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép
mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình
nhưng lại khơng thể nào có được chữ ơng Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con người ở hai
thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật; Huấn


Cao là kẻ tử tù . Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là
người bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên
bình diện xã hội họ là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình
huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này.
Loading...
Lúc hiểu được tấm lịng viên quản ngục: Ơng Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười”, ngạc nhiên “ta cảm
cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài… thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lịng trong thiên hạ”. Lời
nói rất chân tình, xúc động. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách
nhưng cũng rất có nghĩa khí. Khơng thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn
mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
Hai con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Nguyễn Tn đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ,
tâm huyết và tài năng của mình dồn tụ lại trong một khơng khí cổ xưa hồnh tráng của nghệ
thuật thanh cao:VIẾT THƯ PHÁP.
Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh
cho chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của
xã hội nhà tù và thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực
trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm; tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường
nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián. “Ở đây sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối
cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không,
ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu
của ngọn đèn con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đồn tàu rồi lại chìm vào hư khơng
của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sâu xa hơn thì ánh sáng
đó khơng chỉ đơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa
nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến
thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi
cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con
người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về
cuộc sống lương thiện… Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên
lương” (Lưu Thế Quyền)
Viết thư pháp là nơi thư phịng thư sảnh sạch sẽ thống mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay
nồng. Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn, phàm
tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi
phân chuột, phân gián”. Sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến
lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là
địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con
người”. Vì thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hồnh ngang dọc
cái khát khao của đời mình lên từng vng lụa trắng. Đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một
thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ”mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở
trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy
nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản

ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ
lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông như rồng bay phượng múa, thiên lương của
ông tỏa sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí phách đã hợp nhất thành
Huấn Cao. Dũng và Mỹ hợp thể làm nên bức tranh cho chữ sáng ngời. Kỳ lạ thay, trong cảnh cho
chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị sụp đổ. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến,
nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó khơng cịn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó
chỉ cịn những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp. Cái xấu xa, cái ác, cái chết chóc
nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho
cái ác, cái tàn bạo đó, khơng phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái
Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì
khơng cịn kẻ phạm tội tử tù, khơng có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang


sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm
ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này,
người tử tù đang đi vào cõi bất tử”.
Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương
của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là
nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vng vắn, tươi tắn nó nói lên cái hồi bão tung hồnh
của một đời con người”. Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương
không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên
lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời
khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù
một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: – Kẻ mê
muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái
thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách
và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.
Thành công của Chữ người tử tù là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối
lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết,
lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ

Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản,
thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng
Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời
Vũ Ngọc Phan đã nói: "… văn Nguyễn Tn khơng phải thứ văn để người nơng nổi thưởng
thức".
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp độc đáo thơng qua nhân vật Huấn Cao, thơng qua nhân 
vật tác giả muốn bộc lộ quan niệm về cái đẹp như thế nào.
Nguyễn Tn được mệnh danh là người đi tìm cái đẹp, chính vì thế mỗi tác phẩm của 
ơng được biểu hiện rõ nét với đặc trưng sâu sắc về cái niệm, quan niệm về cái đẹp 
trong tác phẩm. Với việc miêu tả nét tinh cách về nhân vật điển hình, ơng đã bộc lộ 
được nhân vật anh hùng Huấn Cao, thơng qua đó muốn bộc lộ sâu sắc quan niệm về 
cái đẹp của tác giả.
Với việc miêu tả thành cơng tính cách nhân vật Huấn Cao, ơng đã thể hiện được quan 
niệm của mình về tính cách nhân vật, những biểu hiện đó được thể hiện sâu sắc trong 
từng chi tiết, vẻ đẹp của nhân vật cũng được biểu hiện độc đáo, chi tiết nhất. Thơng 
qua tình huống là cảnh cho chữ, tác phẩm đã thể hiện nét đặc sắc nghệ và bộc lộ được
tính cách của nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Mỗi chi tiết được tác giả xây dựng 
chân thực và sâu sắc nhất, tình huống truyện được tác giả miêu tả để làm nổi bật lên 
tính cách của nhân vật.
Nhân vật Huấn Cao xuất hiện trong tác phẩm là người anh hùng với khí phách hiên 
ngang, kiên cường, là nhân vật điển hình xuất hiện trong tác phẩm, nhân vật với biết 
bao nhiêu nét tài hoa, tính cách phóng khống, là người nghệ sĩ chân chính, thơng qua 
tác phẩm, tác giả muốn thể hiện nét tính cách điển hình, đặc sắc, độc đáo trong từng 
hồn cảnh, chi tiết. Mỗi chi tiết biểu hiện nét tài hoa của người nghệ sĩ Huấn Cao, một 
người anh hùng có nhiều nét tài hoa, người nghệ sĩ chân chính.
Huấn Cao là nhân vật điển hình, lý tưởng mà Nguyễn Tn xây dựng để nói lên quan 
niệm của mình về cái đẹp, cái đẹp khơng chỉ là về tài năng mà cịn phải về tính cách, 
nhân cách sống cao cả, đúng đắn, hình ảnh đó đã mang lại cho người đọc cái nhìn sâu 
sắc hơn về tính cách cũng như con người của Huấn Cao.



