ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
--------------------
HỒNG THỊ HẠNH
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG HAI TIỂU THUYẾT
MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH VÀ
KIM LĂNG THẬP TAM THOA CỦA NGHIÊM CA LINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2020
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
--------------------
HỒNG THỊ HẠNH
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG HAI TIỂU THUYẾT
MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH VÀ
KIM LĂNG THẬP TAM THOA CỦA NGHIÊM CA LINH
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THỊ THẬP
THÁI NGUYÊN - 2020
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan luận văn “Hình tượng nhân vật phụ nữ trong hai tiểu thuyết
Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh và Kim Lăng thập tam thoa của Nghiêm
Ca Linh” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, dưới sự giúp đỡ khoa học của TS.
Hồng Thị Thập.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa được công
bố trong bất kỳ cơng trình nào trước đây.
Thái Ngun, tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Hạnh
i
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn và sự tri ân sâu sắc tới TS. Hoàng Thị Thập,
người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tơi trong q trình nghiên cứu
và hồn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa
Sau đại học - trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tham gia giảng dạy,
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại
trường.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè những người
đã ln ở bên động viên, khích lệ, tạo điều kiện, giúp đỡ tơi trong suốt q trình học
tập và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Hạnh
ii
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
MỤC LỤC
Lời cam đoan .................................................................................................................. i
Lời cảm ơn .....................................................................................................................ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................8
6. Đóng góp của luận văn ..............................................................................................9
7. Cấu trúc của luận văn.................................................................................................9
Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC SO SÁNH, HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT
VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA HAI NHÀ VĂN NGUYỄN XUÂN KHÁNH VÀ
NGHIÊM CA LINH........................................................ ...........................................9
1.1. Khái niệm văn học so sánh và khái niệm hình tượng nhân vật trong tác phẩm
văn học .........................................................................................................................10
1.1.1. Khái niệm văn học so sánh ................................................................................10
1.1.2. Khái niệm hình tượng nhân vật .........................................................................12
1.2. Hai nhà văn: Nguyễn Xuân Khánh và Nghiêm Ca Linh ......................................14
1.2.1. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và tác phẩm Mẫu thượng ngàn ..............................14
1.2.2. Nhà văn Nghiêm Ca Linh và tác phẩm Kim Lăng thập tam thoa ..........................20
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................28
Chương 2: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN
NỘI DUNG .................................................................................................................29
2.1. Nhân vật phụ nữ - hiện thân của bất hạnh ............................................................29
2.2. Nhân vật phụ nữ - hiện thân của khát khao hạnh phúc.........................................41
2.3. Nhân vật phụ nữ và nữ quyền ...............................................................................45
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................55
iii
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG
KIM LĂNG THẬP TAM THOA VÀ MẪU THƯỢNG NGÀN TRONG SỰ
ĐỐI SÁNH ..................................................................................................... 56
3.1. Nhân vật phụ nữ qua ngoại diện ...........................................................................57
3.2. Nhân vật phụ nữ qua hành động ...........................................................................64
3.3. Nhân vật phụ nữ qua lời văn nghệ thuật ...............................................................72
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................78
KẾT LUẬN .................................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................83
iv
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Xuân Khánh là một trong những nhà văn được coi là “cây đại thụ”
của nền văn học Việt Nam đương đại. Trên văn đàn Việt Nam hiện nay, ông không chỉ
là một nhà văn mà còn là một dịch giả nổi tiếng. Ông cũng được đánh giá cao về ý thức
tự học. Năm 2018, ông nhận được giải thưởng Thành tựu văn học trọn đời. Hiện tại,
Nguyễn Xuân Khánh là nhà văn thu hút sự quan tâm của độc giả và giới nghiên cứu.
Nghiêm Ca Linh là một trong những nhà tiểu thuyết nổi tiếng của nền văn học
đương đại Trung Quốc. Tên tuổi của bà gắn với những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng được
viết bằng tiếng Anh, tiếng Trung Quốc. Bên cạnh đó, bà cịn sáng tác truyện ngắn, kịch,
tiểu luận. Với sự nỗ lực và sáng tạo không ngừng, cho đến nay, bà đã giành được
khoảng 30 giải thưởng văn học và kịch bản điện ảnh. Các sáng tác của Nghiêm Ca Linh
đã được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới như: Hà Lan, Anh, Pháp, Đức, Nhật,
Bồ Đào Nha. Hiện nay, bà là cây bút nữ có tầm ảnh hưởng lớn trên văn đàn với nhiều
tác phẩm có giá trị.
