Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

cam nhan bai tho trang giang cua huy can

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 51 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Ngữ văn 11
1. Dàn ý cảm nhận bài thơ Tràng giang
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang
II. Thân bài
- Cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên sông nước mênh mang, rộng dài và tâm
trạng của nhà thơ.
+ Sóng gợn nhẹ gợi nỗi buồn mênh mang
+ “Tràng giang”, “điệp điệp” tô đậm nỗi buồn triền miên, kéo dài theo cả không
gian và thời gian.
+ “Thuyền về nước lại” gợi sự chia lìa, xa cách, khơng hứa hẹn gặp gỡ.
+ Sự bơ vơ, lạc lõng, trôi nổi bất định giữa cuộc đời, “củi nhỏ cành khô” gợi sự nhỏ
bé, tầm thường.
- Cảm nhận sự hoang vắng trong khung cảnh và sự cô đơn của nhà thơ
+ Khung cảnh hoang vắng, thưa thớt, thiếu vắng sự sống con người
+ Không gian mênh mông, lặng lẽ khắc họa sự cơ đơn trong lịng tác giả
+ Khao khát một cây cầu bắc ngang để được giao lưu gần gũi với mọi người, cuộc
đời
- Cảm nhận tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước của nhà thơ
+ Hình ảnh tráng lệ nhưng đượm buồn, “bóng chiều sa” gợi cảnh ngày tàn, “chim
nghiêng cánh nhỏ” thể hiện sự bé nhỏ, mỏng manh.
+ Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương dợn dợn theo từng con nước lên xuống
+ Khao khát được trở về nhà, về quê hương như tìm một bến đỗ, chỗ dựa tinh thần
cho tâm hồn cô đơn.
III. Kết bài
Nêu cảm nhận chung của em về bài thơ Tràng giang
2. Dàn ý Cảm nhận bài thơ Tràng giang
I. Mở bài: giới thiệu về bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242


6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Huy Cận có những tác phẩm thơ nổi tiếng, mỗi bài thơ mang một phong cách rất
riêng. Thơ của Huy Cận mang phong cách thơ hàm súc, triết lí và phục vụ cho cách
mạng của nước ta. Một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là Tràng giang, bài thơ
nằm trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ thể hiện cảnh thu 1939, bài thơ được sáng tác
khi tác giả nhìn bên bờ sơng Hồng dưới dịng nước mênh mơng sóng nước. chúng ta
cùng đi tìm hiểu bài thơ để biết rõ về phong cách thơ của Huy Cận.
II. Thân bài: Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
1. Khổ 1: bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận


Những vịng nước xơ đuổi nhau đến tận chân trời



Qua khổ thơ còn thể hiện nổi buồn miên man của tác giả



Sự trơi nổi, phó mặc của tác giả trên dịng sơng hữu tình



Tâm trạng chia li, tán tác

2. Khổ 2: không gian và thời gian qua bài thơ



Không gian hoang vắng, điều hiu



Không gian vắng lặng, tĩnh mịch



Không gian được đẩy vô tận



Cảnh vật khiến con người trở nên nhỏ bé

3. Khổ 3:


Khơng có sự giao hịa, liên quan giữa con người với con người



Cái tôi cô đơn, trống vắng, khát khao sự hòa hợp, đồng điệu giữa con người



Bức tranh thiên nhiên hiện lên một sự kì vĩ và tráng lệ




Nỗi buồn quê hương, đất nước, nỗi buồn da diết của tác giả, sâu sắc của nhà
thơ

III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Bài thơ Tràng giang của Huy Cận thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và thể
hiện tình yêu quê hương, đất nước của tác giả. Qua bài thơ ta cảm nhận được tình
yêu của tác giả đối với thiên nhiên.
3. Văn mẫu Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận mẫu 1
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ
ông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, ln thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ
trụ. Tràng giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư
tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.
Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn
của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và
chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi mội cành khô lạc mấy dịng
Đứng trước cảnh mênh mơng sơng nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên.
Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngơn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh
vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh
"sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vơ tận

cũng giống như nổi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khơn ngi. Con sóng ở
giữa một dịng sơng dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên.
Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy
tâm sự trong lịng khơng biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình
ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ơng và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong
cách thơ của ông.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sơng dài, trời rộng bến cơ liêu
Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi
bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở nên thưa và vắng
mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì
im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm
thanh đó khơng rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

thanh mơ hồ kia, nhưng khơng thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan
của mình đến một điểm mới.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sơng dài, trời rộng bến cơ liêu
Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai
chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một
vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi
buồn thì dài vô tận.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo
trơi khơng biết dạt về đâu, khơng có một cái cầu, khơng chuyến đị để đưa khách,
cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thốt được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó,
tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi
buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lịng q dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà
Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan
của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với
từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh
hồng hơn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình
ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ơng
tích tụ như núi cùng với đám mây cịn có hình ảnh cánh chim.
Lịng q dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Tác giả đã dùng tự láy "dợn dợn" để diễn tã những con sóng vời theo con nước lan
tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra
khắp nơi.

Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ.
Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình
cảm chân thành với q hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những
vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của
văn học Việt Nam.
4. Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Tràng giang mẫu 2
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên
tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930 - 1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn,
Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông
mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác
phẩm tiêu biểu như" "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng
tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống
chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động" "Trời mỗi ngày lại sáng",
"Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét
thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng giang ". Đây
là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng
tám.
Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam
bến Chèm sơng Hồng, nhìn cảnh mênh mơng sóng nước, lịng vời vợi buồn, cám
cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trơi giữa dịng đời vơ định. Mang nỗi u buồn hồi
như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự
thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi Tràng giang buồn điệp điệp
....
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ.
"Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng
mà cịn rộng mênh mơng, bát ngát. Hai chữ "Tràng giang" mang sắc thái cổ điển
trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sơng
của mn thuở vĩnh hằng, dịng sơng của tâm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa" Nhà thơ thường ẩn đằng sau
cái mênh mơng sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tơi của
mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm,
Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn,
nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn
chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ
đạo của cả bài" "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng",
"sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lịng con người dấy lên tình
cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói
lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cơ đơn, lạc lõng. Và con
"sơng dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn
sóng lên mãi trong lịng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lịng đầy ưu tư, sầu
não như thế.
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai
từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ
kính của Đường thi. Và khơng chỉ mang nét đẹp ấy, nó cịn đầy sức gợi hình, gợi

liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dịng nước thì cứ
cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dịng sơng gợi sóng "điệp điệp",
nước "song song" ấy là một "con thuyền xi mái", lững lờ trơi đi. Trong cảnh có sự
chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mơng của thiên nhiên, một
dịng "Tràng giang " dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Dịng sơng thì bát ngát vơ cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp
trong lòng.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền.
Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước
lại", nghe sao đầy xót xa.
Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lịng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều
"trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vơ hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc" "Củi
một càng khơ lạc mấy dịng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các
từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít
ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô
định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dịng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mơng.
Cành củi khơ đó trơi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn
ngợp, khiến lịng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn cơi.
Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về
một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ cịn vỗ mãi ở các khổ thơ cịn lại để người đọc
có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới.

Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là
ở cách nói "Củi một cành khơ" thật đặc biệt, khơng chỉ thâu tóm cảm xúc của tồn
khổ, mà cịn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn cơi, lạc lõng.
Nỗi lịng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của khơng gian lạnh
lẽo.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ
đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi
sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh
lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng
làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó",
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

âm thanh xa xơi, khơng rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát,
mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người.
Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hồn tồn, chung quanh đây chẳng hề
có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Đôi mắt nhân vật trữ
tình nhìn theo nắng, theo dịng trơi của sơng.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu.
"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự
chia lìa" bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt
mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đơi mắt nhà thơ
khơng chỉ dừng ở bên ngồi của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả
không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời

rộng", cịn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao" "bến cô
liêu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi
như" sông, trời, nắng, cuộc sông con người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ
chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dịng sơng, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen
thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cơ đơn. Nhưng thiên
nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang.
Khơng cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trơi bồng bềnh trên sơng là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ
điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trơi của kiếp người vơ định giữa dịng đời.
Nhưng trong thơ Huy Cận khơng chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối
hàng". Bèo trơi hàng hàng càng khiến lịng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ
đó cõi lịng càng đau đớn, cơ đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh
tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

thiên nhiên, dường khơng có con người, khơng có chút sinh hoạt của con người,
khơng có sự giao hồ, nối kết:
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...khơng... khơng" để phủ định hồn tồn những
kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây khơng có chút gì gợi niềm thân

mật để kéo mình ra khỏi nỗi cơ đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên
mênh mơng, mênh mơng. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con
người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trơi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao"
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc
tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình
ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn
cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội
lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy
chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau.
Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều" Chim nghiêng cánh
nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt Tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè
nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi
được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình
tượng thẩm mỹ để tả hồng hơn trong thơ ca cổ điển.
5. Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang mẫu 3
Có những tác phẩm văn học vừa đọc xong, gấp lại là ta sẽ qn ngay, nhưng cũng
có khơng ít những bài văn bài thơ, thật diệu kì, đã đi sâu vào lịng ta bằng một sức
hút vô cùng mãnh liệt. Tràng giang của Huy Cận là một tác phẩm như vậy! Đọc
Tràng giang, ta cảm thấy từng lời thơ, từng âm điệu... như những dòng chảy của
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


một con sơng, cứ len lỏi nhẹ nhàng nhưng chảy sâu vào tận đáy tâm hồn, khắc chạm
vào đó những ấn tượng thâm trầm mà sâu sắc!...
“Thơ Huy Cận thường buồn”, Xuân Diệu, người bạn tri kỉ và cũng chính là người
bạn đời thân thiết của Huy Cận cũng đã phải thốt lên như vậy! Là hai người bạn
thân thiết của nhau, là hai người thi sĩ đa tình cùng yêu mến và tìm đến với thế giới
thiên nhiên vô tận, nhưng ở Xuân Diệu, thiên nhiên say đắm ngọt ngào hương vị
ngơn ngữ tình u, cịn nơi Huy Cận, thì cây cỏ núi sơng lại bình thản lặng lẽ như
thấm thía nỗi buồn của “cái tơi” lẻ loi cô độc. Tràng giang là một trong những kiệt
tác kết tụ từ nỗi sầu “mang mang thiên cổ” đó! Đọc bài thơ, có lẽ ta sẽ bắt gặp được
một nỗi buồn, nỗi buồn của chàng thanh niên mà “trọn kiết mắt chàng thường đẫm
lệ”, nỗi buồn có lẽ rất… Huy Cận mà đã hơn một lần Xuân Diệu nói về nó như sau:
“Trong thơ Việt Nam, nghe bay dậy một tiếng địch buồn, không phai sáo thiên thai,
không phải điệu ái tình, khơng phải lời li tao kể chuyện một cái tôi, mà ấy là một
bản ngậm ngùi dài" có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc bơng lau, có phải niềm than
vãn của bờ sơng bãi cát, có phai mặt trăng một mình đang cảm thơng cùng các vì
sao? Tiếng rền rĩ dịu em sẽ vấn lấy ta như một dải lụa ôm ấp một vế đau, tiếng len
thấm thía vào hồn ta như khí hậu của núi đèo, tiếng làm thành sương đọng lệ trên
mắt ta…”.
Một lời nhận xét thật hay! Mà có lẽ chỉ cần bấy nhiêu đó thơi, ta đã hiểu được khá
nhiều về thơ Huy Cận!
Và đặc biệt là đối với Tràng giang …
Bài thơ chính là một bức tranh thiên nhiên mà linh hồn của nó là một nỗi buồn xa
xăm, hoang vắng, có một cái gì đó như tàn lụi cơ đơn".
Sóng gợi Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xi mái nước song song
Nhìn những cơn sóng nhỏ đang lặng lẽ gối đấu nhau mà đi xa đến tận cuối chân trời,
tâm hồn nhà thơ bỗng dâng lên một nỗi buồn “điệp điệp”. Từ “điệp điệp” đã tạo nên
hình ảnh một nỗi buồn ngàn trùng, một nỗi buồn triền miên, lớp lớp… Thường
người ta nói trùng trùng điệp điệp để chỉ núi non, nhưng ở đây tác giả lại đem nó để