Qua hình tượng nhân vật này Nguyễn Tn đã thể hiện được quan niệm của mình về 
cái đẹp, cái đẹp ln đi với đạo đức, chữ tâm đi đơi với chữ tài. Cái đẹp là người có tài 
năng, đạo đức, phẩm chất đạo đức cũng ln đi liền với cái đẹp, cái đẹp nảy sinh ra từ 
cuộc sống, tơn vinh và tạo dựng cho con người những giá trị to lớn hơn về cuộc sống, 
cái đẹp ln đem lại cho con người nhiều điều có ích, giá trị hơn.
Biết thưởng thức cái đẹp cũng chính là nghệ thuật chân chính hơn về cuộc sống, nghệ 
thuật đó được thể hiện sâu sắc, chi tiết, hình tượng Huấn Cao được biểu hiện là nhân 
vật điển hình, một người có tài năng, phẩm chất cao q, thiên lương trong sáng. 
Người anh hùng u cái đẹp, ln hết mình vì cái đẹp, vì nghệ thuật trong sáng, ln 
sáng tạo, u mến cái đẹp, say mê trước cái đẹp.
Khơng chỉ u cái đẹp, ơng là người có tâm hồn cao q, biết nhìn và phân biệt được 
những con người mến mộ, u cái đẹp, chân chính, ơng đã khun nhủ Huấn Cao, 
người nghệ sĩ tài hoa, hết mình phụng sự vì cái đẹp, mong ngóng, gây dựng, xây dựng 
cái đẹp chân chính, tài năng.
Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, tác giả đã thể hiện được những nét tính 
cách điển hình, sâu sắc và chi tiết nhất, thơng qua nét đặc sắc và xây dựng hình tượng 
nhân vật điển hình, tác giả đã mang đến cho người đọc những nét tính cách điển hình 
của nhân văn, thơng qua đó nói lên quan niệm của cái đẹp, đó là nghệ thuật chân 
chính, cái đẹp đi liền với đạo đức của con người.
Cái đẹp là quan niệm thẩm mỹ đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Tn cho tác phẩm 
của mình, cái đẹp nảy sinh từ quan niệm thẩm mỹ nghệ thuật, cái đẹp trường tồn, nảy 
sinh từ cái đẹp, hấp dẫn và mang đến cho người đọc nhiều xúc cảm sâu sắc trước cái 
đẹp của những người nghệ sĩ chân chính. Với sự tinh tế và miêu tả sâu sắc tác phẩm 
của Nguyễn Tn ln sống mãi trong trái tim của độc giả.
Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Tn bao giờ cũng tha thiết và trân trọng cái
đẹp, cái tài hoa, nhất là những sinh hoạt văn hóa tinh thần gắn với hồn xưa đất
nước. Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là
truyện ngắn Chữ người tử tù (Trích trong Vang bóng một thời - 1940). Với cảm
hứng lãng mạn, Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, có

