Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

so sanh kho dau bai tho day thon vi da va kho thu hai bai tho voi vang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.99 KB, 19 trang )

VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

So sánh bức tranh thiên nhiên trong 2 bài thơ
Đây thôn Vĩ Dạ và Vội vàng - Ngữ văn 11
So sánh khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ và khổ thứ hai bài thơ Vội vàng, so sánh
bức tranh thiên nhiên trong 2 bài thơ Vội vàng và Đây thôn Vĩ Dạ được VnDoc.com
sưu tầm và đăng tải trong bài viết này. Mời các bạn tham khảo.
Phân tích tác phẩm Đây thơn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Phân tích nét chung trong cảnh thiên nhiên của Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử
1. Sao anh không về chơi thơn vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
vườn ai mướt quá xanh như ngọc
lá trúc che ngang mặt chữ điền
2. Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hồi xn.
Phân tích Bức tranh thiên nhiên trong hai khổ thơ trên.
Dàn ý:
MB
Tình u thiên nhiên khơng phải là mới mẻ trong thi ca, song ở mỗi nhà thơ bức tranh
thiên nhiên lại hiện lên chứa đầy cảm xúc và góc nhìn mới mẻ. Đến với Đây thôn Vĩ Dạ HMT khổ 1 và Vội vàng - Xuân Diệu ở khổ thơ 2, người đọc được cảm nhận 2 bức tranh
thiên nhiên đầy tươi mới và đẹp đẽ.
TB:
-Tình yêu thiên nhiên: Với HMT tình yêu thiên nhiên gắn với tình yêu quê hương, nỗi
nhớ, kỉ niệm về q hương - nơi ơng đã từng gắn bó sâu sắc, đã có những kỉ niệm với


những con người ơng u mến và cả mối tình 1 thuở của ơng. (Phân tích vẻ đẹp thiên
nhiên trong khổ thơ này). HMT đã sử dụng những từ ngữ vô cùng đắt giá làm sáng lên
một khung cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp của xứ Huế trong buổi sáng sớm. Cảnh vật, cây cối


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

hịa hợp với con người được vẽ lại trong bài thơ rất đỗi thân thương, chan chứa tình yêu
và nỗi nhớ.
Còn bức tranh thiên nhiên mùa xuân của XD thì lại tươi mới, tràn trề sức sống của cây cỏ,
hoa lá, thần, vật. Con người như đang trải mình, hịa mình vào mùa xn tươi mới ấy.
Nhà thơ giới thiệu, nhà thơ vui vẻ, gấp gáp được ôm lấy khung cảnh tươi non này và có
tham vọng chiếm giữ lấy nó cho riêng mình, chiếm giữ lâu dài. (Phân tích để thấy được
vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm trạng của nhà thơ.
=> 2 khổ thơ là hai bức tranh thiên nhiên khác nhau: 1 bên là phong cảnh thơ mộng chứa
chan tình yêu, nỗi nhớ của xứ Huế và một bên là bức tranh xuân rộn ràng, đầy sức sống.
Mỗi bức tranh lại khiến người ta có một xúc cảm riêng, một suy nghĩ riêng nhưng đều
khiến người đọc rung động, yêu thích và muốn được thổn thức cùng tác giả. Đó là vẻ đẹp
mà thơ ca mang tới cho độc giả, đã đem con người lại gần với nhau và rung lên những
rung động từ sâu thẳm tâm hồn mỗi người.
-Bức tranh thiên nhiên được miêu tả bằng những nghệ thuật độc đáo, mới mẻ:
+ Đây thơn Vĩ Dạ: Những hình ảnh vưà quen thuộc dân dã đã được HMT biến trở thành
mới lạ hiện đại. HMT đã truyền vào những chất liệu ấy một màu sắc thẩm mỹ mới.
Không chỉ hàng cau, mà nắng mới trên hàng cau; Không chỉ khám phá ra những lá non
xanh mướt cuả vườn cây mà còn nhận ra cái màu xanh ngọc sang trọng; Không nhắc lại
ngõ trúc, cành trúc hiu quạnh tĩnh mịch cuả ngày xưa mà là “lá trúc che ngang mặt chữ
điền". Câu thơ bao hàm được cả khung cảnh làng quê, ngõ trúc và cuộc sống đang diễn ra,
gần gũi thân thương… (PT dấu hỏi câu đầy ý nghĩa, nhiều cách hiểu) Câu thơ mở đầu bài
Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử: "Sao anh không về chơi thôn Vỹ" là một câu hỏi phản
ánh nội tâm phong phú và tuyệt vời tế nhị của nhà thơ: vừa như mời mọc, vừa như trách

móc lại vừa như một niềm tự an ủi từ trong tâm hồn sâu thẳm của nhà thơ.
+ Xuân Diệu: Hình ảnh thơ mới lạ: tuần tháng mật, chớp hàng mi, thần vui, cặp môi
gần....; những từ ngữ mạnh mẽ, chứa sức biểu cảm cao: ngon, xanh rì...
=> Đều là những nhà Thơ mới, chính vì vậy mà bức tranh thiên nhiên họ mang đến cũng
chứa những nét mới lạ mà thơ ca truyền thống trước đó chưa hề có, cho dù ở mỗi bài thơ
lại có mức độ và điểm riêng độc đáo. Mỗi bức tranh, qua bàn tay mỗi người nghệ sĩ, lại
trở nên khác biệt và độc đáo.
KB: 2 khổ thơ là 2 bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà HMT và XD đã đem đến cho bạn
đọc. Tuy mỗi bức tranh là một vẻ đẹp khác nhau nhưng đều chan chứa sức sống, tình cảm
và đem đến cho bạn đọc những xúc cảm, rung động từ đáy lòng.
Dàn ý chi tiết mẫu 2


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Mở bài:
+ Giới thiệu hai nhà thơ, hai đoạn thơ trong đề bài
+ Giới thiệu ý kiến
+ Vấn đề nghị luận: Tiếng nói của riêng Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử trong những cảm
nhận về sự sống trần gian qua hai đoạn trích.
Thân bài:
1. Giải thích ý kiến
Ngọn gió: tài năng, cảm hứng sáng tạo và tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ.
Tiếng nói riêng: cái độc đáo, nét riêng trong cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ và cách thể
hiện của nhà thơ. tạo nên sự khác biệt, biểu hiện của cá tính sáng tạo, gía trị và sức hấp
dẫn trong tác phẩm.
Ý kiến đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa tài năng, tư tưởng, những trải nghiệm cá nhân
và phong cách của nhà văn. Cái tài, cái tâm cùng với những rung cảm thẩm mĩ là cơ sở
để nhà thơ có được “tiếng nói riêng”, giúp tác phẩm vượt qua những giới hạn, những rào
cản để đến với người đọc và tạo lập nên những giá trị bất hủ.