miêu tả một nỗi buồn, đúng là một sáng tạo thật độc đáo tong cách dùng từ để hình
ảnh hóa một nỗi buồn thật là lãng mạn! Âm điệu thơ như ngân xa da diết, như thân
thuộc quen quen! Có lẽ Huy Cận đã liên tưởng đến một câu ca dao:
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu
Ở đây, có bao nhiêu gợn sóng trên dịng Tràng giang từ là có bấy nhiêu nỗi buồn thi
sĩ. Câu thơ khơng chỉ nghiêng về số liệu mà cịn nặng về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ
nhàng lặng lẽ thơi nhưng da diết và dai dẳng, nó như vơ tình ngàn xa và tạo thành
một tiếng buồn vơ tình, vang vọng mãi giữa đất trời vũ trụ…
Và… nổi bật giữa những lớp sóng bạt ngàn đó là hình anh của một con thuyền, một
con thuyền nhỏ nổi bật giữa những lớp sóng nhưng cũng đang khuất chìm trong
chúng! Hình ảnh độc đáo vô cùng! Chiếc thuyền con như đang lênh đênh, bập bềnh
không định hướng, cứ xuôi mãi, xuôi mãi … theo dịng nước vơ tận nghìn trùng…
Cụm từ “nước song song” cũng là một cấu tứ lạ mà ta chưa từng đọc bao giờ, nó đối
với “buồn điệp điệp” ở câu trên như để gợi ra một nỗi buồn mênh mông trùng điệp!
Sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau, con thuyền
đã khơng cịn trơi xi theo dịng nước nữa:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng…
Thế cân bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. Thuyền về, mà về đâu? … Không
rõ! Chỉ để lại một mặt sơng vắng bóng thuyền, nỗi cơ đơn như trải rộng ra dường
như vơ tận. Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần, khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành
chia “sầu trăm ngả”. Huy Cận đã khéo léo trong việc miêu tả sự vận động của sự vật
để nói đến bước đi của khơng gian. Thời gian vận chuyển theo tầm nhìn con thuyền
và khơng gian cũng mở rộng cùng với nó. Nếu như lúc trước, khơng gian chỉ xác

định theo dòng nước đang chuyển động song song cùng với con thuyền thì hình
bóng con thuyền đã trở nên mất dạng, không gian chợt mở rộng ra đến “trăm ngả”,
vơ tận mênh mơng khơng có lấy một điểm tựa nào! Chính vì vậy, câu thơ thứ ba đã
trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô cùng:
Củi một cành khơ lạc mấy dịng
Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi một cành khơ” có lẽ là một hình ảnh mà
ta chưa từng bắt gặp bao giờ, chính nó đã đưa đoạn thơ thốt khỏi bầu khơng khí cổ
kính để trở về với thời hiện đại" một cành củi khô đang nổi trội dập dềnh giữa muôn
vàn cơn sóng, lúc bị đẩy bên này, lúc lại dạt sang bên kia… Đó có phải chăng là hóa

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

thân của một kiếp người lữ thứ, luôn lạc lõng bơ vơ, bị cuốn trôi theo chiều xốy
cuộc đời?
Tràng giang đó, vẫn bình thản suy tư qua lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua dịng khơi
“nước song song” và qua vẻ hừng hờ mặc cho “thuyền về nước lại” mặc cho nhánh
củi lạc lồi trơi!… Tràng giang!… Sóng gợn Tràng giang!…
Sang khổ thơ sau, tác giả đã đi sâu vào việc mô tả chi tiết nỗi buồn. Cái buồn bang
bạc cả khơng gian giờ đã khơng cịn đi lang thang vô địch trên sông mà đã tấp vào
một cồn đất nhỏ:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu.
Cảnh trong bài thơ chứa đầy tâm trạng. Có lẽ Huy Cận đã tập trung tất cả các hình
ảnh và nhạc điệu để làm nổi bật lên cái buồn của con người trước cảnh trời rộng

sông dài. Cảm giác buồn gởi trong vần điệu, trong các từ gợi hình mong manh và cơ
quạnh! “Lơ thơ” gợi hình ảnh, “đìu hiu” gợi cảm giác, cả hai từ láy như đã được nhà
thơ phát huy hết hiệu quả để mô tả nỗi buồn, một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu
lắng, buồn đến lạnh lẽo cô đơn, đến rợp ngợp tâm hồn.
Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, có thể hiểu là “đâu đây có tiếng làng xa
vãn chợ”, nhưng đó cũng có thể là câu hỏi mà tác giả đặt ra cho chính bản thân
mình" “đâu rồi”, “có đâu” tiếng “làng xa vãn chợ?”…
Ở đây, Huy Cận đã vận dụng khá tự nhiên một thủ pháp quan trọng trong thủ pháp
cổ điển" mượn cái “động” để nói đến cái “tĩnh”, cố tìm kiếm và lắng nghe một âm
thanh động để lặng đi trong bầu khơng khí tĩnh lặng đến rợn người!
Nỗi buồn ấy như càng trải rộng hơn trước cái nền không gian mà tác giả dựng nên
bằng những từ ngữ vô cùng độc đáo:
Năng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu
Cùng một lúc, Huy Cận đã sử dụng thủ pháp của một nhà nhiếp ảnh và nghệ thuật
của một nhà hội họa để dựng nên một bức tranh độc đáo. Thơng thường từ “chót
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

vót” chỉ được dùng để diễn tả chiều cao, vào thơ sâu thăm thẳm" không gian như
vụt lớn hơn ra. Trên bức tranh sông dài hiện thêm một nét trời cao “sâu chót vót”,
vài cồn đất nhỏ, “bến cơ liêu”. Thiên nhiên phóng khống hơn và tưởng chừng sẽ
sống động hơn, nhưng khơng! Khi lịng người cịn “đìu hiu”, “cơ liêu” thì “cảnh có
vui đâu bao giờ”… Vài dải đất giữa sơng dài, vài ngọn gió “đìu hiu”, chưa đủ để
làm tươi cảnh vật và âm thanh của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” thì mơ hồ và mong
manh lắm! Quanh tác giả giờ đây chỉ còn có thiên nhiên, một thiên nhiên với cái
buồn ảo não và da diết đến bang bạc cả không gian và thời gian" những lớp tiếng