một vẻ đẹp lý tưởng, là mẫu người thể hiện hoài bão của nhà văn về lẽ sống ở
đời. Thật thiếu sót khi say mê tài hoa, khí phách của Huấn Cao mà bỏ qua nhân
vật là viên quản ngục.
 Quản ngục dù sống trong mơi trường tàn nhẫn, quay quắt nhưng lại có phẩm chất
đáng q, sở thích cao đẹp. Quản ngục cũng là nhân vật để Nguyễn Tn gửi gắm tâm
sự   và   nhân   vật   này   cũng   góp   phần   thể   hiện   chủ   đề   của   tác   phẩm.
 Xét về  vị  thế  xã hội thì quản ngục thuộc về  thế  lực đối lập mà người anh hùng Huấn
Cao muốn đạp đổ, xóa bỏ. Ơng ta đang duy trì, bảo vệ một trật tự xã hội mục nát. Xét
về chức danh ơng ta gợi liên tưởng đến bọn chúa ngục tàn bạo, đê tiện trong Thủy hử
của Thi Nại Am. Thế  nhưng trong nhãn quan nghệ  thuật của Nguyễn Tn ơng ta là
con người khác hẳn. Đó chính là thái độ, cách ơng đối xử  với tên tử  tù Huấn Cao.
 
Sắp nhận một tử  tù, khi nghe tên Huấn Cao, biết là người có tài viết chữ  đẹp, tài bẻ
khóa vượt ngục, là lãnh tụ  nghĩa qn, người anh hùng thất thế  sa cơ  phải lãnh án
chém,   trong   lịng   quản   ngục   có   ý   nể   trọng   và   cảm   thấy   thương   tiếc.


 Chuẩn bị  đón một tử  tù đặc biệt nên ơng ta sai lính qt dọn buồng giam sạch sẽ và
hơm sau tiếp nhận Huấn Cao khác lệ thường: đơi mắt hiền lành và thái độ kính nể lộ rõ.
Điều   đó   thể   hiện   sự   trân   trọng   nhân   cách   Huấn   Cao   của   viên   quan   coi   ngục.
 Sau đó âm thầm kín đáo, quản ngục biệt đãi Huấn Cao cũng như  các đồng chí của
ơng: ngày nào cũng ăn uống đầy đủ, chu tồn. Phải chăng quản ngục đang âm mưu
điều gì? Khơng phải, quản ngục muốn lấy sự chăm sóc tận tụy của mình để  an ủi một
ngơi sao chính vị  sắp từ  biệt vũ trụ. Đó là tất cả  khả  năng mà ơng ta có thể  để  bày tỏ
thái   độ   sùng   kính,   nâng   niu,   chăm   chút   một   nhân   cách   cao   cả,   một   cái   đẹp.
 Rồi một hơm quản ngục khép nép đến thăm Huấn Cao, bị Huấn Cao xẵng giọng mắng
và tỏ  ra khinh bạc: Ta chí muốn một điều là ngươi đừng bao giờ  đặt chân vào đây.
Quản ngục lễ  phép, nhã nhặn, một mực thành kính đáp: Xin lĩnh ý. Cách cư  xử  điềm
đạm, đúng mực này soi sáng một tâm hồn cao q và sẵn lịng quỳ gối trước hoa mai.
 Sự  tiếp đón và tinh thần phục dịch tận tụy Huấn Cao của viên quản ngục là biểu hiện

một thái độ  tơn trọng, thành kính trước một nhân cách đẹp. Ln hướng về, cái đẹp,
chăm sóc cái đẹp cũng là hành vi trọng nghĩa, một phẩm chất trong sáng cao q hiếm
có loại nhân vật này. u cái đẹp đến mức dám phạm đến phép nước là một tâm hồn
đẹp
 
đẽ
 
hiếm
 
thấy.
 Đối với viên quản ngục chơi chữ là một niềm đam mê từ thời trai trẻ. Khi mới biết đọc
sách   vở   thánh   hiền   là   ông   ta   ln   mơ   ước   có   được   chữ   của   Huấn   Cao.
 Khi được gặp Huấn Cao, ơng ta ln tư  lự, đăm chiêu, nghĩ ngợi tìm cách xin chữ
Huấn Cao cho bằng được. Vì chữ  Huấn Cao là báu vật trên đời, nếu khơng xin được
thì sẽ ân hận suốt đời. Mơ tả chân dung quản ngục lúc này giọng văn Nguyễn Tn trở
nên chậm rãi, trang trọng: Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả  màu.
Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ  đã biến mất. Ở đấy, giờ chỉ còn là
mặt   nước   ao   xuân,   bằng   lặng,   kín   đáo   và   êm   nhẹ.
 Rồi mặt viên quản ngục tái nhợt khi nghe tin Huấn Cao sắp tuột khỏi tay mình về kinh
đơ chịu án chém. Quản ngục hốt hoảng vì sợ  khơng xin được chữ  và xót xa, tiếc nuối
trước
 
