ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN VIỆN ĐÀO TẠO BÁO CHÍ VÀ
TRUYỀN THÔNG
-----🙞🙞🙞🙞🙞-----
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
MÔN: CÁC PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN TRONG NGHIÊN
CỨU TRUYỀN THÔNG
NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
QUỐC GIA HÀ NỘI VỀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN
A. MỞ ĐẦU
I.
Lý do chọn đề tài:
Ngày nay xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người không ngừng nâng cao. Con
người ln tạo cho cuộc sống của mình trở nên tiện nghi, đầy đủ đặc biệt là đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của mình. Một trong những nhu cầu đó là trao đổi thơng tin sự
ra đời của nhu cầu này đã tạo ra sự phát triển của truyền thơng. Truyền thơng có sức
mạnh vơ cùng lớn, nó lan tỏa trong cộng đồng rất nhanh chóng. Chúng ta có thể thấy
rằng chính nhờ truyền thơng mà con người được gắn kết với nhau, thông qua
facebook, tivi, báo chí,… có thể gắn kết với nhau và tạo ra một vòng kết nối bền chặt
và sâu rộng. Nhưng cũng chính vì tốc độ lan tỏa một cách chóng mặt với những nội
dung không qua kiểm duyệt dẫn đến các nội dung độc hại, lệch lạc được chia sẻ trên
mạng xã hội thu hút được rất nhiều người quan tâm và ủng hộ. Những năm gần đây
vấn đề “Nữ quyền” ở Việt Nam ngày càng thu hút được sự quan tâm của mọi người.
Trên các phương tiện thông tin tại chúng như facebook, zalo, báo điện tử, các khóa
học về “ Nữ quyền” được chia sẻ rầm rộ có tác động rất lớn đến suy nghĩ, nhận thức
của đọc giả.
Nữ quyền bắt đầu từ cuối thế kỷ 18 và trong suốt thế kỷ 19 thế kỷ, quyền, như một
khái niệm và yêu sách, ngày càng có tầm quan trọng về chính trị, xã hội và triết học ở
Châu Âu. Các phong trào xóa bỏ chế độ nơ lệ, địi quyền phụ nữ, quyền của người
không sở hữu tài sản. Sau đó nó được ảnh hưởng qua các khu vực của Châu Á, trong
đó có Việt Nam. Vào những năm gần đây thì phong trào nữ quyền ở việt nam ngày
càng phát triển, góp một phần khơng nhỏ vào chiến dịch thu hẹp khoảng cách về bất
bình đẳng giới. Bên cạnh những mặt tích cực đó, thì khi về Việt Nam nó đã bị biến
tướng bởi một số phần tử lệch chuẩn với đạo đức xã hội. Đặc biệt nó có tác động
nghiêm trọng tới học sinh, sinh viên, người thường xuyên sử dụng mạng xã hội.
Theo nghiên cứu cho thấy độ tuổi từ 18 - 40 bị ảnh hưởng rất lớn bởi truyền thông,
đặc biệt là học sinh, sinh viên dành rất nhiều thời gian cho việc lướt web rất có thể là
những nạn nhân của bão truyền thơng. Những ngày gần đây mạng xã hội đang xôn xao
với những phát ngơn lệch lạc, duy ý chí về “Nữ quyền” của một số người nổi tiếng đã
tác động không nhỏ đến nhận thức của rất nhiều người đặc biệt là sinh viên. Rất nhiều
học sinh, sinh viên dưới tác động của mạng xã hội với những thông tin được đăng tải
trên mạng xã hội một cách dễ dàng, tự do, khơng qua kiểm duyệt đã có nhận thức sai
lầm về quyền bình đẳng giới như “chủ nghĩa độc thân không cần đàn ông” “không
mặc áo ngực”,... khiến cho gia đình, bạn bè, người thân lo lắng và ảnh hưởng nghiêm
trọng đến xã hội.
Do đó chúng tơi muốn thực hiện đề tài nghiên cứu này để làm rõ về nhận thức của
sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội về vấn đề nữ quyền thông qua truyền thơng từ đó
đưa ra các giải pháp phù hợp và nâng cao nhận thức của sinh viên về vấn đề “Nữ
quyền”.
VN: Trào lưu
Định kiến về phụ nữ cần xoá bỏ (vai trị của truyền thơng trong xố bỏ định kiến)
II.
Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu cách giới trẻ tiếp nhận thông tin về phong trào nữ
quyền qua các trang mạng xã hội. Đồng thời thu thập ý kiến, quan điểm của đối tượng
nghiên cứu về phong trào nữ quyền, các quan điểm về giới tính cịn tồn tại trong xã
hội, cách giới trẻ tiếp nhận và hiểu về phong trào này…
Qua đó, nhóm nghiên cứu đưa ra đánh giá khách quan về độ phổ biến của các dự án
cộng đồng khẳng định vai trò của phái nữ, cũng như ảnh hưởng của mạng xã hội và
các phương tiện truyền thông lên nhận thức của giới trẻ; phân tích thái độ của đối
tượng nghiên cứu trong việc tiếp nhận thông tin; lý giải mối tương quan giữa các
nguồn thông tin từ phương tiện truyền thông đối với nhận thức của đối tượng nghiên
cứu về phong trào nữ quyền.
III.
Đối tượng nghiên cứu:
Sinh viên trong khối ĐHQGHN.
Lý do lựa chọn đối tượng:
-
Đối tượng thuộc độ tuổi 18 - 22 (độ tuổi dễ dàng tiếp cận và sử dụng các kênh
truyền thông, mạng xã hội)
-
Nhóm sinh viên được tiếp cận với nhiều nền văn hố và hệ tư tưởng đa dạng
-
Mơi trường có đa số sinh viên là nữ
IV.