sóng gợn Tràng giang, tiếng đìu hiu heo hắt của bờ lau khóm trúc, nỗi sầu vạn cổ tự
ngàn xưa chợt theo gió thổi về! Giờ đây, giữa thiên nhiên vũ trụ rộng mênh mông
bao la ấy, chỉ cịn lại có một mình tác giả, một mình đứng lặng chơn chân trong
quạnh quẽ, cơ liêu, cũng như Trần Tử Ngang, ngàn năm trước cũng đã có cuộc viễn
du tương tự như thế:
Ao người trước đã qua!
Ai người sau chưa tới?
Giữa trời đất vơ cùng
Mình ta ln giọt lệ!
Người cô đơn lại gặp cảnh hoang vắng tịch liêu thì nỗi cơ đơn ngày càng thêm đậm.
Khổ thơ thứ ba như mở ra cái khung cảnh dường như khơng có chút dấu vết nào của
sự sống, một khung cảnh như đã bị chìm đắm trong thế giới của sự ngột ngạt đến vô
cùng.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Nỗi buồn được mở rộng ra hơn, dù lời thơ có thêm được vài gam màu sắc nhạt nhịa!
Cảnh có mở ra thêm bờ bờ bãi bãi, thêm ít màu sắc vàng tô điểm giữa bức tranh và
thay thế "củi một cành khô" đơn độc lênh đênh đã là những đám bèo "hàng nối
hàng" theo nhau đi mãi. Nhưng "hàng nối hàng" kia chợt xuất hiện trong dịng sơng
của nhà thơ như câu trả lời, đành để mặc cho tâm hồn mình trở thành một chiếc đảo
cô đơn giữa mây trời sông nước" "Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề".
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Một loạt các tình từ mênh mơng lặng lẽ đã gợi lên khơng khí vắng vẻ u buồn, lại

cịn thêm những chi tiết phủ định" "Khơng một chuyến đị ngang”, khơng một chiếc
cầu nối càng làng tăng nỗi cơ liêu quạnh quẽ. Đến đây tình trạng cơ đơn có lẽ đã lên
tới đỉnh điểm, ước mong tìm thấy một "chút niềm thân mật" ở một “chuyến đò
ngang”, một sự liên lạc nào đó với con người qua chiếc cầu nhỏ bé, nhưng tất cả đều
khơng có được:
Thuyền khơng giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm!
Đôi bờ sông như hai thế giới tách biệt nhau, bờ này tự thu mình khơng liên lạc với
bờ kia! Dịng nước vẫn cứ vơ tình hững hờ chảy. Tràng giang mỗi lúc một bao la,
mỗi lúc mỗi ai hài dưới tâm tư trĩu nặng của người thi sĩ trẻ, đã sớm vương nỗi sầu
thiên cổ mênh mang và những cánh bèo đang tản giạt trên lớp sóng nước kia có phải
chăng chính là hình ảnh tượng trưng cho thân phận nhà thơ, của lớp người trẻ ở
những năm ba mươi, cũng hoang mang vô địch, cũng mỏng manh nhỏ bé, cũng long
đong nổi trơi theo dịng chảy bất tận của cuộc đời? Giống như tâm trạng mà Xuân
Diệu một lần đã viết" "Chúng tôi cũng bơ vơ, mỗi hồn người là một cõi bơ vơ trong
đất trời là một khung bơ vơ". Như vây, cái buồn của Huy Cận, của một chàng thi sĩ
đã "hơn một lần gửi áo cho trăng" và lòng vẫn hay "sầu mưa", "tủi nắng” ấy khơng
phải là cái buồn vơ cớ, mà nó cũng chính là cái buồn của thời đại, mà nếu nói cho
chính xác hơn thì đó là nỗi buồn của thanh niên tiểu tư sản trí thức lúc bấy giờ,
những con người bị "giấc mơ con đè nát cuộc đời con" với những mảnh linh hồn
nhưng lại bị "thiên hạ bỏ đìu hiu" với những đơi chân "mn dấu rỗ, thủng gai đời"!
Và có lẽ chính vì vậy hơn một lần họ đã từng than thở:
Nếu như chưa biết bao nhiêu lần hốt hoảng
Trong sầu đen đã gãy cánh như dơi
Nếu chưa biết bao nhiêu dịng lệ đắng
Chảy như sơng khơng rửa sạch sầu đời!
Mượn dịng sơng để soi linh hồn bé nhỏ cô đơn, nỗi buồn kia như lại càng thêm oằn
sâu và trĩu nặng! Nhà thơ đã đem lại cái tâm trạng đầy cô đơn buồn bã ấy mà phủ
lên cảnh vật thiên nhiên.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Trên giữa bầu trời xanh mênh mông, mây đùn lên trông giống như những ngọn núi
bạc trắng xóa, chợt xuất hiện một cánh chim bé nhỏ mà "Bóng chiều sa nặng đến
nỗi nó phải nghiêng cánh" (Xuân Diệu).
Dùng một vật hữu hình để diễn tả một cái vơ hình. Thật khó để hình dung được ranh
giới giữa cái nhỏ bé hữu hạn và cái lớn lao vô hạn mà Huy Cận đã đưa ra! Cảnh vật
hiện lên trong thơ ông dù cho rất buồn nhưng vẫn chưa đựng được một cái gì đó
hùng tráng và mạnh mẽ. Điều độc đáo ở đây chính là cách nhìn của nhà thơ! "Trong
cánh chim nghiêng, tác giả đã thấy được bóng chiều sa!". Trong lúc Nguyễn Du
thấy "bóng chiều" qua những nhánh "tơ liễu thướt tha" Hàn Mặc Tử thấy "bóng
xuân sang" trên những giàn thiên lí, thì ở đây Huy Cận cũng tỏ ra tinh tế khơng kém
khi nhận thấy "bóng chiều" về trên một cánh chim nghiêng! Một cánh chim lẻ loi,
chấp chới trong ánh chiều đang xuống, khiến cho trời đất như rộng trải ra thêm!
Không gian vừa mới trải mênh mông trong dáng dấp ngàn mây "lớp lớp" chất chồng,
chợt ầm xuống hồng hơn rất nhanh, đó cũng là khi tâm hồn người lữ khách chợt
bâng khuâng nhớ đến quê nhà.
Lịng q dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà
Âm hưởng của thơ Đường triền miên trong câu cuối, mượn niềm luyến nhớ quê
hương của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu.
Nhật một hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Nhưng Huy Cận đã bộc lộ tình yêu đậm đà tha thiết hơn! Tình yêu khắc khoải nên
thủy triều rạo rực xôn xao. Điệp từ “dợn dợn” cũng rập rờn như sóng Tràng giang