một
 
cái
 
đẹp
 
sắp
 

bị
 
hủy
 
diệt.
 Và thật may mắn Huấn Cao đã kịp hiểu quản ngục, nhờ  đó mà ơng ta đã xin được
chữ. Xin được chữ  quản ngục đã bỏ  nghề. Ơng ta đã bị  cái đẹp khuất phục và cảm
hóa.
 Thú chơi chữ tao nhã thanh lịch thật đối nghịch với hồn cảnh cơng việc của viên quản
ngục. Sự tương phản gay gắt này đã làm nổi bật tâm hồn thanh khiết cao q của viên
quan coi ngục. Và giữa bầu trời tăm tối  ấy thêm một ngơi sao sáng bên cạnh ngơi sao
chính vị Huấn Cao. Trước cái đẹp, con người biết trân trọng, khao khát vươn đến cũng
thành
 
một
 
nhân
 
cách
 
đẹp.
 Sống trong mơi trường xấu xa tàn nhẫn nhưng tính cách dịu dàng, lịng biết giá trị con
người là âm thanh trong trẻo, là một nhân cách cao đẹp, thuần khiết, một thiên lương
trong sáng, lành vững đáng được nêu gương ca ngợi: Gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi
bùn.
 Khơng giống Huấn Cao, quản ngục khơng sáng tạo ra cái đẹp nhưng thật lịng u cái
đẹp, trân trọng, gìn giữ  cái đẹp là người có tấm lịng cao đẹp. Trong cảnh cho chữ,
quản ngục thực sự  bị  cái đẹp, tài hoa, nhân cách của Huấn Cao chinh phục, lúc này
được   cái   đẹp   đánh   thức,   viên   quản   ngục   cũng   trở   nên   đẹp   hơn.
 Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tn muốn nói rằng: cái đẹp chân chính và

trọn vẹn bao giờ  cũng có sức chinh phục và có sức sống mãnh liệt. Nhân vật quản
ngục là đối tượng thể hiện khía cạnh khác của chủ đề: biết u cái đẹp là điều kiện để
người ta trở  nên đẹp và giữ  được cái đẹp thiên lương trong bất kỳ  hồn cảnh nào.


 
Nhân vật của Nguyễn Tn thường khơng đặt trên trục thiện ác, chính nghĩa hay gian
tà mà được đặt trong mối quan hệ với cái đẹp. Quản ngục và Huấn Cao thuộc hai thế
lực đối lập nhưng cả hai đều u q và tơn thờ cái đẹp. Do đó dẫn đến sự gặp gỡ kỳ
lạ của hai tâm hồn, hai nhân cách đẹp trong chốn ngục tù. Cách cư  xử  của quản ngục
trước Huấn Cao, trước cái đẹp chính là cách xử  sự  của Nguyễn Tn đối với nhân
cách đẹp. Có thể nói, quản ngục và viên thơ lại là hai mảnh tâm hồn của Nguyễn Tn.
7. VẺ ĐẸP VIÊN QUẢN NGỤC TRONG TRUYỆN NGẮN "CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ" CỦA 
NGUYỄN TN
Nếu như nhân vật Huấn Cao là biểu tượng về cái đẹp với sức mạnh hướng thiện của 
nó, thì nhân vật viên quản ngục được sáng tạo ra là để hiện thực hóa sức mạnh ấy. Có 
viên quản ngục thì ý đồ nghệ thuật của nhà văn mới thực hiện được. Nhưng vai trị cực
kì quan trọng ấy của nhân vật quản ngục khơng dễ nhận ra, bởi vì nhân vật này dường 
như được Nguyễn Tn “giấu” đi, ẩn xuống hàng thứ hai đằng sau nhân vật Huấn Cao.
Cảm giác ban đầu khi đọc Chữ người tử tù, người đọc chống ván, ngập trong ánh 
sáng tỏa ra từ hình tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Từng dịng chữ, từng trang sách 
cứ lấp lánh Huấn Cao. Người đọc chẳng thiết nghĩ điều gì khác ngồi nghĩ về Huấn 
Cao. Nhưng đọc thêm một vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, thấy nhân vật 
quản ngục từ từ hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta bằng một sức mạnh kì lạ. Ta 
càng thấm thía, cảm phục ngịi bút tài hoa, thâm thúy của Nguyễn Tn. Khi được 
khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục sẽ đem lại cho ta nhiều khối cảm thẩm mĩ 
mới mẻ, thú vị.
Tính cách của nhân vật Huấn Cao có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những 
bất ngờ. Trái lại, nhân vật viên quản ngục có sự vận động về tính cách. Trước khi là 
quản ngục, ơng ta cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là 