Chứng minh ngắn gọn bằng lí luận và thực tiễn văn học.
2. Đi tìm tiếng nói riêng của Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử qua hai đoạn trích
Xuân Diệu và Hàn Mặc Từ là hai đỉnh cao, đồng thời cũng là hai hồn thơ đặc biệt nhất
của phong trào Thơ mới 1932 – 1945. Họ có những nét mới, lạ rất khác nhau, điều đó
được thê hiện rõ qua cách cảm nhận và thể hiện hình ảnh của sự sống trần gian ớ hai đoạn
trích của bài Vội vàng và Đây thôn Vĩ Dạ.
Cảm hứng sáng tạo:
Với Xuân Diệu là càm xúc rạo rực, háo hức của một trái tim nồng nhiệt, cuồng si đang
tận hưởng trọn vẹn những âm thanh và sắc màu sự sống. Còn với Hàn Mặc Tử là nỗi
khắc khoải ngóng trơng bằng kí ức về một góc vườn xứ Huế đã trờ thành xa xơi, diệu kì.
Những cảm nhận riêng về thiên nhiên và sự sống trần gian:
Hàn Mặc Tử: thiên nhiên và con người trong buổi ban mai trong trẻo, tinh khôi, lung linh
ánh sáng và dâng tràn sức sống. Cảnh và người vừa gần gũi, cụ thể vừa mơ hồ. nhoà nhạt
trong mơ tưởng.
Xuân Diệu: thiên nhiên tạo vật quấn qt, giao hồ, thấm đẫm màu sắc ái ân, tình tự. Bức
tranh mùa xuân với những sự vật đang khoe sắc, toả hương tươi trẻ. quyến rũ và rạo rực
xuân tình.


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Nghệ thuật thể hiện:
Giọng điệu, ngơn ngữ, hình ảnh… ở mỗi đoạn thơ đều có những nét đặc biệt, thể hiện cá
tính sáng tạo của từng tác giả.
—» Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử đã mang đến cho thơ ca dân tộc và người đọc những góc
nhìn mới mẻ về những cảnh sắc tưởng chừng như đã vô cùng quen thuộc. Sự mới mẻ đầy
hấp dẫn ấy được tạo nên từ tài năng vượt trội, tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, cuộc
sống và trái tim thấm đẫm tình đời, tình người của hai thi sĩ
Đánh giá
“Tiếng nội riêng” không chỉ tạo nên sức sống và sự hấp dẫn của tác phâm mà cịn góp

phần làm phong phú thêm cho thơ ca nhân loại. Vì vậy, sáng tạo bằng tài năng và tâm
huyết của mình vừa là thiên chức, vừa là trách nhiệm của nhà thơ.
Tuy nhiên, chỉ khi nào cái riêng ấy chạm được đến những nỗi niêm, những khát vọng và
những rung động thẩm mĩ của tất cả mọi người và mọi thời đại, thì mới tạo nên tầm khái
quát và chiều sâu nhân đạo cho tác phẩm, đưa tác phâm “băng qua rừng, băng qua biển”
để bất tử trong lòng ngưòi đọc.
Kết bài:
Khẳng định ý nghĩa câu nói
Khẳng định giá trị của hai đoạn thơ
Văn mẫu
Bài Đây thơn Vi Dạ ra đời có ngun cớ sâu xa từ những ki niệm của Hàn Mặc Tử về
cảnh Huế và con người Huế, ông đã từng học ở Huế. Khi làm việc ở Quy Nhơn, ơng có
quen biết một người con gái Huế là Hoàng Cúc. Sau đó, ơng vào Sài Gịn làm báo, có trở
ra Quy Nhơn thì Hồng Cúc đã về thơn Vĩ Dạ, có lần cô đã gửi cho anh một bức ảnh kèm
theo lời thăm hỏi, đây chính là cái cớ đã gợi cảm hứng để Hàn Mặc Tử viết lên kiệt tác
Đây thôn Vĩ Dạ - bài thơ vừa là bức tranh huyền ảo đượm buồn vì cảnh đẹp cố đơ, vừa là
nỗi buồn về một mối tình xa xâm vơ vọng. Tuy nhiên, qua đây ta thấy biết bao nhiêu yêu
mến thiết tha với thiên nhiên, với cuộc sống và đất nước, con người.
B - Khổ 1 (bình giảng): Bắt đầu là một câu hỏi trách móc nhẹ nhàng của một người con
gái. Lời trách thực ra là một thái độ nũng nịu, làm duyên đầy âu yếm) thiết tha: Sao anh
không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi cũng cho ta thấy phần nào tính cách của người hỏi đó là sự thùy mị, kin đáo của
con người gia giáo. Một tình u thành thật được nói với ngơn ngữ tiết chế. Chỉ cẩn thấy
câu thơ này bằng cách diễn đạt: “Anh sao khơng về thăm thơn Vĩ?”, thì cái tế nhị, cái kín


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

đáo đã giảm đi rất nhiều. “Anh” mở đầu nó lộ diện quá, âm thấm gần gũi quá, yêu cầu cái
bổn phận của người ta quá.

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Dòng thứ hai là một sự đáp ứng ngay lặp tức của nhân vật “anh" hình như cái tín hiệu
phát đi thì mong manh, mờ nhạt, cịn nơi tiếp nhận thì lại quá nhạy cảm. Hàn Mặc Tử
không hề suy nghĩ về cái thực, cái hư trong lời mời anh đang chờ đợi và chỉ cần có lời
mời ấy thơi.
Hai câu thơ rất khó giải thích về ý nghĩa thực tế. Người vừa hỏi dứt câu thì kẻ nghe câu
hỏi đã vượt một không gian mênh mông về ngay thơn Vĩ. Thực ra câu hỏi ấy chính là
một điểm lóe sáng trong tâm tư chợt thức. Hàn nghe rất rõ, rất rành rọt nhưng chúng ta
thì khơng nghe. Kí ức riêng tư đã hiện về qua những lần quần quại đớn đau với bệnh tật
nghiệt ngã. Thơ Hàn đầy những nỗi đau thương, đau thưởng đến điên dại nhưng cũng có
khi nó thanh khiết đến tuyệt vời. Trong đau thương thường có những phút giây khoảnh
khắc của hạnh phúc. Người ta phải bám lấy nó như chiếc phao cứu mệnh như sự cứu rỗi
linh hồn. Những phút sáng láng ấy trong thơ Hàn thường là nghĩ về nước Chúa, nghĩ về
một quá khứ và tinh yêu tưởng tượng. Thôn Vĩ hiện lên thật đẹp cứ như một khu vườn cổ
tích, cứ như một cái vườn địa đàng mà Hàn lần đầu tiên phát hiện, nó trùng với cái ước
nguyện về với Chúa. Thôn Vĩ trong con mắt của Hàn đã trở thành một thế giới mà ông
mơ ước. Nó đẹp khơng phải là có những hàng cau cao, những khu vườn sum suê cành lá
và khuôn mặt chữ điền. Cái đẹp ấy nó có mặt ở khắp mọi nơi của thôn quê Việt Nam từ
Bắc đến Nam. Cái đẹp của thôn Vĩ là ở chỗ đôi mắt của họ Hàn. Dường như ông ta
không về ngay thôn Vĩ mà là đứng từ xa, lặng người chiêm ngưỡng sắc đẹp của thơn Vĩ,
sau đó đi gần lại những khu vườn và cuối cùng nó cụ thể hơn là nhìn “lá trúc che ngang
mặt chữ điền’. Nhưng cái quan trọng hơn đó là thơn Vĩ được nhìn vào buổi sáng bình
minh “nắng mới lên", nắng dường như mở ra từ “thượng thanh khí” từ trên trời đổ xuống
ào ạt, phóng khống. Một câu thơ có đến hai từ “nắng”, một cái nắng hiện thực, thắp nến
trên những ngọn cây cau và một cái nắng đẹp đến mức phải bình phẩm “nắng mới lên”.
"Nắng mới" khơi gợi nhứng gì tinh khiết sáng trong, và cái tinh khiết sáng trong ấy nó
truyền từ trên cao tắm xuống cả khu vườn, một thứ nắng tinh khơi, lấp lống. Khu vườn
ấy cho ta một sắc xanh mỡ màng, óng mượt, ngời sáng long lanh. Cả khu vườn lá nõn
mềm mại loáng nướt sương, màu lá và màu nắng đã thành cái màu xanh ngọc diệu kì mà
hơn một lần trong tâm tưởng Xuân Diệu đã nhìn thấy: Đổ trời xanh ngọc qua mn lá.