Câu hỏi nghiên cứu:
1. Sv ĐHNN tiếp cận với vấn đề nữ quyền thông qua các kênh truyền thơng nào?
2. Truyền thơng có tác động tích cực hay tiêu cực lên suy nghĩ của sinh viên
trường ĐH QGHN?
3. Truyền thơng có tác động đến sự thay đổi trong suy nghĩ về nữ quyền xét theo
khía cạnh văn hóa của sinh viên khơng?
4. Nền tảng nào của truyền thông tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ về vấn đề nữ
quyền của SV ĐH QGHN?
V.
Giả thuyết nghiên cứu:
Mặc dù đã có sự chuyển biến tích cực trong quan hệ giới, địa vị, đời sống của
người phụ nữ Việt Nam đã từng bước được nâng cao, cải thiện cùng với những thành
tựu to lớn của công cuộc đổi mới, nhưng sự nghiệp giải phóng phụ nữ và tạo lập bình
đẳng giới ở Việt Nam vẫn là những vấn đề bức xúc, cần nhiều nỗ lực hơn nữa của cả
hai giới và của cả xã hội. Trong thực tế vẫn còn tồn tại tư tưởng “trọng nam khinh nữ"
tại một số địa phương, các hành vi xâm hại, đánh đập, hiếp đáp phụ nữ vẫn còn tồn tại
trong xã hội, nhiều người phụ nữ vẫn chưa có nhận thức đúng chuẩn về quyền hạn và
nghĩa vụ của mình trong các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội… Bên cạnh đó, vấn
đề nữ quyền ở Việt Nam nói riêng và quốc tế nói chung là vấn đề gây tranh cãi. Qua
đó, thể hiện mức độ phổ biến của vấn đề này trong toàn xã hội, tuy nhiên để bàn về
hiệu quả, tác động và sức ảnh hưởng của vấn đề nữ quyền là một việc vơ cùng khó
khăn.
Là một đề tài nghiên cứu khoa học, sinh viên và lấy đối tượng nghiên cứu là
những sinh viên của Đại học Quốc Gia Hà Nội - chúng tơi có một số giả thuyết nghiên
cứu như sau:
Thứ nhất, trên phương diện tiếp cận lý thuyết, khái niệm nghiên cứu phần đa
các sinh viên đã từng nghe hoặc đọc qua về nữ quyền và những vấn đề liên quan. Đặc
biệt là sinh viên trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, sinh viên trường Đại học
Ngoại ngữ bởi đây là những trường có phần đơng là sinh viên nữ và được học tập các
môn học liên quan chủ yếu đến Xã hội.
Thứ 2, sinh viên nữ thường có xu hướng tiếp cận, cập nhật các vấn đề nữ quyền
hơn sinh viên nam. Từ đó có ý thức bảo vệ quyền lợi của mình một cách chủ động
hơn.
Thứ 3, vẫn còn tồn tại quan điểm nữ quyền là đấu tranh cho quyền lợi của chỉ
một mình phụ nữ và nhóm phụ nữ yếu thế (da màu, nghèo, khuyết tật…); phụ nữ cần
phải mạnh mẽ hơn và không cần dựa dẫm vào đàn ông; nữ quyền là do phụ nữ làm
chủ…
Trên đây là 3 giả thuyết nghiên cứu mà chúng tôi đã đặt ra và cũng là vấn đề
cần phải làm sáng rõ trong nghiên cứu này. Trong quá trình khảo sát bảng hỏi và
phỏng vấn sâu các bạn sinh viên Đại học Quốc Gia Hà Nội, hi vọng sẽ có thể khai thác
được những thơng tin đầy đủ và tương đối chính xác, từ đó giúp đưa ra kết luận sát với
thực tế nhất.
VI.
Phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: thông qua các tài liệu tham khảo, luận văn,
lịch sử để có hệ thống hóa lý thuyết.
1. Phương pháp điều tra bảng hỏi:
2. Phương pháp thu thập số liệu: thông qua bảng hỏi, khảo sát để thu thập thông
tin, ý kiến của sinh viên trường ĐH QGHN về vấn đề nữ quyền
3. Phương pháp nghiên cứu định tính:
4. Phương pháp phân tích và tổng hợp: sử dụng những tài liệu tham khảo về lý
thuyết, và mục tiêu của việc nghiên cũng như dữ liệu thu thập được để phân
tích từ đó tổng hợp lại kết quả để đi đến được kết luận.
B. NỘI DUNG
I.
Những vấn đề lý luận cơ bản
1.1 Khái niệm về nữ quyền và chủ nghĩa nữ quyền
Khái niệm nữ quyền lần đầu tiên được khởi xướng từ những cuộc đấu tranh
biểu tình cho quyền lợi của phụ nữ trên mọi mặt trận như: xã hội, kinh tế, chính trị
vào những năm đầu của thế kỷ XIX tại Pháp và Hà Lan. Nói một cách khác thơng
qua các hoạt động đấu tranh chính trị và xã hội, nữ giới địi lại những quyền lợi
của mình để đạt đến sự bình đẳng giữa nam và nữ.
Chủ nghĩa nữ quyền (lý thuyết nữ quyền) là phần mở rộng của chủ nghĩa nữ
quyền vào trong giảng dạy hay triết học với mục đích thấu hiểu bản chất của mình
đẳng giới. Lý thuyết nữ quyền xem xét vai trò của phụ nữ trong xã hội, nghiên cứu
kinh nghiệm, sở thích, cơng việc và chính trị nữ quyền trong nhiều lĩnh vực như
nhân học và xã hội học, truyền thông, phân tâm học, kinh tế gia đình, văn học,
giáo dục, triết học….