người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt 
đẹp, ơng ta u đến say mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có 
một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đơi câu đối do tay ơng Huấn Cao viết”.
Nhưng sự đời run rủi, và “ơng trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết 
vào giữa một đống cặn bã. Và những người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ 
quay quắt”, quản ngục sa vào chỗ tối tăm, phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Giữa 
chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ : cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi
đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ơng huấn Cao, gặp thần tượng 
của mình, gặp trong hồn cảnh cực kì éo le : giữa chốn ngục thất, thần tượng của ơng 
giờ đây lại là một tử tù, cịn ơng là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra : 
ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau ; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri 
âm, tri kỉ của nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ 
tài hoa tầm cỡ “thiên hạ đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho luật pháp của triều đình lại 
là người có “tấm lịng biệt nhỡn liên tài”’ ngưỡng mộ tài thư pháp ấy. Cuộc “kì ngộ” 
khiến cho lịng u cái đẹp trong quản ngục sống dậy mãnh liệt tới mức ơng có thể bất 
chấp cả tính mạng và địa vị, mong sao có được mấy chữ của ơng Huấn.
Người đọc hồi hộp theo dõi từ đầu chí cuối tác phẩm, khơng biết quản ngục có xinh nổi 
chữ của ơng Huấn hay khơng ? Nhân vật quản ngục bị đặt vào một thử thách khá gay 
go quyết liệt. Mấy ngày ngắn ngủi ơng Huấn Cao tạm bị giam trong ngục tử tù của y, 
quản ngục ln sống trong tình trạng vơ cùng căn thẳng, hồi hộp. Y thừa biết tính ơng 
Huấn “vốn khoảng, trừ chỗ tri kỉ, ơng ít chịu cho chữ”. Làm sao đây, chỉ trong ít ngày để
có thể lấp đầy khoảng cách giữa “cai ngục” và “tử tù”, để thành “tri kỉ” của ơng Huấn ? 
“Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ơng Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền 


mình mà khơng biết làm thế nào mà xin được chữ. Khơng can đảm giáp lại mặt một 
người cách xa y nhiều q, y chỉ lo mai mốt đây, ơng Huấn bị hành hình mà khơng kịp 
xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Mặt khác, viên quản ngục ln ln phải 
dị xét, đề phịng cả bọn thuộc hạ, ơng sợ “tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với 
quan trên thì khó mà ở n”, ơng phải “dị ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”.

Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với bút pháp giàu chất hiện thực, gần với 
cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính ở đây thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tn. 
Đọc truyện, người đọc như thấy hiện ra trước mắt dáng đi, điệu đứng, lời ăn tiếng nói 
của viên quản ngục này. Lúc ở cơng đường, dáng điệu của y rõ bệ vệ, quan cách, oai 
phong, trầm tĩnh, rõ là chu đáo, cần mẫn trong cơng việc. Tiếp được cơng văn để lĩnh 
nhận sáu tên tù án chém, ơng ta đọc tên từng người và dừng lại ở cái tên Huấn Cao, 
rồi hỏi viên thơ lại để xác minh cho rõ. Nhân vật viên quản ngục khơng chỉ là kẻ biết thi 
hành phận sự, cần mẫn, tận tụy, mà cịn là nhân vật có đời sống nội tâm sâu sắc. Có 
lúc khn mặt tỏ rõ sự nghĩ ngợi đăm chiêu, “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái 
dương”, “người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn 
nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ cịn là mặt nước ao 
xn, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”.
Trong nhận xét rất tinh tế của người dẫn truyện thì viên quản ngục có “tính cách dịu 
dàng và lịng biết giá người”. Ơng được coi “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa 
một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xơ bồ”, là “cái thuần khiết” bị đày ải “vào giữa 
một đống cặn bã”, là “người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Là quản
ngục, nhưng ơng ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ơng cai quản. 
Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục quan là những thứ gơng cùm, 
xiềng xích vơ hình xiết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. “Lũ người quay quắt”, cái 
“đống cặn bã” bao quanh ơng chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù “một buồng tối 
chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đã có 
lúc, ngục quan thấm thía thân phận lạc lồi, cơ đơn giữa chốn tù ngục của chính mình, 
y than thở một mình : “Có lẽ lão bá này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng 
như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”. Nếu như bi kịch của ơng Huấn là bi kịch của 
người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục 
quan là bi kịch lầm đường. kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn cịn có lương tri, lương 
năng, cịn có “lịng biệt nhỡn liên tài”, cịn có khát vọng giải thốt. Y tơn thờ cái đẹp, say
mê cái đẹp để hi vọng tự giải thốt. Lúc ngục quan gặp huấn Cao thì “đầu đã điểm hoa 
râm, râu đã ngả màu”, “bộ mặt tư lự” đã hằn nhiều nếp nhăn của cuộc đời “tù nhân” 
nhọc nhằn, nhưng khát vọng giải thốt biểu hiện ở khát vọng hướng tới cái đẹp vẫn 