“điệp điệp”, cái rập rờn trùng điệp chan chứa biết bao tình. Ngày xưa, nhà thơ
Đường phải có “khói sóng trên sơng”, Hồ Dzếnh phải có “khói buồn bay lên mây”
mới có thể gợi nhớ quê hương, mới có thể “nhớ nhà trong điếu thuốc”, nhưng cịn ở
đây thì lại khác. Nhân vật trữ tình trong thơ Huy Cận đứng trước cảnh khơng sương,
khơng khói hồn hơn mà cũng rung rung nỗi nhớ về một miền quê xa khuất phía
chân trời. Huy Cận chẳng cần ngoại cảnh! Lúc này cái buồn đã thành hình, khơng
chỉ cịn là cái cảm giác sầu mênh mơng vời vợi do xúc cảm sinh tình khi ngắm nước
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Tràng giang. Hai câu kết được gói gọn trong những dòng cảm xúc thiết tha và đẹp
đẽ! Và nó làm ta gợi nhớ đến những câu thơ ngày trước:
Đạm đạm trường giang thủy
Du du viễn khách tình
Bao phủ toàn bài thơ là một nỗi buồn rộng khắp và thấm thía, một nỗi buồn mà
Hồi Thanh đã từng nhận xét" “Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao,
nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non,
buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn… Người đã gợi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người
đã khơi gợi cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này!”.
Buồn nhưng không bi quan, không chán nản! Bài thơ hiện diện với tư cách là một
bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết nồng
nàn! Có phải chăng vì vậy mà Xn Diệu đã từng ca ngợi" “Tràng giang là một bài
thơ ca hát non sơng đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.
6. Cảm nhận bài thơ Tràng Giang mẫu 4
Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận và thể hiện
rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại q trình viết nó. Cảm hứng
thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại thành Hà Nội. Bây giờ

nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào thời
Huy Cận viết Tràng giang cho đến mấy chục năm sau, nó đìu hiu sơng nước, vắng
lặng, đẹp và buồn đúng như trong bài thơ đã tả.
Huy Cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng chọn thơ
bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ơng cịn cho biết Lớp lớp mây cao đùn núi bạc là do
ông học ở bản dịch thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa". Ý kết là ông tựa vào
thơ Thôi Hiệu, qua bản dịch của Tản Đà “Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai” để
tả nỗi buồn của lịng mình: Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà. Chính khơng gian
Đường thi trong hơi thơ bảy chữ tạo nên sự cộng hưởng cảm xúc đồng chiều ấy.
Nếu viết ở thể thơ khác, chưa chắc đã có sự cộng hưởng ấy. Huy Cận buồn hơn
Thơi Hiệu. Huy Cận thừa biết mình đứng nhờ trên vai người ta, có cao nhưng khơng
chắc mình có chiều cao hơn người ta. Đọc Tràng giang có thể thấy buồn Hồng Hạc
lâu nhưng là ở nhiều chỗ khác chứ không phải ở câu kết so đo ấy.
Bài thơ này có vẻ đẹp cổ điển, trang trọng mở vào cao rộng trời đất mà nỗi buồn lại
thấm thía sâu thẳm xuống một cõi lòng. Nỗi buồn bàng bạc mơ hồ nhưng đụng vào
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

đầu cũng thấy. Mơ hồ vì buồn khơng rõ lí do cụ thể. Bàng bạc vì khơng rõ sắc thái,
không rát bỏng nhưng ngân nga như một nỗi bâng khuâng, một tâm trạng nhớ
không đối tượng: trời rộng nhớ sông dài. Câu đề từ quả đã ôm đủ chủ đề bài thơ.
Nỗi bâng khuâng buồn nhớ đựng đầy không gian. Cảnh nào cũng gợi buồn, cảnh bị
nhiễm vào từ trường tình cảm. Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. Tâm hồn
ông khi ấy thường trực một nỗi buồn thế hệ, cái thế hệ vừa biết suy nghĩ thì chạm
ngay vào nỗi buồn mất nước, vào thân phận nhược tiểu, một linh hồn nho nhỏ/
mang mang thiêng cổ sầu. Chất tâm hồn bất thường bắt rất nhạy cảm xúc không
gian rộng xa, vắng lặng hắt hiu. Riêng với Huy Cận, người đã từng “nghiêng tai kì

diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe lịng mình. Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn
thì khơng gian trời nước quãng sông Hồng nơi Chèm Vẽ cộng hưởng với lịng ơng
mà thành thơ là điều khơng khó hiểu.
Chữ tràng trong Tràng giang đề bài và trong câu đầu tiên vốn ít dùng trong ngơn
ngữ giao tiếp hơn trường nhưng Huy Cận lại chọn dùng… Có người giảng là để
khỏi nhầm với sông Trường Giang bên Trung Quốc. Chả hiểu có đúng thế khơng.
Nhưng chỉ căn cứ vào âm thanh (chứ khơng phải chỉ nghĩa chữ) thì giang hai âm
vang đồng dạng đứng liền nhau gợi được khoảng rộng, dàn theo chiều ngang, bát
ngát bao la hơn là trường. Trường chỉ cho thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm
trường thuôn lại trong khi tràng mở ra. Mặt sông dài rộng, nên đầu sóng của sơng,
vốn thấp như càng thấp thêm, chỉ như gợn nhẹ mặt sông phẳng. Đã rộng lại tĩnh nên
gợi buồn, buồn điệp điệp. Chứ sóng mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm giác
khác. Điệp điệp là trạng thái của gợn sóng trên tràng giang và cũng là của gợn buồn
trong lòng người. Câu vào này buồn thật. Nhưng câu thứ hai: “Con thuyền xi mái
nước song song" có người cũng cho là câu thơ buồn, buồn lắm, lấy lí rằng: song
song là chẳng bao giờ gặp nhau, là khơng gắn bó gì với nhau. Đấy là vận dụng định
lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình tượng văn chương. E khó thuyết
phục. Thuyền nước trong câu thơ này là đang gắn bó, thậm chí hài hồ xi chèo
mát mái. Câu thơ này không buồn. Hơn nữa, vui. Đang vui. (Chữ nước song song
chỉ là một dụng ý để đối với buồn điệp điệp). Có đang vui mới dẫn đến cái buồn ở
câu sau. Mới tạo nên mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc mà buồn thì tất yếu, ấy
là lúc thuyền về tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi một mình, phiêu bạt hai ngả rẽ vơ
thường nên mới kinh hãi với cái sầu trăm ngả. Hình ảnh sông nước đến đây đã nhập
vào thân phận con người. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả. Một chữ lại (trạng từ),
lại sầu… cho thấy cách nhìn đời hồi ấy của Huy Cận khá giống Xuân Diệu (hoa nở
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