Cái ấn tượng về khu vườn cổ tích nó được bồi thường bằng sự miêu tả xuýt xoa: "mươt
qua’ và bằng sự so sánh “xanh như ngọc”.
Câu thơ thứ tư có rất nhiều cách hiểu:


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Hàn đã về thôn Vĩ, đã đến khu vườn thôn Vĩ của nhà “ai” và vì thế ơng ta đã ngưỡng
vọng được cái khuôn mặt chữ điền của người con gái mời ông. Nói đơn giản, mặt chữ
điền ở đây là khuôn mặt phúc hậu, đoan trang của người thơn Vĩ.
Có ý kiến cho rằng: Mặt chữ điền chỉ vào một sự vật, cung cấp cái hồn người cho bức
tranh thôn Vĩ. Nó là bức tường phía trên có hình chữ điền thường làm bình phong trước
hiên nhà của những gia đình quyền q Thơn Vĩ là “xóm quang”, có rất nhiều những bức
bình phong chữ điền như thế. Ý kiến thứ ba là đáng tin cậy hơn cá khuôn mặt chữ điền ấy
chính là khn mạt của Hàn Mặc Tử. Thơ Hàn thường có sự gặp gỡ của con người đau
khổ hôm nay với con người của một thời quá khứ tươi đẹp. Thế giới mà Hàn cảm nhận
được thực tế bao giờ cũng xót xa cay đắng, vì thế ở ngồi kia. ở thơn Vĩ là một thế giới
trong tưởng tượng, Hàn có cơ hội gặp quá khứ và gặp chính mình. Vâng, gặp mình trong
khn mặt đầy kiêu hãnh. Lưu ý rằng, lá trúc trong nghìn ẩn dụ là biểu tượng cho quân tử
cho trượng phu.
Dĩ nhiên, câu thơ cuối lúc khơng cần phân tích, khơng nên phân tích bởi có tính phá vỡ
cái tính tơi. Người đọc hồn tồn có thể cảm nhận 1, 2 hoặc 3 cách hiểu cùng một lúc. Đó
là câu thơ sống theo quy luật của nghệ thuật.
Khổ 2: Cảnh và người thơn Vì hát đẹp, thật đáng yêu. Hàn đã hành hương bằng con
đường tưởng, cũng vì thế mà ta niềm khao khát của một tâm hồn yêu trong trái tim dang
dở. Khổ thơ thứ hai là hồi tưởng về một cảnh đẹp không thể tách rời thôn Vĩ.
c. Từ hai bờ sông Trăng ấy bỗng vọng lên một câu hỏi:
Có chớ trăng về kịp tối nay?
Trăng muôn đời là biếu tượng của hạnh phúc, “tối nay” là muốn nói cái thời gian hữu hạn

trước mát, “kịp'’hớ mơ cho ta thày một mặc cảm: Mặc cảm về hiện tại ngắn ngủi, lóe mờ
cho ta thấy một cách sống. Song là phái vội vàng chạy đua với cái chết, với bạo bệnh.
Vâng, mời tới về thơn Vi nhưng có cho tơi được hạnh phúc kịp thời khơng? Vì:
Ngày mai tơi chết bên khe Ngọc Tuyền
Bây giờ tôi dại, tôi diên
Chắp tay tôi lạy mọi miền trần gian
Câu hỏi “có chở...” là một vái lạy không gian thôn Vĩ, con người thôn Vĩ trong cái tâm
trạng điên dại của hiện tại, vì thế nó là khát vọng rất đớn đau. Vì thế, ánh trăng rất nhẹ,
“tối nay” rất ngắn lại được nói băng chữ “kịp”, bằng cái tâm hồn nặng trĩu nỗi đau.
Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, trăng tràn vào mọi thi tứ đẹp nhất của Hàn, đây là tràng xứ
Huế với Vĩ Dạ đó trăng. Cảnh vật làm cho chúng ta thêm một lần yêu Huế đẹp, Huế thơ;


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

tuy nhiên con người thơn Vì ấy là một ẩn số khơng biết có đáp lại một tình u nơng nổi
chân thành. Vì thế mà Hàn tâm sự với trăng.
Khổ 3: Hai khổ đầu nói nhiều đến cảnh, cịn khổ cuối thì chủ yếu nói về tâm sự của nhân
vật trữ tình.
Giấc mơ nào về tình yêu cũng đẹp nhưng giấc mơ được báo động, nó chỉ làm đau khổ trái
tim. "Khách đường xa" nó xa lạ hơn đại từ “ai” và dĩ nhiên sẽ xa lạ hơn rất nhiều người
con gái hỏi câu đầu tiên trong bài thơ. Thế mà “khách đường xa” điệp đến hai lần như
phá vỡ một giấc mơ. “Khách đường xa" hiện lên rồi hình như gót sen rời bước xa dần, có
níu lại cũng khơng sao được.
Đang tuyệt vọng thì người khách ấy lại trở về cho hi vọng, “khách đường xa” đã thành
“em” trong gang tấc. Hạnh phúc đột biến bất ngờ khơng hề được dự báo đã khiến Hàn
chống váng, cái áo trắng kì lạ ấy lại nhìn rất rõ. Có phải là sương khói xứ Huế làm mờ
nhân ảnh mà Hàn "nhìn khơng ra”? Trong ý nghĩa ẩn dụ, đây là một mặc cảm mà người
ta thường có:
Em lớn qúa anh làm sao giữ nổi?

Nên lúc nào em muốn cứ xa anh
Hàn mong ước tình yêu, khi tình yêu khơng tới thì dỗi hờn, trách móc. Nhưng khi người
u hi sinh cho anh (dĩ nhiên do tường tượng) thì Hàn lại sợ, lại khơng dám nhìn vào
hạnh phúc chứ khơng phải là "nhìn khơng ra".
Câu thứ 3: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” lại trở về với nhận thức mình khơng có tình
u. Câu thơ có dư vị chua chát của triết lí ngàn đời "Con quay búng sậu lên trời - Mờ
mờ nhân ảnh như người đi đêm” (Nguyễn Gia Thiều). Vắng, hạnh phúc trong đời là một
cuộc xổ số có mấy ai cầm được tấm độc đắc? Vì thế mà Hàn nghẹn ngào, nghi ngờ, buồn
tủi.Câu hỏi nghi vấn nhưng thực ra là tan vỡ hi vọng một mối tình trong tâm tưởng:
Ai biết tình ai có đậm đà
Hai từ “ai” nhắc lại đối tượng mà mình u vì thế mà nó tha thiết, nhưng cũng vì thế mà
nó xa lạ. Vừa mới xưng “em” được một lần, Hàn đã nhận ra đó là ai. Hàn khơng cần
những tình u thống qua. Muốn có một tình yêu đậm đà trong hoàn cảnh bi kịch đâu
phải dễ?
Đây thơn Vì Dạ là một bức tranh bâng thơ thật đẹp bởi vì có sự hài hịa giữa thực và ảo,
giữa cảnh và người, giữa tình yêu con người và tình yêu thiên nhiên. Tình yêu ấy được
viết ra từ một trái tim của một con người đang ngày đêm đếm từng giờ đê gặp mặt cái
chết thật đáng trân trọng. Hàn sắp về với thế giới bên kia nhưng vẫn khát khao một tình