mãnh liệt vơ cùng. Âm ỉ bấy lâu, nay nó bùng cháy lên thành lửa ngọn. Ngục quan tự hạ
mình xuống trước tử tù, nhẫn nhục chấp nhận sự “khinh bạc đến điều” của ơng Huấn. Y
khơng ốn thù, y biết người ta, “y cũng thừa hiểu những người chọc trời quấy nước, 
đến trên đầu người ta, người ta cũng cịn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình 
chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Về bản chất, đó là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách 
hồn tồn tự nguyện. Hành động biệt đãi ơng Huấn cũng là xuất phát từ lịng say mê 
đó. Nhưng đến cuối tác phẩm thì khơng chỉ cịn là chuyện say mê, tơn thờ mấy cái chữ 
đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tơn thờ nhân cách cao q của một bậc 
tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ơng Huấn thuyết phục, viên quản 
ngục thực sự cảm động cũng giống như ơng Huấn Cao đã cảm động trước “sở thích 
cao q” và “tấm lịng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành
tri âm, tri kỉ của hai con người cách nhau q xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh 
dấu bằng dịng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo 


một cái vái.
Vận mệnh nghệ thuật của tính cách ơng Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của
thiên truyện ; trong khi đó, vận mệnh vẫn cịn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục : 
người đọc có thể tin rằng sau những lời khun bảo ân cần của ơng Huấn, viên quản 
ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về q ở để giữ thiên lương cho trong 
sạch, lành vững.
Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tn, để vừa 
tơ đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con 
người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất 
mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.
Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang
gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
BÀI LÀM
Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất
sắc nhất của thể loại trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ, người đọc được

cười từ đầu đến cuối, cười một cách hả hê. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải
phẫn uất mà kêu lên: Trời ! Cái xã hội gì mà giả dối, bịp bợm đến thế, bất nhân, bạc ác
đến thế !
Đọc Số đỏ, người ta nghĩ, đây đúng là đất cho ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng.
Trong tác phẩm này, ngón võ ấy đã được sử dụng hết sức lợi hại trong một chương,
chương XV, có nhan đề là "Hạnh phúc của một tang gia". Ngón võ ấy là ngón gì, ấy
chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra không phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu
thuẫn. Mâu thuẫn vốn tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn họ Vũ với cái nhìn sắc
như dao của mình, với cái tài của một “ơng vua phóng sự” bẩm sinh đã nhận ra nó, chỉ
nó ra, nâng nó lên cho cả tồn dân thiên hạ thấy để cười, để căm ghét và khinh bỉ nó.
Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạ lùng, đầy mâu thuẫn: Hạnh
phúc của một tang gia. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh
phúc được ư? Cái chết của người thân gia đình có thể đem lại cho người ta hạnh phúc
được sao ? Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra một cách ác
ý bằng sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng khơng, đó khơng phải
là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của xã hội mà nhà văn muốn
mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mắt.
Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ơng già. Ơng già ấy là cha, là ơng của "một gia đình
đơng đảo và đáng kính" của một xã hội “thượng lưu”. Cả cái gia đình ấy đã "nhao lên
mỗi người một cách". Nhưng nhao lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng... trước cái
chết của người thân chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì.... hạnh phúc ! "Cái chết
kia đã làm cho nhiều người sướng lắm'': Câu văn tưởng chừng như ngược đời kia của
Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm tất cả mọi thứ "thế thái nhân tình".
Nhận định ấy khơng hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật rất rành rành cụ
thể .Ông Phán mọc sừng sau cái chết của ông nội vợ, bỗng thấy cái "sự mọc sừng" của
mình tăng giá lên vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng "mơ màng đến cái lúc mặc
đồ xô gai, lụ khụ chống gậy vừa ho khạc, vừa khóc mếu" để được người ta ngợi khen
"một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,...". Còn ông Văn Minh, cháu đích tôn,
nhà cải cách xã hội ? Ơng ta sung sướng tột đỉnh bởi vì với cái chết của ông nội, ông ta
thấy rằng tờ di chúc đã được thực hiện, nghĩa là cái ao ước cho ơng nội mình chết đi