Khi đi sâu vào phân tích sự bất bình đẳng giới, các chủ đề khám phá trong phong
trào nữ quyền bao gồm: Phân biệt đối xử, lạm dụng tình dục, áp bức, chế độ phụ
hệ, tính rập khn, lịch sử nghệ thuật và nghệ thuật đương đại và tính thẩm mĩ…
Có thể nói chủ nghĩa nữ quyền hay chủ nghĩa duy nữ giới là một tập hợp các
phong trào và ý thức hệ nhằm mục đích xác định, xây dựng và bảo vệ quyền lợi
chính đáng quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hố và xã hội bình đẳng cho phụ nữ.
Trong đó có thể bao gồm (nhưng khơng giới hạn): cơ thể toàn vẹn và tự chủ;
quyền được giáo dục và làm việc, được trả lương công bằng, quyền sở hữu tài sản,
quyền tham gia các hợp đồng hợp pháp, tổ chức các cơ quan công quyền, quyền
bầu cử, quyền tự do kết hơn, bình đẳng trong gia đình và tự do tôn giáo…
Chủ nghĩa xem xét, đề cao vai trò xã hội của người phụ nữ, tuy nhiên do có sự
liên hệ mật thiết và phát triển dựa trên lý thuyết bình đẳng giới, nên bên cạnh
việc đấu tranh cho quyền lợi của nữ giới, đây cũng là phong trào bảo vệ cho
quyền lợi của đàn ơng trên tồn thế giới.
Từ những vấn đề được đề cập phía trên, nữ quyền được chia làm nhiều dạng
lý thuyết khác nhau: Nữ quyền Xã hội chủ nghĩa, Nữ quyền Sinh thái, Nữ
quyền tự do, Nữ quyền hậu thuộc địa, nữ quyền chủ nghĩa Marx… Sự đa dạng
về các lý thuyết nữ quyền từ những làn sóng đấu tranh trên mọi mặt trận đã làm
hiển hiện những hạ tầng cấu trúc về trật tự xã hội theo giới tính, cổ vũ tinh thần
địi quyền bình đẳng cho mọi cá nhân yếu thế trong xã hội. Bên cạnh đó nhằm
vào tầm quan trọng của địa vị xã hội và những lập trường chuyên biệt, những
chủ nghĩa nữ quyền nổi dậy giới tính đạp đổ những phạm trù về đàn bà và đàn
ông thành mọi loại đa phức. Những chủ nghĩa nữ quyền đa văn hoá, đa chủng
tộc, sắc tộc là thành phần của một phong trào chính trị mạnh mẽ, nhằm chấn
chính sự kì thị về mặt pháp lý và xã hội từ quá khứ đến hiện tại, cùng với nhóm
yếu thế, góp phần bảo tồn những giá trị văn hoá lâu đời.
1.2 Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam
Là một quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề từ tư tưởng Nho giáo “Trọng nam,
khinh nữ”, trong suốt chiều dài lịch sử phong kiến, phụ nữ Việt Nam luôn bị coi
là “cái bóng” của người đàn ơng. Ngay sau khi tuyên ngôn khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, vấn đề bình đẳng giới đã được chú trọng và tạo
nên nhiều điểm sáng trong tổng thể bức tranh tồn cảnh xã hội. Tính đến nay,
sau 75 năm kể từ khi quyền của người phụ nữ Việt Nam lần đầu tiên được
khẳng định “nam nữ bình quyền”, Việt Nam đã có rất nhiều hành động nhằm
giảm bớt sự kỳ thị và bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Những hành động
này thậm chí đã được thể chế hóa thành chính sách nhà nước, thành văn bản
luật, đơn cử như Luật Bình đẳng giới được ban hành năm 2006, và mới đây là
Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Cũng khơng có nhiều nước trên thế giới mà
các hành động, biện pháp thực hiện bình đẳng giới được đưa thành chương
trình hoạt động cụ thể của từng tỉnh thành, từng địa phương… như ở Việt Nam.
Báo cáo Phát triển con người của UNDP năm 2006 cho thấy, mức độ bình
đẳng giới tại Việt Nam xếp thứ 11 trên thế giới. Chỉ số này thậm chí cao hơn
nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới là Anh một bậc. Theo báo cáo
Khoảng cách giới tính toàn cầu năm 2007 mà Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF)
công bố, xét trong khu vực ASEAN và Đông Á, Việt Nam đứng ở ngôi vị thứ
hai về mức độ bình đẳng giới.
Những thành tựu kể trên là minh chứng cho sự nỗ lực cố gắng của chính phủ
Việt Nam trong việc nâng tầm quan trọng của phụ nữ trong xã hội. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cịn có nhiều góc khuất tồn tại trong chính những gia đình hạt
nhân, do tư tưởng sai lệch của người đàn ông và cả phụ nữ Việt Nam.
Trong xã hội từ xưa đến nay, không thiếu những chuyện nhiều ơng chồng có
tính gia trưởng, ăn rồi tối ngày đi nhậu, ngồi qn cà phê "chém gió", khốn
trắng mọi việc nội trợ cho vợ bởi vì "đó khơng phải là việc của đàn ơng"; hoặc
ít bộc lộ tình cảm, cũng khơng đánh giá đúng cơng sức, sự đóng góp của vợ
trong vơ số cơng việc khơng tên hàng ngày; hoặc đi làm lương chỉ vừa đủ tiêu
cho mình cịn vợ phải chạy ngược chạy xi bn bán, kinh doanh, làm thêm
để đủ chi tiêu cho cả nhà vừa lo toan trong ngồi, chăm sóc con cái…
Ở nơng thơn, hoặc trong các gia đình khơng có trình độ cao, khơng hiếm gì
chuyện các bà vợ bị bạo hành, đánh đập…Chúng ta vẫn thường đọc thấy những
câu chuyện các bà vợ bị đánh, các cô bị bồ giết bằng những hình thức dã man
như đổ xăng châm lửa đốt, chém…chỉ vì từ chối tiếp tục mối quan hệ hay thậm
chí chỉ vì người đàn ơng kia ghen bóng ghen gió.