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

u trần thế. Đó là một giá trị nhân văn, là niềm mơ ước không nguôi của Hàn. Hàn sẵn
sàng ngã giá: Ai mua trăng, tôi bán trăng cho Chẳng bán tình dun ước hẹn hị.
Văn mẫu về bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vỹ Dạ và Vội vàng - mẫu số 2
Nhà thơ Trần Đăng Khoa trong sự nghiệp sáng tác đã từng quan niệm “thơ hay là thơ
giản dị xúc động và ám ảnh”. Đúng như vậy cũng như bao môn nghệ thuật khác, thơ ca
giúp con người trải nghiệm cuộc sống với những cung bậc tình cảm sâu sắc và một thế
giới nghệ thuật độc đáo. Một bài thơ, một đoạn thơ hay chỉ một vần thơ hay ln là
những dịng cảm xúc đầy sức gợi cảm ơn sâu những câu những chữ đặc sắc, mới mẻ và

gần gũi. Nó cuốn hút giữa chân độc giả với một sức mê hoặc đến lạ thường, có lẽ vậy nên
trong bài thơ sổ tay thơ nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết.
“ Câu thơ hay như người con gái đẹp,
Ở đâu đi đâu cũng lấy được chồng”.
Minh chứng rõ nhất cho điều đó chính là sáng tác của các nhà thơ mới tiêu biểu là bài thơ
“Vội vàng” của Xuân Diệu và “Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
Lamartine đã từng tâm sự “Thế nào là thơ Nó khơng chỉ là một nghệ thuật nó là sự giải
thốt của lịng tơi”. Thơ chính là thể loại văn học được viết lên bằng cảm xúc mãnh liệt
của người nghệ sĩ, dưới một hình thức nghệ thuật phù hợp. Câu thơ hay tức là câu thơ có
sức hấp dẫn lơi cuốn và gợi trong lịng độc giả những rung động sâu xa khơng cần lý giải
gì nhiều. Chế Lan Viên đã đưa ra một hình ảnh so sánh khiến người đọc cảm nhận được
mọi điều đó. “Câu thơ hay như người con gái đẹp”, sự so sánh đã chỉ ra chuẩn mực của
thơ. Nếu như vẻ đẹp của người con gái là sự dung hòa giữa cái đẹp ngoại hình và cái đẹp
tâm hồn, thì “thơ hay” là thơ mang vẻ đẹp độc đáo về hình thức và mang nhiều ý nghĩa
về nội dung. Chính vì vậy nên “ở đâu, Đi đâu cũng lấy được chồng”. Chế Lan Viên đã
khẳng định bao giờ và ở đâu nhưng những vần thơ hay sẽ vẫn luôn nhận được sự u
thích, tìm được tiếng nói tri âm, như vậy từ ý thơ trên Chế Lan Viên đã đưa ra được yếu
tố tiên quyết đem đến sự thành công của một thi phẩm, sức sống của thi phẩm đó trong
lịng độc giả chính là cái đẹp hình thức và nội dung thước đo muôn đời của một tác phẩm
thơ hay.
Ý kiến của Chế Lan Viên quả thực là một nhận định đúng đắn. Bởi nó xuất phát từ đặc
trưng của thơ và quy luật tiếp nhận thơ ca. Thơ xuất phát từ tình cảm, cảm xúc là tiếng
nói của trái tim, là sự rung động mạnh mẽ của thi sĩ trước cuộc đời. Nếu khơng có cảm
xúc nhà thơ khơng thể sáng tạo nên những vần thơ hay ngôn tử sẽ là những xác chữ làm
vô hồn trên trang giấy. Nói như Ngơ Thì Nhậm “ hãy xúc động hơn thơ Cho ngọn bút có
thần”. Cịn Xn Diệu lại khẳng định “ thơ hay lời thơ chín đỏ trong cảm xúc”. Văn học
phản ánh cuộc sống con người, với thơ ca nó khơng chỉ là hiện thực ngồi kia mà là


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


những tình cảm cảm xúc bên trong tâm hồn của nhà thơ bởi “thơ là người thư kí trung
thành của trái tim”. Tuy nhiên khơng phải tình cảm nào cũng làm nên thơ những thứ tình
cảm nhạt nhẽo vô vị cưỡng ép bắt buộc không thể làm nên thơ. Tình cảm của người nghệ
sĩ phải mãnh liệt nhất, thơi thúc họ cầm bút sáng tạo đó mới chính là những vần thơ cao
quý. Mặt khác, người đọc tìm đến với thơ là đi tìm tiếng nói tri ân tri kỷ, là giao phó tình
cảm cảm xúc là một “ hồn điệu đi tìm những hồn đồng điệu” vì vậy nội dung tư tưởng
cũng như tình cảm cảm xúc mãnh liệt mới có thể lơi cuốn người đọc, ngược lại thơ sẽ
thiếu sức sống đánh mất đi chức năng cao quý của nó. Và để làm nên một bài thơ hay
không thể thiếu được sự công phu, tinh tế trong nghệ thuật biểu hiện, hay nói cách khác
đó chính là một hình thức nghệ thuật độc đáo cuốn hút bởi một tác phẩm nghệ thuật chân
chính bao “giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. đáp
ứng được những điều đó thì chắc chắn đó là một thi phẩm hay đẹp và mang đầy ý nghĩa.
“Vội vàng” của Xuân Diệu và “ Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử xứng đáng là những
bài thơ hay một người con gái đẹp về cả bên ngồi hình thức và bể sâu tâm hồn.
Xuất hiện trong phong trào thơ mới, Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ mới nhất trong
các nhà thơ mới, với một phong cách độc đáo đặc biệt từng câu từng chữ mà ông viết ra
xứng đáng là “người con gái đẹp”. Bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, cùng với cảm xúc
dạt dào Xuân Diệu đã lay động trái tim người đọc bằng những ca từ về tình yêu về mùa
xuân trần thế. “Vội Vàng” là một trong những thi phẩm như vậy, ấn tượng đầu tiên của
độc giả về bài thơ là mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt tn trào với một tình u cuộc
sống đến ta thiết của thi sĩ muốn “ tắt nắng”, “ buộc gió” để lưu lại mãi hương sắc của
cuộc sống trần gian.
“Tôi muốn tắt nắng đi, cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại cho hương đừng bay đi”.
Ước muốn thật táo bạo, mạnh mẽ thậm chí cịn có phần ngông cuồng của thi sĩ. Nhà thơ
muốn tắt nắng cho màu sắc đừng phai mờ, muốn buộc gió cho hương hoa đừng bay đi,
nhà thơ muốn tước đoạt quyền của tạo hóa của ơng trời. Nhưng suy cho cùng thì ước
muốn đó lại bắt nguồn từ chính tình u cuộc sống tha thiết đến, mãnh liệt.
Xuân Diệu yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên nhìn thế giới như một khu vườn trên mặt đất