để mà tàn - Trăng trong để mà khuyết - Bèo hợp để chia tan - Người gần để li biệt).
Thuyền và nước song song xuôi mái chỉ khoảnh khắc rồi lẻ loi với bao nhiêu ngã ba
sơng nước, sầu trăm ngả. Từ hình ảnh trăm ngả dẫn đến câu cuối đoạn như mội tổng
kết:
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.
Trên sơng Hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trơi, thân gỗ trơi, vật vã nổi chìm
trong sóng đục phù sa. Cảnh gợi tang thương. Nhưng không phải mà cảm xúc Huy
Cận ở bài này. Ơng nói ơng phải lựa chọn hình ảnh sao cho ra cai thân phận nổi
nênh của kiếp người. Chọn củi hơn là gỗ, chọn một cành không hơn là những cây
tươi. Củi một cành mà lạc mấy dịng thì đắt q, chưa kể nó cịn ứng với sầu trăm
ngả ở trên.
Đoạn một là nhìn vào mặt sơng mà tả. Chi tiết tung hứng, ngôn ngữ đăng đổi và
ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa xung quanh: cồn nhỏ, làng xa, trời
sâu, bến rộng… không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Thưa
vắng và yên tịnh. Chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu khơng rõ, mơ hồ như nghe
trong hồi niệm một phiên chợ quê lúc vãn người. Âm thanh mơ hồ là cách đặc tả
cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở khơng gian. Chiều thẳng đứng thì như đang dãn dần
ra theo nắng, theo trời: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Sâu chứ khơng cao là
một sáng tạo, gây ấn tượng. Chiều năm ngang thì “ Sơng dài, trời rộng, bến cô
liêu"… Không màu sắc, không âm thanh, không hoạt động. Tất cả bất động, lặng đi,
ngấm vào nỗi cô liêu.
Cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. Huy Cận tỉnh táo chuyển lại ánh về mặt
sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Đẩy mức vắng lặng
tới chỗ bặt dấu người. Hai đoạn trên cịn có thuyền, có chợ. Giờ đây, trên sơng chỉ
cịn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Khơng đị ngang, khơng cầu bắc, khơng
thấy một cơng trình nào mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên.
Buồn lan theo cảnh. Buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Rồi lại dựng
lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc". Trút qua đơi cánh chim nhỏ và rơi xuống
một lịng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng mới trội lên nỗi nhớ q, lịng

q. Tình thế trơi dạt nổi nênh của ngoại cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận,
thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ. Bài thơ khép lại trong nỗi nhớ nhà. Tính
lơgíc trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. Có
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một
bài thơ về tâm hồn.
7. Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 5
Huy Cận là một nhà thơ gắn liền với phong trào thi ca cách mạng Việt Nam. Trước
Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của
thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca…
Nhưng sau cách mạng tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ
yếu hướng tới cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm
như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phẩm
khơng thể khơng kể đến đó là tác phẩm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa
Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn
ảm đạm, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trơi nổi giữ dịng đời vơ định.
Với nhan đề “ Tràng Giang” có nghĩa là “ sơng dài” đã gợi cho người đọc một
không gian mênh mông, không bến bờ. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc thái
cổ điển trang nhã, lại vừa gợi liên tưởng cho người đọc về dòng “Trường giang”
trong thơ Đường thi, một dịng sơng của mn thuở vĩnh hằng, nhưng ẩn chứa sau
cái mênh mơng đó lại là nỗi ưu tư, nỗi buồn của một kiếp người nhỏ bé giữa cái vũ
trụ bao la, mênh mông.
Tiếp đến là câu đề từ chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả
bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Đứng trước cảnh "trời rộng", "sông dài"
lại khiến cho lịng người dấy lên tình cảm "bâng khng" và nhớ. Từ láy "bâng

khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình,
buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp
những con sóng lịng đầy ưu tư, sầu não như thế:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Với bốn câu thơ đầu tiên mở đầu cho bài thơ đã hiện lên rõ mồn một được không
gian thiên nhiên mênh mông và sự buồn ảm đạm. Hai từ láy nguyên "điệp điệp",
"song song" ở cuối hai câu thơ tạo thêm cho người đọc có được khơng gian mênh
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

mơng, bát ngát và mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Sóng thường rất dữ
dội, nhưng trong thơ của Huy Cận thì “ sóng gợn” tạo cảm giác cho người đọc cảm
nhận được nỗi buồn kết hợp với “ điệp điệp” càng làm cho người đọc thấy được nỗi
buồn đó vơ cùng lớn, cứ nối tiếp nhau mãi khơng hết. Hình ảnh con thuyền ở đây
cũng chính là một hình ảnh ẩn dụ cho con người, sự dịch chuyển lặng lẽ, “ song
song” giống như thân phận của mỗi người luôn luôn trôi nổi giữa dịng khơng biết
đi đâu về đâu. Dịng sơng thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng
đầy ăm ắp trong lòng
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.”
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thế mà tác giả lại thấy thuyền và nước đang chia
lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên
trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy
đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo

dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng
trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khơ" gợi sự khô héo, cạn
kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trơi nổi, bập bềnh trên "mấy dịng"
nước thiên nhiên rộng lớn mênh mơng. Cành củi khơ đó trơi dạt đi nơi nào, hình ảnh
giản dị, khơng tơ vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống
vắng, đơn cơi.
Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bằng những ngơn từ những hình tượng hết sức
gần gũi với cuộc sống của mọi người, làm cho người đọc thấu hiểu và cảm nhận
được không gian mênh mông bao la, và nỗi buồn vơ định trong lịng người ẩn chứa
trong bức tranh thiên nhiên hùng vỹ.
Và nỗi lịng đó dần đần được mở ra, đưa người đọc dần dần khám phá tìm hiểu
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ
đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Giữa khung cảnh “lơ thơ”, “cồn nhỏ”, gió thì
“đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, cùng với sự ít ỏi cơ độc khiến cho
con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều". Khi nhắc đến khung cảnh chợ, mọi người thường gợi nhớ đến sự nhộn nhịp
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