Ở thành thị, ngay trong thành phần có học, chuyện bất bình đẳng giới cho tới
bạo hành vẫn có, dưới những hình thức khác-bạo hành bằng lời nói, tình dục,
tài chính, hay có những thái độ khơng tơn trọng…
"Báo cáo Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019
cho thấy, cứ 3 phụ nữ thì có gần 2 phụ nữ (gần 63%) bị một hoặc hơn một hình
thức bạo lực thể xác, tình dục, tinh thần và bạo lực kinh tế cũng như kiểm soát
hành vi do chồng gây ra trong cuộc đời và gần 32% phụ nữ bị bạo lực hiện thời
(trong 12 tháng qua)…" (Thơng cáo báo chí, Cơng bố Báo cáo điều tra quốc gia
về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019: "Hành trình để thay đổi",
UNFPA Vietnam). Con số này, có nguy cơ gia tăng do vấn đề dịch bệnh Covid19 kéo dài khiến cho áp lực về kinh tế, xã hội ngày càng đè nặng lên đôi vai
người đàn ông, dẫn đến những hành động bóc lột, bạo hành người phụ nữ trong
gia đình.
Trong những năm gần đây vấn đề nữ quyền đã có ảnh hưởng tích cực tới
nhiều khía cạnh xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó cịn nhiều cái nhìn sai lệch, thiếu
hiểu biết sâu về nữ quyền như: nữ quyền đề cao giá trị người phụ nữ, hạ thấp
giá trị đàn ông; nữ quyền là khước từ thiên tính nữ của người đàn bà hay nữ
quyền là giải phóng phụ nữ khỏi những giá trị truyền thống… Do đó, việc gia
tăng hiểu biết của cả nam nữ về bình đẳng giới nói chung và vấn đề nữ quyền
nói riêng là vơ cùng quan trọng và cấp thiết. Để có thể hướng tới một tương lai
xã hội bình đẳng, bác ái, công bằng và đa dạng về giới, thế hệ trẻ ngày nay nên
có một cái nhìn sắc bén về vấn đề nữ quyền ở Việt Nam và thế giới.
III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Ở thế kỉ XX, dưới tác động của văn hoá phương Tây, đặc biệt là văn hoá Pháp
đã làm thay đổi nhận thức của tri thức Việt Nam khi bàn về nữ quyền. Khái niệm nữ
quyền ở Việt Nam đã xuất hiện trong bài Về thói trọng nam khinh nữ của ta đăng trên
báo Đơng Dương tạp chí ngày 11/02/1914. Đây là một bài viết hướng tới nội dung kêu
gọi phụ nữ Việt đứng lên đấu tranh cho quyền bình đẳng giới.
Có thể thấy rằng, giới tri thức Việt Nam đầu thế kỉ XX là những người đầu tiên
khởi xướng vấn đề quyền của người phụ nữ. Trong đó, tiêu biểu là những tên tuổi:
Đặng Văn Bảy, Phan Bội Châu, Trần Thiện Tỵ, Bùi Thế Phúc,... Để thể hiện cho quan
điểm của mình, những tri thức Việt Nam đầu thế kỉ XX đã cho in những tập sách nhằm
lên tiếng bênh vực cho người phụ nữ và phổ biến tư tưởng bình đẳng rộng khắp trong
xã hội.
Đặng Văn bảy (1903-1983), được biết tới là người đầu tiên công bố công trình
nghiên cứu về vấn đề nữ quyền và bình đẳng nam nữ ở Việt Nam. Cuốn chuyên khảo
“Nam nữ bình quyền" của ơng được hồn thành vào năm 1927, nội dung tập trung làm
sáng tỏ vấn đề về tình trạng bất bình đẳng giới, ơng lên tiếng dành cho người phụ nữ
quyền bình đẳng so với nam giới: “Tơi đề xướng nam nữ bình quyền là do thấy rất
nhiều đàn bà con gái bị bê bỏ, hiếp đáp, còn đàn ông con trai lại quá tự do. Phép công
bình là đôi bên phải đồng, không khinh không trọng, không thấp không cao.” [2;4]
Sau Đặng Văn Bảy, Phan Bội Châu (1867-1940) đã cơng bố tác phẩm của mình
cũng về đề tài quyền của người phụ nữ Việt Nam, cuốn sách mang tên: Vấn đề phụ nữ
vào năm 1829. Là thủ lĩnh của phong trào Đơng Du, trong q trình hoạt động cách
mạng của mình Phan Bội Châu đã có cái nhìn tiến bộ về phụ nữ và kêu gọi phụ nữ
tham gia vào cơng cuộc giải phóng dân tộc.
Khác với quan điểm về nữ quyền của nhiều tri thức khác, Phan Bội Châu cho
rằng: “Nữ quyền nghĩa là quyền đàn bà con gái cũng như nam quyền nghĩa là quyền
của người con trai, nhưng xét cho gốc chân lý, chăm cho đến nguồn triết học, thời nữ
quyền với nam quyền tất cả thu nạp trong hai chữ nhân quyền, nghĩa là quyền con
người, mà cũng là quyền làm người" [2;8]. Như vậy, Phan Bội Châu đã đặt vấn đề nữ
quyền trong phạm trù chung về quyền con người. Đồng thời quan niệm này cũng bác
bỏ ý kiến cho rằng: Việc kinh bang tế thế, việc quốc gia, xã hội là của đàn ông. Đàn bà
là phận yếu đuối quần thoa không thể lo liệu được.