với cảm xúc say mê bằng cặp mắt tinh tế xanh non biếc rờn mọi cái đẹp đều như được
thu nhỏ trong từng câu từng chữ có lẽ đây chính là ngun nhân để Xn Diệu có những
ao ước táo bạo như trên.
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Của yến oanh,
Này đây khúc tình si,
Và này đầy ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”.
Mùa xuân ong bướm đi tìm mật, phất phơ với đôi cánh mỏng vui vẻ như đang ở tuần
trăng mật của con người vậy Xuân Diệu lại nhìn đến những nhành hoa nhỏ nhắn đẹp đẽ
đang bung nở trên một tấm thảm xanh gì nơi đồng nội mát mẻ. Rồi nhà thơ lại bị thu hút
bởi những cành cây non tơ vừa mới nhú ra khỏi cành. Nó như đang đu đưa trước gió để
tận hưởng mọi vẻ đẹp của mùa xuân trên cái nền đầy màu xanh mát lạnh ấy, đâu đó cất
lên tiếng hót vang như dàn nhạc của chim Yến oanh làm cho cảnh đẹp này còn đẹp hơn
nữa, còn sống động hơn nữa. Mùa xuân đến còn đem theo thứ ánh nắng ấm áp như cặp
môi, đôi mi của người con gái làm cho nhà thơ như đang sống trong tiên cảnh phải thốt
lên rằng.
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tháng giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân. Xuân
Diệu đã nhìn đã cảm nhận được tất cả những tinh tui đẹp đẽ nhất trưa nay người ta cứ
tưởng cõi tiên phải ở nơi xa, nhưng Xuân Diệu qua đây đã cho mọi người thấy rằng cõi
tiên ở ngay trên mặt đất nơi chúng ta đang sống. Điều quan trọng là mỗi người có cảm
nhận được điều đó hay khơng.
Người con gái đẹp, cũng có lúc vui vẻ tràn đầy sức sống, cũng như một câu thơ hay có

lúc thăng hoa nhưng cũng có lúc suy tư chiêm nhiệm. Bên cạnh những câu thơ hay về
niềm vui trước cuộc sống của mùa xuân thì vội vàng cịn là sự nuối tiếc trước thời gian
chảy trơi không ngừng trong khi tuổi xuân đời người lại hữu hạn ngắn ngủi.
“ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tơi cũng mất,
Lịng tơi rộng nhưng lượng trời cứ chật,
Khơng cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi răng Xuân văn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thăm lại”.
Nếu như người xưa cho rằng thời gian là tuần hồn Đơng qua, Xn tới, q trẻ sang già,
hết kiếp này sang kiếp khác đó là điều đương nhiên. Nhưng đối với Xn Diệu, ơng nhìn
sao thời gian trơi trẩy tuyến tính, một đi khơng trở lại đời người hữu hạn so với thời gian


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

vơ hạn đã gắn Tuổi Trẻ của con người so với nó lại càng ngắn ngủi hơn Xuân Diệu đã lấy
tuổi trẻ làm thước đo của thời gian khiến người đọc như cảm thấy rơi vào sự suy tư lo
lắng. Thời gian cứ trôi vạn vật cứ xa dần với cuộc sống. Nếu như trên coi là bức tranh
mùa xuân xanh non, tình tứ thì bây giờ sự nhắn lại bao trùm khắp cảnh vật.
“ Mùi tháng năm đều thắm vì chia phơi,
Khắp sơng núi vẫn than thầm tiễn biệt,
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi,
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng hờn độ phai tàn sắp sửa,
Chẳng bao giờ tôi chẳng bao giờ nữa”.
Đoạn thơ như là tiếng than, tiếng thở dài sự nuối tiếc lo lắng về sự chảy trôi của thời gian,
lan cả ra những thứ vô tri vô giác. Xuân Diệu như đang cảm nhận được tất cả đều sợ sệt

trước sự tuyến tính vơ tình của thời gian.
Cảnh vật thì lúc nào cũng đẹp nhưng thời gian cứ không ngừng trôi, con người khơng thể
mãi mãi níu giữ thời gian mà chỉ đành phải chấp nhận. Thế nhưng khơng phải là khơng
có cách, không phải là bất lực buông xuôi, để khống chế được điều đó Xuân Diệu đã
khao khát giao cảm trực tiếp và tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống trần thế. Chỉ có
như vậy con người mới có thể sống vui sống hạnh phúc chỉ có nhanh vội vàng thì cái đẹp
mới khơng bị trơi đi lãng phí.
“ Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,
Và non nước và cây và cỏ dại,
Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi,
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.
Đầu tiên để ôm, để tận hưởng trọn vẹn được cuộc sống, sau đó là “siết”, để đi sâu kỹ
càng, tiếp đó là “thâu” để say đắm, tràn ngập Xn Diệu khơng đơn thuần chỉ nhìn cái
bên ngồi mà còn phải cảm cái bên trong cho đến khi đã đẩy chếnh chống, no nê. Nhưng
vậy thơi vẫn chưa đủ cái khoái cảm cái bộc lộ trực tiếp mãnh liệt nhất của Xuân Diệu


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

chính là “cắn”. Có người từng nhận xét Xuân Diệu hưởng thụ thiên nhiên như “hưởng
thụ ái tỉnh”. Điều đó quả khơng sai và qua đây ta đã thấy rõ sự cảm nhận đó thật khác lạ
mới mẻ táo bạo đến mãnh liệt.
Người con gái đẹp bên cạnh tâm hồn đẹp cịn là cái đẹp về hình thức, nó cũng như Thơ.
Thơ hay và thơ phải có cái đặc sắc về hình thức, bên cạnh cái ý nghĩa của nội dung và
thiết tha ở tình cảm. Cái đẹp ở hình thức mà khơng được bộc lộ thì có mà gửi gắm được
nội dung đến với người đọc. vội vàng quả thực là người con gái đẹp bởi không chỉ hàm