tấp lập người bn người bán, nhưng ở đây Huy Cận lại lựa chọn khung cảnh là chợ
chiều, khiến cho mọi người thấy được sự yên lặng, vắng vẻ.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu.”
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, nhưng vẫn gợi
cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại bị tách bạch khỏi nhau. Hình ảnh “sâu chót

vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại.
Đồng thời, điều đó cho thấy nỗi buồn của nhà văn không chỉ dừng lại ở thiên nhiên
xung quanh mà còn gửi lên đến tận trời cao. Hình ảnh “ sơng dài”, “ trời rộng”,
“ bến cô liêu” cho thấy được không gian bao la của mênh mông, và sự cô đơn lẻ loi
của sự vật trước cái cảnh tượng mênh mơng đó. Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã
khiến cho người đọc không chỉ thấy nỗi buồn của cảnh vật xung quanh mà nó cịn là
cảnh vật của lịng người. Nhà thơ lại nhìn về dịng sơng, nhìn cảnh xung quanh
mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá
lạnh, về cơ đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh
càng quạnh quẽ, đìu hiu.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang.
Khơng cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trơi bồng bềnh trên sơng là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ
điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trơi của kiếp người vơ định giữa dịng đời.
Nhưng trong thơ Huy Cận khơng chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối
hàng” chứng tỏ rằng khơng có một số từ nào có thể miêu tả hết được những số phận
cô đơn lạc long trong cuộc sống
“Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật.”
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "…khơng…khơng" để phủ định hồn tồn những
kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân
mật để kéo mình ra khỏi nỗi cơ đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


mênh mơng, mênh mơng. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con
người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trơi đi nơi nào.
Tiếp đến tác giả lại khéo léo sử dụng những hình tượng mẫu tỏng thi ca cổ điển để
diễn tả nỗi lòng
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”
Hình ảnh thơ là những nét chấm phá của thiên nhiên vừa mang nét đẹp cổ điển thật
trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ
Đường. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển
động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn đùn ra mãi. Hình ảnh
chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính
bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả khơng
gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là
những hình tượng thẩm mỹ để tả hồng hơn trong thơ ca cổ điển.
Như vậy, bằng những nét chấm phá tả cảnh thiên nhiên bằng những biện pháp so
sánh, tu từ độc đáo đã làm lên không gian bao la bát ngát của thiên nhiên cùng với
nỗi buồn sâu thăm cho những kiếp người. Nhưng giữa thiên nhiên và còn người
trong thơ Huy Cận lại rất hòa hợp và đan quyện vào nhau làm an chảy trái tim của
người đọc. Điều này, cho thấy được rằng sự tài tình qua các dùng từ, sự cảm nhận
của thiên nhiên bằng đôi mắt rất tinh tế, sự bày tỏ lịng mình một cách chân thực đã
đem đến cho người đọc một tâm trạng hết sức đồng cảm. Qua đó, nhà thơ Huy Cận
cịn bày tỏ tình yêu quê hương đất nước con người của chính bản thân ơng.
8. Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Mẫu 6
Đời người khơng khỏi có những lúc bước chân lang thang đến những nơi yên tĩnh
để lắng đọng tâm hồn. Những lúc ấy người ta cảm thấy mình bé nhỏ trước khơng
gian mênh mơng, vũ trụ rộng lớn. Rồi chợt họ nhận ra kiếp người sao quá ngắn ngủi,
đời người thật phù du và con người nhỏ bé trước vạn vật. Đọc “Tràng giang" của
Huy Cận cảm xúc trong tôi dâng lên nỗi buồn cô quạnh khi nghĩ về những kiếp
người trôi nổi, lênh đênh.
Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của Huy Cận mang nét u

sầu, chất chứa nhiều phiền muộn, tâm tư. Chính vì thế mà những từ ngữ trong bài
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

phản ánh trực tiếp cái sầu của thi sĩ trước thời cuộc và những suy nghĩ của tác giả
trên hành trình đi tìm “Thơ mới”.
Tên tác phẩm “Tràng giang" đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ về con sông dài, mênh
mông. Tựa đề cũng tạo cảm giác hoài cổ khi thi sĩ sử dụng một loạt từ Hán Việt. Đã
có rất nhiều người thử thay thế tên tác phẩm “Tràng giang" thành “Trường giang"
nhưng riêng tôi cho rằng cái tên vốn có của nó vẫn chính xác nhất vì khi dùng
“Trường giang" chỉ mới diễn tả được độ dài của con sông mà thôi. Thế nhưng khi
thay bằng “Tràng giang" con sơng khơng chỉ dài mà cịn rộng. Sơng trở nên mênh
mơng, bát ngát hơn từ đó nói lên được ý đồ của tác giả trong sự đối lập giữa thiên
nhiên rộng lớn và con người bé nhỏ. Câu đề từ tiếp tục khẳng định về một con sông
rộng lớn “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài". Nhưng cảm giác mang lại là sự lưu
luyến, nhớ thương về một con sông trong quá khứ.
Khổ thơ đầu tiên không chỉ mang đến bức tranh buồn, cô đơn mà thiên nhiên cịn
gợi cảnh chia li, tách rời
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Với những câu thơ đầu tiên, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh như sóng, con thuyền,
củi. Sóng đi liền với động từ “gợn" - dịch chuyển nhẹ nhàng, lăn tăn lan xa. Chỉ với
một nét gợn nhẹ ấy cũng đủ làm cho nhân vật trữ tình trở nên buồn bã. Từ láy “điệp
điệp" diễn tả nỗi buồn chồng chất, nối tiếp nhau. Nỗi buồn không chỉ dâng lên một
lúc mà nó cịn kéo dài mãi, miên man khơng dứt. Trên những gợn sóng ấy xuất hiện