Phan Bội Châu đã đề xuất chủ trương vận động phụ nữ, nội dung gồm 4 điểm
như sau:
1. Thứ nhất, Mở mang về đường trí thức của phụ nữ;
2. Thứ hai, Liên kết đoàn thể phụ nữ
3. Thứ ba, Chấn hưng chức nghiệp của phụ nữ
4. Thứ tư, Nâng cao địa vị của phụ nữ
Qua đây cũng thể hiện tư tưởng tiến bộ, cho thấy tính mới, tính thức thời của trí
thức Việt Nam trong q trình tiếp cận nguồn tư tưởng tiến bộ của phương Tây đặc
biệt là văn hố Pháp. Ngồi Đặng Văn Bảy, Phan Bội Châu thì Trần Thiện Tỵ và Bùi
Thế Phúc cũng là những tri thức đầu thế kỉ XX có đóng góp về vấn đề quyền của
người Phụ nữ Việt Nam.
Những năm đầu thế kỉ XX là những năm ghi dấu mốc quan trọng trong lịch sử
quan trọng. Đây là thời điểm người Việt quyết tâm gạt bỏ ý thức phong kiến, bỏ học
chữ Hán, bỏ lối thi cử kiểu Nho giáo đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử Trung Đại để đón
nhận hệ tư tưởng mới - hệ tư tưởng dân chủ tư sản. Người trí thức Việt Nam đầu thế kỉ
XX trên cơ sở nhận thức về những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt, đã biết
tiếp thu những nét tiến bộ của văn minh phương Tây, đưa ra những quan niệm mới
trong nhận thức về người phụ nữ, đề cao về quyền con người góp phần thay đổi định
kiến, lối tư duy “trọng nam khinh nữ" trong đông đảo quần chúng. Những chuyên
luận, ý kiến của các trí thức thế kỷ XX cũng chính là những bài học quý giá cho lịch
sử trí thức dân tộc, là nền tảng tri thức quan trọng cho những nghiên cứu về đề tài
người phụ nữ và vấn đề nữ quyền sau này. Do đó giai đoạn này được gọi là giai đoạn
thứ nhất của nghiên cứu và truyền bá về giới.
Tới những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, ở nước ta đã được thực hiện
trên cơ sở phát huy những thành tựu đã đạt được, công tác nghiên cứu và đào tạo về
giới bước sang một giai đoạn mới. Nhiều cán bộ được cử đi đào tạo ở nước ngồi với
nhiều hình thức khác nhau, nhất là đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ về các lĩnh vực giới và liên
quan về giới.
Nhiều nghiên cứu lý thuyết quan điểm giới, quan điểm nữ quyền và lý thuyết
nghiên cứu phụ nữ được đầu tư và đẩy mạnh. Nhiều bài viết, nghiên cứu luận văn,
luận án tiến sĩ, thạc sĩ được trình bày chi tiết đa dạng phong phú như:
Đặng Vân Chi với Vấn đề nữ Quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, được in trong
kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất.
Lê Ngọc Văn với Nghiên cứu gia đình - Lý thuyết nữ quyền quan điểm giới
được in trong Viện Khoa học Xã Hội và Nhân văn - Viện gia đình và Giới đã giới
thiệu lịch sử hình thành tư tưởng nữ quyền, một số quan niệm cơ bản, ứng dụng lý
thuyết mới,...
Tác giả Phương Lựu với cơng trình Lý thuyết văn học hậu hiện đại xuất bản
năm 2011, tác giả đã chỉ ra những tiền đề, sự phát triển của lý thuyết và phê bình nữ
quyền, đặc biệt là phê bình nữ quyền da đen.
Tác giả Bùi Thị Tỉnh với sách tham khảo Phụ nữ và Giới
Trần Huyền Sâm với Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam Đương
Đại.
...
Những nghiên cứu lý thuyết này, một mặt nhằm giới thiệu một cách đầy đủ và
toàn diện lịch sử phong trào nữ quyền ở Phương tây, những trường phái nữ quyền cơ
bản - nguồn gốc ảnh hưởng của nó đến phong trào phụ nữ cũng như các ngành học
khoa học xã hội và nhân văn, phụ nữ học và sự hình quan điểm giới và vai trị của nó
đối với thực tiễn cuộc sống và các ngành khoa học xã hội ở các nước phát triển
Đây là thời kỳ thứ hai và ba của nghiên cứu và truyền bá giới, giai đoạn này các
chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học và thực tiễn theo quan điểm giới được
triển khai một cách vừa sâu sắc vừa quy mô. Cùng với các nghiên cứu khoa học
chuyên sâu, các dự án, chương trình phát triển ở mọi lĩnh vực, bộ, ngành, địa phương
trong cả nước đều được triển khai theo xu thế chủ đạo giới (lồng ghép giới). Có thể
thấy, thời gian qua, quan điểm giới đã thấm sâu vào mọi chương trình, dự án và kế
hoạch phát triển tồn diện của từng địa phương và cả nước. Điều này hoàn tồn phù
hợp với đặc trưng và tính chất của ngành khoa học nghiên cứu về phụ nữ luôn gắn liền
với các hoạt động và phong trào thực tiễn của phụ nữ. Nghiên cứu phụ nữ, nghiên cứu
giới phải xuất phát từ những vấn đề bức xúc của phụ nữ, của quan hệ giới và phải
hướng tới giải đáp một cách khoa học, kịp thời những vấn đề giới và phụ nữ đang đặt
ra trong thực tiễn đời sống. Rõ ràng, quan điểm giới đã và đang trở thành sự định
hướng hành động trong quá trình phát triển bền vững ở nước ta.