chứa Nội dung sâu sắc mà cịn có hình thức phù hợp đặc sắc. Điều đó thể hiện trước hết ở
việc lựa chọn thể thơ tự do, với các dịng thơ dài ngắn khơng đều nhịp, thơ thay đổi linh
hoạt phù hợp diễn tả cảm xúc sôi nổi dâng trào của thi sĩ. Hơn nữa bài thơ được cấu trúc
theo lối triết luận vừa có sự hấp dẫn của cảm xúc mãnh liệt cháy bỏng, vừa logic chặt chẽ.
Cuối cùng ngơn ngữ thơ vừa chính xác vừa mới mẻ táo bạo sử dụng nhiều động từ mạnh,
các tính từ miêu tả kết hợp với các biện pháp tu từ như so sánh, điệp từ liệt kê, bút pháp
tương giao làm nên vẻ hoàn thiện, hoàn mỹ của bài thơ.
Nếu như Xuân Diệu là nhà thơ có phong cách sống u đời thiết tha ln vui tươi, tình tứ
thì đến với Hàn Mặc Tử lại là một nhà thơ của sự đau buồn điên loạn. Cuộc đời ngắn
ngủi nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời biết bao bài thơ hay càng độc càng bị lôi cuốn
càng bị thu hút đến khơng ngờ. Trong số những bài thơ đó thì “Đây Thơn Vĩ Dạ”, có thể
được xếp vào nhóm đầu vào những thi phẩm hay nhất của ông. Cảm xúc bao trùm bài thơ
là tình yêu đến với mảnh đất con người xứ Huế, nỗi buồn mặc cảm chia ly xa cách và ước
mong được đồng cảm sẻ chia đây chính là cái đẹp bên trong của người con gái, là cái ẩn
ý của một bài thơ. Những cảm xúc mãnh liệt cao đẹp ấy được thể hiện ở ba khổ thơ với
những sắc thái cụ thể.
Đến với khổ thơ thứ nhất đó là nỗi day dứt khi chưa về thăm thôn Vĩ. Đoạn thơ mở đầu
bằng một câu thơ tu từ khá đặc biệt.
“ Sao anh không về chơi thôn vĩ”.
Mang biểu hiện là một câu hỏi nhưng tính chất của nó lại rất đa nghĩa. Đó cịn có thể là
lời mời lời trách móc của một cơ gái trách chàng trai hay của chính anh trách anh. Nhưng
dù sao đi chăng nữa nó vẫn là nỗi lịng da diết nhớ đến một miền quê xinh đẹp mình đã
từng gắn bó thơn Vĩ. Chữ về với một cảm giác thân thuộc, trong khi đó chữ chơi lại gợi
sự gần gũi đến thân thiết. Tất cả gợi lên được mảnh đất là máu và xương, là một phần
không thể tách rời trong trái tim người nghệ sĩ. Phải chăng chính vì gắn bó như vậy, nên
chỉ qua hai nét vẽ thơn Vĩ dường như đã hiện ra tồn diện trước mắt người đọc.
“ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.



VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Thơn Vĩ nổi tiếng với những hàng cau thẳng tắp xanh tốt bốn mùa vào mỗi buổi sớm mai
nắng dịu nhẹ chiếu lên thân cau càng khiến cho thôn Vĩ trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn.
Không như vậy hình ảnh Vĩ Dạ được hiện lên cịn q cảnh vườn tược trần đầy màu xanh
và sức sống. Sớm mai cũng là lúc xương dài ở cái nơi mưa nhiều nắng nhiều này. Chính
vì vậy khi những giọt sương còn đọng trên lá, được ánh nắng chiếu vào khiến nó long
lanh như màu ngọc bích gây ấn tượng mạnh với thi sĩ. Ơng cha ta từng nói “u nhau yêu
cả đường đi”. Vĩ Dạ vốn là mảnh đất của người con gái Hàn Mặc Tử, tình u Hồng
Cúc. Khi u nhau rồi dù nó có xấu thì trong tâm trí người kia vẫn là đẹp, huống gì Vĩ Dạ
đã rất đẹp rồi thì vào tâm trí Hàn Mặc Tử nó khơng chỉ là đẹp mà cịn thơ mộng và rất đỗi
thiêng liêng. Không những cảnh Vĩ Dạ đẹp mà người Vĩ Dạ cũng rất đẹp.
“ Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Nét mặt đó hiện lên với bao nhiêu phúc hậu chân thật làm say đắm trái tim thi nhân. Hơn
nữa con người nơi đây cũng rất chăm chỉ, bởi vậy mới có cảnh vườn tược xanh tốt thế kia.
Nếu như khổ thơ thứ nhất cái đẹp bộc lộ ở cảnh đẹp, người đẹp thì sang khổ thơ thứ hai
cái đẹp bộc lộ ở tâm trạng. Đó là sự đau đau về thời khắc gặp gỡ còn kịp. Tâm trạng đó
được mở đầu bằng hai câu thơ “Tả cảnh, ngụ tình”.
“ Gió theo lối gió mây đường mây,
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Xưa nay gió, mây cùng lối thế mà giờ đây gió đi một hướng, mây theo một nẻo gợi cảm
giác chia ly. Bên cạnh dịng sơng buồn thiu là sự đu đưa của hoa bắp lay, gửi một cái gì
đó mong manh, yếu ớt. Dường như tâm trạng thi nhân lúc này vừa buồn, vừa đau đớn,
thất vọng để rồi từ đó là sự đau đáu hi vọng.
“ Thuyền ai chờ bến sơng trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay”.
Sơng trăng nghe như gì đó rất huyền ảo và thơ mộng, đối với người bình thường Trăng
khơng về tối nay cịn có tối mai, tối khác, cịn đối với Hàn Mặc Tử Trăng khơng về tối
nay thì quả thực là đã muộn, đã lỡ. Nhà thơ đau đáu đến khuôn nuôi nên khi đọc hai câu
thơ đó tâm trạng người đọc cũng đồng cảm đến ray rứt, bồn chồn.

Cuối cùng đến với khổ thơ thứ ba đó chính là hồi nghi về sự bền chặt của tình người,
tình đời Hàn Mặc Tử cách ly với đời nhưng ln một lịng nhớ về Hồng Cúc về mảnh
đất Vĩ Dạ nhỏ bé thân thương.
“Mở khách đường xa khách đường xa,
Áo em trắng q nhìn khơng ra”.


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Giờ đây trong tâm trí của thi nhân cịn có thể mơ được thơi. Mà càng mơ thì càng nhạt
nhòa, giống màu áo trắng ẩn hiện trong mây trời sương khói. Khoảng cách ngày càng xa
dần, con người ngày càng tiếc nuối với tình người, tình đời. “Em” lẽ nào chính là Hồng
Cúc chính là người để lại dấu ấn trong lòng thi nhân để rồi Hàn Mặc Tử đã viết:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà”.
Ở đây là Vĩ Dạ vùng đất mưa nhiều nắng nhiều hay là nơi Hàn Mặc Tử đang ở nhưng dù
ở đâu thì đều khó nhận ra, khó nhìn được. Trong tâm trí thì nhân lúc bây giờ hắn đang bị
vây bùa bởi những làn sương bất hạnh của cuộc đời. Bên ngoài cảnh vật liệu buồn thì
chắc rằng lịng người càng khơng thể vui hơn. Nhưng trơng chính lúc con người thế này
Hàn Mạc Tử có thể có những suy nghĩ tình cảm chân thành và đúng đắn. Có lẽ vậy trăng
lên Hàn Mặc Tử qua dòng thơ cuối cùng đã khẳng định chắc chắn rằng dù người xứ Huế,
người Vĩ Dạ giờ đây có tình cảm thế nào với nhà thơ nhưng nhà thơ vẫn luôn nhớ về
mảnh đất và con người nơi đây đến thắm thiết, khôn nguôi.
Bên cạnh nội dung đặc sắc với một tình cảm đậm đà thì Đây Thơn Vĩ Dạ cịn là người
con gái đẹp về cả bề ngồi hình thức.
Bài thơ được tổ chức làm ba khổ thơ dưới hình thức ba câu hỏi đầy day dứt băn khoăn
ngơn ngữ được sử dụng giản dị chính xác tinh tế gợi cảm có nhiều lớp từ cực tả. Bút pháp
bài thơ vừa cổ điển vừa hiện đại vừa tả thực vừa gợi tả mang màu sắc tượng trưng siêu
thực cùng với các biện pháp nghệ thuật so sánh nhân hóa điệp từ được sử dụng thích hợp
tạo nên vẻ đẹp hồn mỹ của bài thơ.