để được chia của đã trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng theo đúng cách của
một phụ nữ tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội chồng một dịp may hiếm có


để có thể mặc "trang phục tân thời'', "đồ xơ gai tân thời", "những sáng tạo mốt mới" của
tiệm may Âu hoá!
Tâm địa của lũ người kia tưởng đến thế là tởm và lố bịch. Nhưng chưa hết, đến đây, Vũ
Trọng Phụng còn đẩy lên một tầng nữa. Bởi bọn con cháu bất hiếu nhất trần đời đó cịn
muốn tỏ ra mình là kẻ có hiếu, có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế là dưới ngòi bút
của nhà văn trào phúng, sự bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng bộc lộ ra.
Những kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ lòng
hiếu thảo, tiếc thương đối với người đã chết! Chính vì thế ngịi bút của Vũ Trọng Phụng
tập trung sức mạnh như có thần trong phần thứ hai của chương sách - phần tả cảnh
đám ma.
Trước hết nhà văn tả cô Tuyết, một cô gái hư hỏng nhưng chỉ "hư hỏng một nửa", một
thiếu nữ đang rất tiêu biểu cho xã hội "tân thời ngày ấy". Tuyết mặc bộ trang phục nửa
kín nửa hở, với nét mặt đó, "vẻ buồn lãng mạn" vì nhớ nhân tình chứ khơng phải vì
thương người chết, đã gây một hiệu quả lạ lùng. Các vị tai to mặt lớn đi đưa đám chỉ
nhìn vào vẻ khêu gợi của Tuyết để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động trước nỗi
buồn tang tóc vậy.
Đám ma to thật, to đến mức "có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải
mỉm cười sung sướng". Người ta đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu,
khoe sang và để khoe lịng hiếu thảo giả vờ của mình.
Nếu như mong muốn của tất cả đám con của người chết kia là trong đám ma này đưa
sự giả dối, bịp bợm đồng thời là sự tàn nhẫn bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức
hồn tồn thì quả thực chúng đã đạt được một cách trọn vẹn, xuất sắc.
Nhưng chưa hết. Dưới mắt Vũ Trọng Phụng, cái lũ người giả dối khơng chỉ bao gồm
một nhóm nhỏ ấy. Chúng đơng đảo lắm. Chúng là tồn xã hội văn minh Âu hoá. Bắt
đầu là hai nhà đại diện cảnh sát, nghĩa là đại diện của nhà nước, thầy Min Đơ và thầy
Min Toa. Tác giả đã nói lên vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi được chủ nhà đám ma

thuê làm người giữ trật tự. Lí do của sự mừng rỡ, duy nhất chỉ là vì họ đang khơng có
việc gì để làm và đang "buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ". Thứ đến là các vị tai to mặt
lớn, lớp' "hoa" của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi sang trọng; người đeo đầy đủ các
thứ "hội rinh". Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải là đã nhớ đến người
đã khuất, cũng khơng phải vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì... được ngắm
khơng mất tiền làn da trắng thập thị trong làn áo mỏng của cơ Tuyết.
Sự xuất hiện của hai tên đại bịp là Xuân Tóc Đỏ và sư ông Tăng Phú trong dịp này lại
khiến người ta cảm động đến cực điểm. Vì sao? Vì với sáu chiếc xe kéo và những vòng
hoa đồ sộ hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng,
có lẽ là người lương thiện nhất trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng
cảm động đến hớt hải lên.
Những người đi đưa đám thật đông đảo. Bằng điệp khúc "Đám cứ đi..." được nhắc lại
đến mấy lần, tác giả như muốn nói, đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ mà
chiêm ngưỡng để thấy rõ sự to tát của nó. Nhưng cứ thử tìm xem trong đám người
đơng đảo ấy có ai là người đang thực sự "đi đưa đám", nghĩa là có chút tiếc thương đối
với người chết mà họ đang đưa tiễn? Khơng có ai cả, tất cả mọi người, đàn ơng cũng
như đàn bà, già cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chỉnh, nhưng đều đang nói
một điều gì đó, nghĩ một điều gì đó khơng dính dáng đến người chết và đám ma cả.
Trai thanh gái lịch thì chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, ghen tng nhau, hẹn hò
nhau... nhưng tất cả đều "mang vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma".


Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ. Ta sẽ nghĩ như thế. Nhưng, với Vũ Trọng Phụng có
nghe được những lời mà họ nói với nhau mới thấy sự vơ liêm sỉ cịn trơ tráo đến mức
nào mà nhà văn đã đưa ra một số lời ấy.
"Đám cứ đi..." có nghĩa là sự vơ liêm sỉ ấy khơng hề khép lại, nó cịn kéo dài.
Đến lúc đám tang không "cứ đi" nữa mà dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng còn
hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi
tiết thứ nhất là cảnh câu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, giữ những
tư thế đau buồn để cho cậu ta... chụp ảnh. Chi tiết thứ hai là ông Phán mọc sừng, cái

kẻ giả dối và vơ liêm sỉ nhất trong cái gia đình này đã khóc đến tưởng chừng ngất đi.
Tuy vậy, giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ơng ta đã giúi vào tay Xn Tóc Đỏ món
tiền năm đồng vì đã có cơng gọi ơng ta là "người chồng mọc sừng" (chính là cái cơng
gián tiếp khiến cho ơng già chết). Thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trị
đời. Hai chi tiết ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của
con người.
Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong trang sách là thật ư ? Nhưng những điều ấy vơ lí
lắm mà và hình như đều có thật cả. Ngịi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao.
Đằng sau những lời nói như đùa, những cảnh trào phúng cười ra nước mắt, sự thật
của đời sống cứ hiện ra lồ lộ mà trên nó nổi lên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối
trá.

8. Đề bài: Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích “hạnh phúc của một tang 
gia” (trích “Số đỏ”) của Vũ Trọng Phụng 
Dàn bài
I.Mở bài 
Hạnh phúc của một tang gia là tựa đề chương XV của tiểu thuyết Số đỏ. Ở chương 
này, Vũ Trọng Phụng miêu tả đám tang của cụ cố tổ, qua đó dựng lên một màn hài kịch
với mâu thuẫn trào phúng, chân dung biếm hoạ có giá trị tố cáo sâu sắc. Làm nên giá 
trị của chương XV chính là nghệ thuật trào phúng độc đáo của Vũ Trọng Phụng 
II. Phân tích 
1. Thuật ngữ nghệ thuật trào phúng
Trào phúng là nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phê phán xã hội. Để gây 
được tiếng cười trào phúng, điều quan trọng nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và 
tổ chức truyện làm nổi bật mâu thuẫn.
( Nghệ thuật trào phúng” là nghệ thuật tạo tiếng cười mang ý nghĩa đả kích, lên án, 
vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng Tiếng cười chỉ xuất hiện khi phát hiện ra 
những mâu thuẫn trái với tự nhiên rồi phóng đại lên để gây cười. Trong đoạn trích, 
nghệ thuật trào phúng được thể hiện qua cách xây dựng mâu thuẫn trào phúng, tình 
huống trào phúng, mơ tả chân dung trào phúng, cảnh trào phúng và giọng điệu, ngơn 

từ)
2. Mâu thuẫn trào phúng trong đoạn trích
­ Cuối chương XIV, theo lời nhờ vả của ơng Phán, cháu rể cụ cố tổ, Xn tóc đỏ đã 
chào ơng Phán mọc sừng ! Lời chào đó đã khiến cụ cố tổ tức uất ức vì có cơ cháu gái 
hư hỏng và lên cơn bệnh đến nỗi sắp chết. Xn sợ hãi bỏ chạy như một thằng ăn cắp.
Nhưng mọi người lại tưởng hắn là thầy thuốc chính hiệu vì giận nên đã qn hết lương 
tâm nghề nghiệp. Trong khi Xn sợ hãi trốn tránh cả gia đình cụ cố tổ lại mang ơn 
Xn vì làm cho cụ cố tổ chết. Cái chết của cụ đáp ứng sự chờ mong của mọi thành 


×