Dựa trên báo cáo kết quả nghiên cứu của một số đề tài về giới và nhận thức
giới, có thể thấy rằng dân tộc Việt Nam có truyền thống “tơn trọng phụ nữ", cũng như
Đạo Mẫu ở Việt Nam có nhiều cơ sở lịch sử và bản sắc tương đồng của quan điểm
giới. Từ cơ sở vững chắc đó, những đề tài nghiên cứu mới có xu hướng bám sát vào
thực tế xã hội, đi từ những vấn đề bức xúc của phụ nữ, của quan hệ giới, và hướng tới
các giải pháp khoa học, kịp thời có tính ứng dụng cao trong đời sống xã hội. Rõ ràng,
quan điểm giới đã và đang trở thành định hướng hành động trong quá trình phát triển
bền vững cớ nước ta.
Danh
mục
tài
liệu
tham
khảo:
[1] TS Nguyễn Thị Thanh Tùng - Khoa LLCT-GDCD, Nhận thức mới của trí thức
Việt
Nam
về
vấn
đề
nữ
quyền
trong
đầu
thế
kỷ
20,
/>[2] Phan Bội Châu, Vấn đề phụ nữ, Tân dân thư xã, 1929, tr.8-11
[3] Nguyễn Linh Khiếu, 24/06/2007 - Nghiên cứu giới ở Việt Nam - Tạp chí Cộng Sản,
/>[4] Đặng Văn Bảy, Nam nữ bình quyền, 1928, Sách lưu tại Trung tâm Thông tin thư
viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
IV. Tổng hợp + Phân tích bảng hỏi
Khảo sát trên đối tượng 154 sinh viên (trong đó có 81 sinh viên nữ, 67 sinh viên nam,
cịn lại lựa chọn giới tính khác) đến từ các trường Đại học khác nhau trực thuộc khối
Đại học Quốc Gia Hà Nội từ ngày 21/04/2021 đến ngày 15/06/2021 đã cho ra các kết
quả khảo sát như sau:
Có đến 98% sinh viên làm khảo sát trả lời rằng đã từng nghe qua về cụm từ “nữ
quyền” và phần lớn đều được tiếp cận với khái niệm này thông qua mạng xã hội,
phương tiện truyền thông đại chúng và qua các môn học trên trường lớp. Điều này cho
thấy vấn đề nữ quyền khơng cịn là một vấn đề quá xa lạ với sinh viên Đại học Quốc
gia nói chung. Đây cũng là một vấn đề đã được đưa vào trong chương trình giảng dạy
của những mơn học xã hội
Khi được hỏi về cách hiểu về khái niệm “Nữ quyền” hầu hết các đối tượng khảo sát ở
tất cả các giới tính đều lựa chọn rằng “Nữ quyền dựa trên lý thuyết về bình đẳng giới,
đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, đàn ơng. Trong đó phụ nữ đóng vai trị
quan trọng trọng việc tự chủ khẳng định quyền lợi, vị thế của mình trong 3 mặt: Kinh
tế,Văn hóa Xã hội, chính trị.” và số đơng này cũng cho rằng “Phong trào nữ quyền là
phong trào tồn cầu”. Số ít cịn lại thì cho rằng “Nữ quyền chỉ đấu tranh quyền bình
đẳng cho nữ giới, đặc biệt là nhóm nữ giới yếu thế (phụ nữ nghèo, phụ nữ khuyết
tật,...)” hay “Nữ quyền là chống lại sự áp bức bóc lột của đàn ơng. Khẳng định quyền
làm chủ của phụ nữ” và “Nữ quyền hiện chỉ phổ biến ở Châu Âu, Châu Mỹ” hay “Chỉ
ở những quốc gia kém phát triển và đang phát triển phụ nữ mới cần đấu tranh nữ
quyền”
Ở Việt Nam có khơng ít những chiến dịch, dự án truyền thông của các thương hiệu,
nhãn hàng lớn lấy chủ đề người phụ nữ với ý nghĩa nhằm tôn vinh vẻ đẹp kết hợp với
sự mạnh mẽ của người phụ nữ. Trong số đó, tiêu biểu và được biết đến nhiều nhất là
phong trào Me Too (bắt nguồn từ hashtag "#MeToo") là một phong trào chống quấy
rối và bạo hành tình dục. #MeToo lây lan nhanh chóng vào tháng 10 năm 2017 như
một hashtag được sử dụng trên phương tiện truyền thông xã hội để giúp chứng minh
sự phổ biến rộng rãi của sự quấy rối và bạo hành tình dục, đặc biệt là tại nơi làm việc.
Tiếp sau đó là chương trình hỗ trợ nâng quyền phụ nữ Chính Nữ - Hãy là Nhân vật
chính trong câu chuyện của mình được L’Oréal Paris giới thiệu nhân ngày Quốc tế Phụ
nữ 8/3 vừa qua. Đây là hoạt động đóng góp vào chương trình vinh danh Người phụ nữ
tạo nên giá trị cho cuộc sống (Women of Worth) của L’Oréal Paris trên khắp tồn cầu
nhằm vinh danh những hình mẫu về nghị lực vươn lên, tỏa sáng và tạo cảm hứng tích
cực cho cộng đồng từ nữ giới Việt Nam. Tiếp sau đó là Ngồi ra cịn có các phong trào
khác cũng được các bạn sinh viên biết đến như “Dự án nhỏ "nâng cao vị thế và phát
triển kỹ năng" nằm trong dự án "Youtube Creators for change" có sự tham gia của
Giang ơi, 1977 Vlog, Tizi Đích Lép”, “Bước về phía mặt trời - HH H'hen Niê (Bitis
Hunter)
135/154 sinh viên tức hầu hết các sinh viên ở cả 2 giới tính nam và nữ đều trả lời rằng
họ hoàn toàn ủng hộ nữ quyền chiếm 87,7% số ít cịn lại chọn hồn tồn khơng ủng hộ
hay khơng quan tâm hầu hết đều là ở sinh viên nam. Điều này cho thấy rằng “nữ
quyền” là một vấn đề được các sinh viên ủng hộ cũng như họ đều có cái nhìn tích cực
về vấn đề này.