Vội vàng và Đây Thơn Vĩ Dạ của thực là hai bài thơ hay là hai người con gái đẹp cả xác
lẫn tâm. Cả hai bài thơ đều là tiếng nói mãnh liệt của Cảm Xúc con tim và được thể hiện
qua một hình thức phù hợp gây ấn tượng với độc giả. Cũng qua hai bài thơ ta càng hiểu
thêm được về ý kiến của Chế Lan Viên nó khơng chỉ là thước đo đánh giá bài thơ mà còn
là đặt ra yêu cầu sáng tác đối với nhà thơ và tiếp nhận đối với người đọc. Đối với người
cầm bút luôn phải sống thật sâu với cuộc đời phải có cảm xúc mãnh liệt và thể hiện bằng
một lớp vỏ độc đáo. Đối với độc giả tìm đến với Thơ cần lấy hồn ta để hiểu hồn người
phải thấy cái đẹp ở thơ qua từng câu từng chữ.
Người Trung Hoa xưa đã nhận xét thơ hay như người con gái đẹp cái để làm quen là
nhan sắc nhưng cái để sống với nhau lâu dài là Đức Hạnh. Chứ nghĩa là nhan sắc của thơ
tấm lòng mộc là Đức hạnh của thơ.
Dường như ý kiến trên rất giống với nhận định của Chế Lan Viên. Thơ hay bao giờ cũng
để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người vội vàng của Xuân Diệu và Đây Thôn
Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử xứng đáng là minh chứng tiêu biểu cho điều đó. Khơng những có


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

để ngồi tiêu biểu đẹp đẽ độc đáo mà ý thơ cũng rất chân thật mãnh liệt. Có lẽ chính vì
vậy giá trị của bài thơ sẽ cịn tồn tại mãi đến với người đọc cả hôm nay và mai sau.
Văn mẫu về bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vỹ Dạ và Vội vàng - mẫu số 3
Thiên nhiên luôn là chủ đề trong các tác phẩm văn học của các nhà văn và nhà thơ nổi
tiếng. Đây thôn Vỹ Dạ ( Hàn Mạc Tử) và Vội Vàng ( Xuân Diệu) cũng là hai bài thơ trữ
tình nói nên vẻ đẹp thiên nhiên.
Xuân Diệu đã bao lần tìm đến thiên nhiên để hịa mình vào đó, để cảm nhận từng khoảnh
khắc, từng chuyển biến tinh vi của nó. Đến Vội vàng ơng vẫn kịp ghi lại cho mình những
khoảnh khắc thiên nhiên đặc biệt: đẹp đẽ, tươi non, mơn mởn nhựa sống nhưng cũng có
cả sự mất mát, chia lìa. Sở dĩ có điều trái ngược ấy là vì thiên nhiên đóng vai trị như
những “dẫn chứng” trong lời tranh biện của nhà thơ về cuộc đời, thời gian. Tuy nhiên,
thiên nhiên trong bài thơ vẫn hiện ra với những nét độc đáo, riêng có ở Xuân Diệu.

Trước hết đó là một bức tranh thiên nhiên vơ cùng tươi đẹp, non xanh, mơn mởn, căng
tràn nhựa sống trong khoảng khắc xuân thì. Vốn bắt nguồn từ hai ước muốn rất ngông
cuồng, táo bạo là tắt nắng, buộc gió để giữ chặt hương sắc của cuộc đời, bức tranh thiên
nhiên hiện lên là minh chứng cho điều khát khao đó.
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Xuân Diệu vẽ nên một bức tranh có sự pha trộn của nhiều hình ảnh, nhiều trạng thái,
nhiều dáng vẻ để có một “bữa tiệc trần gian” ngập tràn hương sắc mùa xuân. Bằng thủ
pháp liệt kê, nhà thơ mang tới những hình ảnh: ong bướm, hoa đồng nội, lá cành tơ, yến
anh, ánh sáng… chẳng thuộc về một vùng quê nào, nhưng lại thuộc về bất cứ đâu, hiện
hữu ngay xung quanh chúng ta. Vấn đề là ở chỗ đó, thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu ai
cũng bắt gặp, ai cũng thấy quen thuộc như ở cuộc đời trần thế hằng ngày vẫn có vậy.
Không xa lạ, không sang trọng mà gần gũi, quen thuộc, ai cũng thấy ở ngoài đời.


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Bởi vậy trong cách miêu tả, Xuân Diệu khơng dùng đến những thủ pháp cầu kì, khoa
trương, mà chỉ đơn thuần ông thổi hồn sức sống của vạn vật bằng những khoảnh khắc
tươi đẹp nhất của nó. Ong bướm trong thời khắc tuần tháng mật, hoa đồng nội trong lúc
xanh rì, lá cành tơ phơ phất, yến anh trong khúc tình si. Đó là khoảnh khắc của mùa xn,
của tình u thật viên mãn, trịn đầy. Thiên nhiên bởi thế mà lung linh, đẹp đẽ, tươi non ở
mức độ căng tràn sức sống nhất. Xuân Diệu đã đưa cặp mắt “xanh non, biếc rờn” của

mình để thổi cải cảm xúc “thiết tha, rạo rực” được huy động từ mọi giác quan và lăng
kính tình u để làm nên sức sống ấy cho cảnh vật. Giọng thơ sôi nổi, phấn trấn như
chiếc bút vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ giữa chốn trần gian. Điệp từ của, này đây như bàn
tay vẫy chào, mời gọi cùng bước vào chốn thiên đường của mặt đất ngay trước mắt chúng
ta. Không ngạc nhiên khi gọi Xuân Diệu là con người của trần thế, bởi ngay cả bức tranh
thiên nhiên ở đây cũng vô cùng trần thế mà chẳng phải chốn bồng lai tiên cảnh nào quá
xa xôi.
Miêu tả vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên như thế, Xuân Diệu đã gửi gắm những giá trị, ý
nghĩa mang tính triết lý nhân sinh. Đừng mải mê tìm kiếm ở đâu xa xơi, chỉ cần mỗi
chúng ta hãy sống hết mình, cảm nhận hết mình sẽ thấy được cảnh đẹp ở ngay những gì
ta có. Và cũng cịn bởi một lý do, con người mới thực sự làm cho thiên nhiên trở nên
thêm đẹp. Ông đã khéo léo trong cách so sánh để khẳng định thước đo cho cái đẹp khơng
cịn thuộc về tự nhiên, mà chính là con người.
“ Này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”
Ánh sáng của buổi bình minh như cái chớp hàng mi của người thiếu nữ, tháng giêng
“ngon” như một nụ hôn say đắm của tình nhân. Chưa bao giờ thơ ca lại có góc nhìn thẩm
mĩ đặc biệt như thế. Thiên nhiên bấy lâu nay là chuẩn mực cho mọi cái đẹp, mà giờ đây
cũng trở nên nhỏ bé trước con người. Bởi vậy, vẻ đẹp thiên nhiên trong Vội vàng mang
theo ý nghĩa đề cao con người và khẳng định ý nghĩa mang tính triết lý nhân sinh.
Nhưng vẫn cịn một thiên nhiên khác trong Vội vàng. Nếu bức tranh thiên nhiên như
chốn thiên đường của mặt đất kia khiến mỗi chúng ta thêm yêu, thêm gắn bó, thêm động
lực để tiếp tục sống, thì trước quy luật thời gian thiên nhiên cũng phải lụi tàn. Khơng cịn
đẹp đẽ, mơn mởn, xanh non mà thời gian cuốn theo tất cả, một đi khơng trở lại, nên lịng
người ngậm ngùi thì thiên nhiên cũng tan tác, chia lìa. Cảm thức đầy mất mát trong quan
niệm về thời gian của Xuân Diệu đã khiến ơng nhìn đâu cũng thấy khơng cịn gắn kết nữa.
Khi mà xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua, xn non rồi xn gìa… thì đâu đó thi
nhân ngửi thấy mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, nghe thấy núi sông than thầm tiễn
biệt… Thiên nhiên trong sự biệt li vẫn có cái đẹp, nhưng thực chất nó là nỗi niềm run rẩy,
lo lắng, sợ hãi trước quy luật tàn nhẫn của thời gian mà tác giả đã lí luận. Nhà thơ khơng



VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

chấp nhận sự thay thế, bởi con người cũng chỉ có một lần để sống, tuổi trẻ lại quá ngắn
ngủi mà cũng chẳng hai lần thắm lại. Thiên nhiên cũng thế! Nên nỗi xót xa, tiếc nuối của
thi nhân là khơng tránh khỏi. Để từ đó mà biết trân trọng từng phút giây, biết nâng niu
từng khoảnh khắc, không bỏ lỡ sự sống mới bắt đầu mơn mởn, mây đưa gió lượn, cánh
bướm tình u… để hưởng trọn cái xuân hồng mà phải cắn mới đã đầy, no nê được. Vẻ
đẹp của thiên nhiên găn liền với quan niệm sống vội vàng của nhà thơ, cũng là phương
tiện để nhà thơ bộc lộ cách sống ấy.
Nếu như thiên nhiên trong vội vàng là một bức tanh của tuổi trẻ thì bức tranh thiên nhiên
trong Đây thơn Vỹ Dạ là một tình u sự nhớ nhung người u.
"Đây thơn Vỹ Dạ" là bài thơ được ghi sau một bức ảnh được gửi từ người con gái xứ Huế.
Khi ấy Hàn Mạc Tử đang ở Quy Nhơn dưỡng bệnh. Nỗi nhớ mong, hoài niệm về con
người và thiên nhiên xứ Huế, Hàn Mạc Tử đã viết bài thơ tuyệt đẹp này.
Thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ" dường như cũng mang nhiều gam màu,
nhiều cung bậc lẫn lộn trong chính cảm xúc của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ là lời trách móc nhẹ nhàng, tình tứ người "khách xa" sao lâu nay không
về Huế chơi:
“ Sao anh không về chơi thôn Vỹ”
Tứ thơ thật đẹp, thật tinh tế và ẩn chứa nội dung sâu xa. Nỗi nhớ về Huế được tác giả gửi
gắm qua lời trách yêu nhẹ nhàng này. Hàn Mạc Tử đã dẫn dụ người đọc khám phá một
bức tranh xứ Huế nhiều nét đẹp riêng.
Sau lời trách móc ấy, một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống hiện ra:
“ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Bức tranh thiên nhiên xứ Huế vào buổi sáng ban mai tinh khôi, trong lành. Ánh nắng đầu
ngày luôn tinh khô, tràn đầy sức sống nhất. Dường như ánh nắng đang lên cao trên những

hàng cau dài thẳng tắp. Từ "nắng" được lặp lại hai lần như nhấn mạnh bầu khơng khí
trong lành nhất ở xứ Huế mộng và thơ. Một khu vườn hiện lên thật xinh xắn và tươi đẹp.
"Vườn ai" phiếm chỉ một địa danh cụ thể nào đó nhưng tác giả ẩn ý khơng nói ra. Màu
xanh "như ngọc" của khu vườn khiến cho bức tranh bừng lên sức sống. Không phải xanh
non, xanh rì mà là "xanh mướt". Từ "mướt" làm mềm cả câu thơ và khiến cho khung
cảnh trở nên hiền dịu và nên thơ hơn
Đến câu thơ cuối dường như hình ảnh con người mới xuất hiện. Mặt chữ điền là khuôn
mặt phú hậu, hiền lành của người con trai. Cây trúc biểu tượng cho chí trí nam chi. Có lẽ


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

có "khách đường xa" nào đã ghé thăm xứ Huế, nhưng chỉ là ghé thăm một cách thầm
lặng như vậy.
Qua ngôn ngữ điêu luyện, giọng văn nhẹ nhàng, Hàn Mạc Tử đã vẽ lên một bức tranh
thiên nhiên xứ Huế nên thơ nhất. Tuy nhiên sang đến khổ thơ thứ hai thì dường như bức
tranh thiên nhiên ở đây đã bắt đầu chuyển màu:
“ Gió theo lối gió mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Có một sự chia ly, tan vỡ ở trong hai câu thơ. Mây và gió vốn chung đường nhưng trong
thơ Hàn Mạc Tử lại chia lìa đơi ngả. Hình ảnh hoa bắp ven bờ sông hương lay nhẹ rơi
rụng xuống mặt nước khiến người đọc liên tưởng đến sự nổi trôi, bấp bênh của một đời
người. Thiên nhiên ở đây vẫn đẹp, nhưng đẹp mang nỗi buồn mênh mang và sâu thẳm.
“ Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Xứ Huế với một đêm nên thơ, tràn ngập ánh trăng nhưng dường như tác giả đang thấp
thỏm, lo âu điều gì đó. Từ "kịp" khiến cho mạch thơ vỡ ra, vội vàng và gấp gáp hơn. Tác
giả đang hỏi ai hay hỏi chính bản thân mình
Và đến khổ thơ cuối thì dường như thiên nhiên đã chuyển sang gam màu khác, mờ ảo,
huyền diệu hơn:

“ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Áo em trắng q nhìn khơng ra
Ai biết tình ai có đậm đà”
Một đêm trăng mờ ảo, sơng nước mênh mơng khiến tác giả có cảm giác như mọi thứ
đang ở trong cõi hư không. Màu trắng bao trùm lấy khổ thơ cuối. Sự mộng mị của cảnh
sơng nước khiến cho tác giả thấy mình chới với, khơng có điểm tựa. Câu hỏi cuối cùng
của bài thơ là một câu hỏi da diết và day dứt, nó như một điệp âm cứ thổn thức mãi trong
lịng tác giả.
Bức tranh thiên nhiên của xứ Huế có sự chuyển biến qua ba khổ thơ theo hướng hư
không, mờ ảo dần. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra được sức sống tràn trề, nét đẹp tinh
khôi của một bức tranh thiên nhiên ở Huế.
Hai bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp trong hai bài thơ của Hàn Mạc Tử và Xuân Diệu, tuy
mỗi bức tranh đều mang một vẻ đẹp khác nhau nhưng bên trong đó đều chứa chan tình
cảm và tình yêu thương của con người và những xúc cảm, những xúc cảm, những rung
động.


VnDoc.com - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Xem thêm các bài tiếp theo tại: />


×