“con thuyền xi mái" – cô đơn, lạc lõng, bơ vơ. Không nghe thấy tiếng mái chèo
tạo nên tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền chỉ thấy một con thuyền buông xuôi, lênh
đênh mặc cho nước xi dịng. Câu thơ cịn độc đáo trong việc khắc họa sự tách rời
giữa thuyền và nước. Thiên nhiên khơng chỉ gợi buồn mà khung cảnh chia lìa cũng
thấy rõ.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả" là câu thơ có thể hiểu nhiều cách. Thứ nhất có
thể hiểu là khi thuyền về nỗi sầu của nước lại nhân lên gấp bội. Cách thứ hai chỉ rõ
hơn về sự chia cắt khi thuyền và nước đi ngược chiều nhau. Lúc thuyền về lại chốn
cũ cũng là lúc nước ở lại với dịng sơng cùng nỗi sầu, nhưng nỗi sầu này không chỉ
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

đi theo nước một nơi mà là nhiều chốn khác nhau. Phép đối đã được sử dụng thành
cơng để nói về sự chia cách này. Khép lại khổ một Huy Cận mang đến một hình ảnh
đậm nét cơ đơn - “củi". Tính chất của hình ảnh này là “khơ" – héo úa, khơng cịn sự
sống cùng với phép đối giữa “một cành khơ" – “mấy dịng” càng nhấn mạnh hơn sự
chiếc bóng, lẻ loi của củi trên hành trình của mình. Động từ “lạc" đã nói lên được sự
bấp bênh, lênh đênh của sự vật nhưng tác giả dùng “lạc mấy dịng" thì càng làm rõ
hơn sự gian nan, “bảy nổi ba chìm" của củi. Chỉ với khổ một nhưng tâm trạng mang
lại đã buồn bã, u sầu đến vậy.
Tác giả bắt đầu với khổ thơ đầu tiên trong phạm vi hẹp. Đến với khổ thơ tiếp theo,
không gian bây giờ đã được mở rộng hơn.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sơng dài trời rộng bến cơ liêu.”
Hình ảnh “cồn nhỏ" gợi lên khơng gian vắng lặng, trơ trọi. Tính từ “nhỏ" làm cho

hình ảnh này càng bé nhỏ, chơ vơ kết hợp với từ láy “Lơ thơ" gợi cảm giác ít ỏi diễn
tả bức tranh thiếu sức sống trên cồn cát. Không gian trên cồn khơng chỉ buồn mà
cịn hiu hắt. Đến gió cũng mang cái “đìu hiu" buồn bã, thê lương như nhấn khung
cảnh vào nỗi u sầu. Các câu thơ mà tác giả sử dụng trong bài đôi khi được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều" có thể hiểu là một câu
hỏi tu từ về vị trí của “tiếng làng xa", trơng ngóng về tiếng họp buổi chiều tà. Tuy
nhiên “đâu" cũng là một từ mang nghĩa phủ định, tức là đến cả tiếng nói cũng
những người họp chợ nhà thơ cũng không hề nghe thấy. Tất cả chỉ cịn lại một
khơng gian tĩnh lặng đến lạnh lùng.
Không gian trong khổ thơ thứ hai vừa mở rộng về chiều cao và dài nhưng đồng thời
cũng mở rộng cả chiều sâu vũ trụ. Thủ pháp nghệ thuật tương phản “Nắng xuống
trời lên" đã giúp không gian mở rộng theo chiều cao. Nắng chiếu xuống tới đâu thì
bầu trời càng được đẩy cao tới đó. Chốt lại câu thơ tác giả sử dụng “sâu chót vót"
khơng những gợi được cái thăm thẳm, hun hút mà còn giúp cho vũ trụ được kéo dài
ra nhấn mạnh hơn sự nhỏ bé của con người trước thiên hà. Câu thơ cuối cùng của
khổ chính là bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bát ngát với “sông dài trời rộng". Trên
nền không gian ấy xuất hiện “bến cơ liêu". Hình ảnh này khơng chỉ lột tả được cái
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nhỏ nhoi, đơn độc mà “cơ liêu" còn là sự quạnh quẽ, lanh lẽo, chơ vơ. Nghệ thuật
tương phản giữa hình ảnh bé nhỏ với khơng gian rộng lớn càng tô đậm hơn sự u sầu,
buồn bã của tác giả khi nghĩ về kiếp người trôi nổi, long đong.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

“Bèo" – sinh vật phù du mang trong mình kiếp sống trơi nổi, bấp bênh, đã vậy còn
kết hợp với động từ “dạt" làm rõ hơn sự chìm nổi của sinh vật này. “Đâu" từ hỏi về
nơi chốn của “bèo". Hình ảnh bèo lạc lõng, bơ vơ, khơng điểm tựa khơng nơi bám
vía. “Hàng nối hàng" như khắc họa rõ hơn về số phận của lồi sinh vật này. Đọc câu
thơ ta có thể liên tưởng về những kiếp người nổi trơi, khơng có nơi nương tựa. Và
trong khơng gian “mênh mơng" đó, tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đị
để cảm nhận được sự sống nhưng dường như khơng có tín hiệu đáp lại sự mong chờ
ấy. “Khơng một chuyến đị" cũng đồng nghĩa khơng có hoạt động của con người,
điều này càng làm cho nỗi cô đơn dâng lên. Trong khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều
từ phủ định nhằm khắc họa sự cơ đơn trống vắng của lịng người. Tiếp sau “khơng
đị” là “khơng cầu". Chiếc cầu vốn là hình ảnh đặc trưng của miền quê, mang nét
giản dị, thân mật. Nhưng vì hình ảnh này khơng có nên có thể thấy thiếu vắng cảm
giác quê hương. Câu thơ cuối tác giả sử dụng màu xanh và vàng nhằm vẽ nên bức
tranh tươi sáng hơn nhưng từ láy “lặng lẽ” đã dìm màu sắc này xuống. Hai hình ảnh
“bờ xanh”, “bãi vàng” khơng cịn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy
này được đưa lên đầu như sự nối tiếp của nỗi cô đơn từ vật này sang vật khác.
Trong ba khổ thơ đầu, tác giả chỉ miêu tả về thiên nhiên thì khổ thơ cuối cùng thi sĩ
đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nước của mình
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh mỏi bóng chiều xa
Lịng q dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà”
Chỉ với 4 câu thơ nhưng nhà thơ đã cho thấy sự kết hợp hài hịa giữa cổ điển và hiện
đại. Từ láy hồn tồn “lớp lớp” diễn tả sự chồng chất, nối tiếp nhau. Câu thơ đầu
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242
6188


×