Đối với câu hỏi về quan điểm “phụ nữ không cần đàn ông, không mặc áo ngực” hơn 1
nửa đối tượng khảo sát (47/81 nữ, 39/67 nam) lựa chọn trung lập, họ không đồng ý
cũng không phản đối quan điểm này. Tuy nhiên đối với những đối tượng khảo sát còn
lại ở tất cả các giới phần lớn hơn khơng đồng tình với quan điểm phụ nữ không cần
đàn ông, không cần mặc áo ngực. Điều này cho thấy rằng quan điểm này vẫn đang là
một trong những quan điểm gây tranh cãi rất nhiều. Bởi có rất nhiều phụ nữ hiện đại
ngày nay họ đặt ra những câu hỏi rằng “Tại sao phụ nữ phải mặc áo ngực cịn đàn ơng
thì khơng?” và cũng có rất nhiều các quan điểm xoay quanh câu hỏi này mà chưa có
câu trả lời thỏa đáng nào được đưa ra cả.
Đối với quan điểm rằng “đàn ơng phải có trách nhiệm lo cho kinh tế gia đình cịn phụ
nữ có bổn phận chăm lo cho con cái gia đình”, có đến hơn 1 nửa sinh viên làm khảo
sát đều khơng đồng tình với quan điểm này ở cả 2 giới. Số còn lại đứng trung lập và
phần ít thì đồng ý với quan điểm này. Những người đồng ý với quan điểm đều là ở
sinh viên nam. Trong xã hội hiện đại khi những đòi hỏi về chất lượng cuộc sống ngày
càng cao hơn thì những quan điểm về vai trị của người đàn ơng và phụ nữ trong gia
đình cũng đã có sự thay đổi ít nhiều tùy thuộc vào hồn cảnh của mỗi gia đình và suy
nghĩ của họ.
Đối với quan điểm “đàn bà khi thích, có thể làm kha khá việc, nhưng vụng việc nhà,
kể ra cũng dở" của MC Trác Thúy Miêu có thể thấy suy nghĩ của sinh viên làm khảo
sát về quan điểm này khá nhiều chiều. Số lượng sinh viên đồng tình, khơng đồng tình
và đứng trung lập khá tương đương với nhau và khơng có q nhiều sự chênh lệch.
Thực tế đây cũng là một quan điểm gây ra rất nhiều tranh cãi trên mạng xã hội. Tục
ngữ có câu “Đàn ơng xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” với quan niệm rằng việc nặng nhọc
là của đàn ơng cịn phụ nữ là người “giữ lửa” của gia đình. Thế nhưng vơ hình chung
trách nhiệm “xây tổ ấm” nghe có vẻ nhẹ nhàng này lại trở thành những gánh nặng vơ
hình của người phụ nữ. Từ việc bếp núc, con cái đến cách duy trì cuộc sống khơng
phải là chuyện dễ dàng. Trong bài viết của MC Trác Thúy Miêu mà cô chia sẻ trên
mạng xã hội cịn có câu nói rằng “việc bếp núc là đặc quyền riêng của người phụ nữ”
nhưng có những câu bình luận rằng câu nói này chỉ đúng với những người có nhu cầu
như vậy cịn với nhiều phụ nữ khác thì đó là những gánh nặng.
Và cũng gần 90% tổng số người làm khảo sát đều khơng đồng tình với quan điểm
“Việc nhà là việc dành riêng cho phụ nữ” => Có thể thấy rằng nhận thức của phần lớn
sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội làm khảo sát hiện nay khơng cịn giữ lối suy nghĩ
cổ hủ, mang tính “trọng nam khinh nữ” nữa. Có thể nói rằng trước đây hầu hết phụ nữ
đều có cảm nhận chung rằng nhiều cơng việc khơng tên trong gia đình đã chiếm rất
nhiều thời gian và sức lực của mình sau giờ tan làm. Và rồi câu hỏi “Vì sao câu nói
“giỏi việc nước đảm việc nhà” lại chỉ áp dụng cho phái nữ?” cũng được đưa ra. Xã hội
hiện đại như ngày nay có thể thấy rằng vai trò của người phụ nữ và người đàn ơng
cũng tương đương nhau, cùng có nghĩa vụ kiếm tiền và chăm lo cho gia đình, nếu bớt
rạch ròi trong việc phân chia nghĩa vụ của mỗi bên trong gia đình và cùng nhau chia sẻ
thì sẽ xây dựng nên một mái ấm hạnh phúc hơn rất nhiều.
Vậy thì những người phụ nữ ủng hộ nữ quyền nghĩa là họ phải độc lập, độc thân và
mạnh mẽ hơn đàn ông? Đối với quan điểm này hơn 1 nửa số sinh viên làm khảo sát
lựa chọn không đồng tình. Điều này cho thấy sinh viên làm khảo sát đã có những suy
nghĩ khách quan và đúng đắn về nữ quyền. Có rất nhiều những suy nghĩ sai lầm về nữ
quyền đó là nếu ủng hộ nữ quyền thì là chống lại nam giới hay hạ thấp giá trị của phái
nam nhưng bản chất của nữ quyền là “bình đẳng giới” với mục đích là xóa mờ đi cách
biệt về cơ hội và cách nhìn cũng như những định kiến của xã hội đối với cả hai giới.