1.2. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh thường được nhắc đến với bộ ba tiểu thuyết
Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa. Trong đó, Mẫu thượng ngàn là
cuốn tiểu thuyết tiêu biểu, đem lại tiếng vang lớn cho nhà văn. Tiểu thuyết Mẫu thượng
ngàn được viết lần đầu năm 1958 với tên tiền thân Làng nghèo. Làng nghèo ra đời đánh
dấu bước ngoặt lớn trong sự thay đổi cách nhìn nhận của Nguyễn Xuân Khánh về xã
hội bấy giờ. Vì lẽ đó, cuốn tiểu thuyết Làng nghèo khơng được xuất bản, chỉ cịn được
giữ lại bằng bản thảo. Sau này, vào năm 2005, ơng mới có cơ hội viết lại, với những
vấn đề được mở rộng hơn, mang tầm khái quát cao hơn. Đây là tác phẩm khá quan
trọng của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
Cũng như Nguyễn Xuân Khánh, Nghiêm Ca Linh thành công ở thể loại tiểu
thuyết. Bà có năm tiểu thuyết nổi tiếng, trong đó có hai tiểu thuyết đã được dịch ở Việt
Nam đó là Chuyện của Tuệ Tử và Kim Lăng thập tam thoa. Kim Lăng thập tam thoa là
cuốn tiểu thuyết duy nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nghiêm Ca Linh viết về đề tài
chiến tranh. Tác phẩm đã được chuyển thể sang điện ảnh và rất thành công. Ngay khi
ra đời bộ phim lập tức được đón chào nồng nhiệt tại thị trường Bắc Mĩ. Kim Lăng thập
1
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
tam thoa được độc giả và giới nghiên cứu đánh giá cao ở cả nội dung và nghệ thuật. Chỉ
riêng tác phẩm này cũng làm nên tên tuổi của nhà văn Nghiêm Ca Linh.
1.3. Đề tài người phụ nữ không phải là đề tài mới mẻ. Trong lịch sử văn học, từ
văn học dân gian cho đến văn học hiện đại đề tài người phụ nữ là một trong những đề
tài được quan tâm nhất. Trong các tác phẩm viết về chiến tranh, nhân vật người phụ nữ
luôn là tâm điểm gánh chịu những nỗi đau, mất mát không chỉ về vật chất mà cả tinh
thần. Các nhà văn phản ánh số phận của họ đồng thời cũng nói lên khát vọng về quyền
sống, quyền bình đẳng. Trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh
và tiểu thuyết Kim Lăng thập tam thoa của Nghiêm Ca Linh, cả hai nhà văn đã góp
thêm tiếng nói ấy trong việc thể hiện hình tượng người phụ nữ có thêm nghị lực để đấu
tranh cho “quyền” của mình. Cả hai nhà văn đã kế thừa đề tài người phụ nữ. Trong hai
cuốn tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn và Kim Lăng thập tam thoa, điểm gặp gỡ giữa
Nguyễn Xuân Khánh và Nghiêm Ca Linh đó là cùng quan tâm tới những vấn đề của
người phụ nữ. Nguyễn Xuân Khánh và Nghiêm Ca Linh đều có cái nhìn sắc sảo và tinh
tế về những xung đột tinh thần, những trăn trở, khao khát của người phụ nữ. Tuy nhiên,
có thể từ nền tảng văn hóa, xã hội, cá tính sáng tạo khác nhau nên trong cái nhìn của
họ vẫn có điểm nhìn riêng khác biệt.
1.4. Văn học so sánh là một hệ thống lý thuyết có ý nghĩa quan trọng. Nó cho
phép các nhà nghiên cứu văn học khám phá tìm ra sự ảnh hưởng hoặc tương đồng để tìm
ra giá trị thẩm mĩ của các tác phẩm văn học. Nguyễn Xuân Khánh và Nghiêm Ca Linh
sinh trưởng ở hai quốc gia có nền văn hóa khác nhau, nhưng hai nhà văn lại gặp gỡ ở sự
cảm nhận khi viết về hình tượng nhân vật phụ nữ trong Mẫu thượng ngàn và Kim Lăng
thập tam thoa. So sánh tác phẩm của hai nhà văn sẽ giúp người đọc có thêm một cách đọc
mới trong sự đối sánh.