Hầu hết các sinh viên đều khơng đồng tình ở cả 2 câu hỏi về quan điểm đàn ông thông
minh hơn phụ nữ và đàn ông thường được nắm các chức quyền cao hơn vì có tầm nhìn
và thơng hơn phụ nữ. Ở xã hội thời kì phong kiến, phụ nữ thậm chí cịn khơng có
quyền được động vào sách vở vì thế mà việc người phụ nữ được nắm quyền trong bộ
máy nhà nước vốn là việc không thể. Thế nhưng trong xã hội hiện đại, những hủ tục
và định kiến đó đã dần được phá bỏ một cách mạnh mẽ khi giá trị và sức mạnh của
người phụ nữ cũng ngày càng được đánh giá cao. Có thể nhìn vào sự kiện Bầu cử Đại
biểu Quốc Hội và Hội đồng Nhân dân các cấp diễn ra vào tháng 5 vừa qua, Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, điều luật để tạo thuận lợi nhằm nâng cao tỷ
lệ phụ nữ tham gia hoạt động chính trị nói chung, Quốc hội và Hội đồng Nhân dân nói
riêng.
● Đánh giá tổng quát về nhận thức của sinh viên đến từ các Trường Đại học
trực thuộc Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội ở 2 giới nam và nữ về vấn đề
nữ quyền
Phần lớn tất cả các đối tượng làm khảo sát đều đã được tiếp cận về vấn đề “nữ quyền”.
Điều đó cho thấy rằng vấn đề nữ quyền khơng cịn là một vấn đề q xa lạ đối với sinh
viên, trong đời sống cũng như trên trường lớp họ cũng đã có những mức độ tiếp cận
nhất định với vấn đề này. Qua khảo sát về vấn đề nữ quyền ở 154 đối tượng sinh viên
Đại học Quốc Gia Hà Nội cho thấy nhận thức của 2 giới về vấn đề hầu hết đều có xu
hướng giống nhau và khơng có q nhiều sự khác biệt hay đối lập. Tuy nhiên đối với
những câu hỏi nhận thức về các quan điểm cụ thể hơn về vấn đề nữ quyền nhiều sinh
viên vẫn chưa có những nhận định hay nhận thức của riêng mình, đơn giản chỉ mới
biết nhưng chưa tìm hiểu và có kiến thức sâu về nữ quyền. Cụ thể:
-
Sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội tiếp cận vấn đề nữ quyền thông các kênh truyền
thông đại chúng như Facebook, Youtube, Google, các trang báo mạng. Đồng thời,
phong trào nữ quyền MeToo được sinh viên biết đến rộng rãi nhất thơng qua các trang
mạng xã hội. Bên cạnh đó, chiến dịch truyền của của L’Oréal Paris Vietnam với
chương trình hỗ trợ nâng quyền phụ nữ Chính Nữ “Hãy là Nhân vật chính trong câu
chuyện của mình cũng nhận được sự quan tâm đông đảo, khi đứng thứ 2 trong độ nhận
diện với sinh viên.
-
Thứ hai, nhìn chung, qua khảo sát trên 154 sinh viên cho thấy, các sinh viên này đều
có cái nhìn, suy nghĩ tích cực đối với vấn đề nữ quyền đặc biệt về những quan điểm
nâng cao bình đẳng giới, xóa bỏ những suy nghĩ cổ hủ lạc hậu như “việc nhà việc
dành riêng cho phụ nữ”, “đàn ơng phải có trách nhiệm lo cho kinh tế gia đình, cịn phụ
nữ có bổn phận chăm lo cho con cái gia đình”,...Bên cạnh đó, những quan điểm biến
tấu về nữ quyền như “ủng hộ nữ quyền là phụ nữ phải độc lập, độc thân và mạnh mẽ
hơn đàn ông” cũng nhận lại những phản hồi tiêu cực từ sinh viên.
-
Cuối cùng, thông qua phỏng vấn với Thạc sĩ Xã hội học đồng thời là Giảng viên khoa
Xã hội học Phạm Thị Minh Tâm thu được: vấn đề nữ quyền vẫn đang được rất quan
tâm tại Việt Nam. Theo cô, nhờ vào các phương tiện truyền thông đại chúng, chính
người phụ nữ đã có cái nhìn khác đi về quyền của mình và biết đứng lên đấu tranh kêu
gọi về sự bình đẳng cho bản thân. Nhận xét về tranh cãi gần đây giữa quan điểm “căn
bếp là đặc quyền của đàn bà“ của MC Trác Thúy Miêu trên truyền thông và quan điểm
“căn bếp là đặc quyền của đàn bà”, cô cho rằng: “chuyện bếp núc cũng vậy, bình đẳng
hay địi lại quyền cho nữ giới khơng phải là việc nữ giới chúng ta bỏ hết những việc
chúng ta đang làm.” và “bếp núc với mình là việc cần thiết mà cả 2 giới phải biết để
sinh tồn, trước hết là phải biết để tự chăm sóc sức khỏe cho bản thân - gia đình, sau
là để tạo ra tiếng cười, gắn kết yêu thương.” Đặc biệt, theo cô, trong những năm gần
đây, nữ quyền ở Việt Nam đang thay đổi rất mạnh mẽ và rõ rệt nhất trong lĩnh vực
chính trị “Rất nhiều phụ nữ trở thành người đi đầu trong những hoạt động kinh tế, có
những bài phát biểu rất sâu sắc và rất nhiều phụ nữ đã trở thành cán bộ lãnh đạo từ
cấp địa phương đến cấp trung ương.”