Tuy tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh và Nghiêm Ca Linh chưa được đưa vào
chương trình dạy học ở Việt Nam nhưng tìm hiểu văn học Việt Nam và văn học Trung
Quốc hiện đại khơng thể khơng tìm hiểu về hai nhà văn này. Lựa chọn nghiên cứu hình
tượng nhân vật phụ nữ trong hai tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh
và Kim Lăng thập tam thoa của Nghiêm Ca Linh, chúng tôi hướng đến khám phá giá
trị thẩm mĩ của hai tác phẩm trên trong sự so sánh.
2. Lịch sử vấn đề
2
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
2.1. Tình hình nghiên cứu hình tượng nhân vật phụ nữ trong tiểu thuyết Mẫu
thượng ngàn
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh xuất hiện trên văn đàn vào khoảng những năm 50
của thế kỉ XX. Đây là chặng đường mới của nền văn học Việt Nam. Kể từ khi tác phẩm
Mẫu thượng ngàn ra đời năm 2005, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về thân thế,
sự nghiệp, tác phẩm của nhà văn. Các cơng trình đó đều khẳng định những đóng góp
của Nguyễn Xn Khánh vào cơng cuộc hiện đại hóa nền văn học. Chúng tơi đã thu
thập được mười hai cơng trình nghiên cứu. Chúng tơi sẽ điểm qua một số cơng trình
nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài.
Trước hết là bài viết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xn Khánh, nhìn từ lí thuyết
đám đơng (2012, Khoa KHXH & NV, Trường Đại học Hùng Vương) của Nguyễn Văn
Ba. Trong bài viết này, tác giả bài viết đã chỉ ra, trong Mẫu thượng ngàn, Nguyễn Xuân
Khánh không xây dựng nhân vật mang tính cách điển hình mà là sự hội tụ để làm nên
một nét khái quát của một nhóm, nhân vật đám đơng. Về cơ bản Nguyễn Văn Ba đề cập đến
vấn đề phụ nữ, Nguyễn Văn Ba có một số phân tích đánh giá về người phụ nữ. Theo Nguyễn
Văn Ba dù các nhân vật có tính cách riêng nhưng đều được đặt trong khơng khí chung của
cộng đồng. Tất cả nhân vật nam ở làng Kẻ Đình đều có sự phụ thuộc ngẫu nhiên, thậm chí
như một sự lệ thuộc vào hệ thống nhân vật nữ - những con người đã hình tượng hóa trở
thành biểu tượng Mẫu. Hay nói cách khác nhân vật nữ trở thành trung tâm của làng Cổ Đình.
Ngày 10 tháng 8 năm 2006, trên trang VTCnews, Nguyễn Lan Anh có cuộc phỏng
vấn nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Tiêu đề cuộc phỏng vấn: Nguyễn Xuân Khánh gác
bút sau Mẫu thượng ngàn. Cuộc phỏng vấn đó có nhiều câu hỏi xoay quanh quá trình
ra đời của tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn. Trong các câu trả lời của Nguyễn Xuân Khánh
ông đã giải thích rõ về q trình ra đời của tác phẩm. Ông cho biết ban đầu tiểu thuyết
có tên Làng nghèo được ông viết năm 1958 nhưng chưa được xuất bản. Về sau cái tên
Làng nghèo khơng cịn hợp thời nên ông đã sửa lại, đẩy không gian thời gian trong tác
phẩm khác đi từ cuốn tiểu thuyết viết về kháng chiến thành cuốn tiểu thuyết về văn hóa
Việt Nam, với tên Mẫu thượng ngàn. Căn cứ vào những thông tin trong cuộc phỏng
vấn, chúng tôi thấy rằng nhà văn cũng đã đề cập đến nhân vật người phụ nữ. Trong đó,
những nhân vật phụ nữ được xây dựng trên nguyên mẫu những người có thật. Và hình
3
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
tượng nhân vật phụ nữ ở Mẫu thượng ngàn chính là hiện thân của những con người có
thực bắt nguồn từ những người đàn bà ở làng ông thuở xưa - làng Kẻ Noi, Cổ Nhuế.
Ngày 18 tháng 3 năm 2007, trên Báo Tiền Phong có đăng nội dung cuộc phỏng
vấn của nhà văn Văn Chinh với nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Cuộc phỏng vấn có tựa
đề: Nơi bắt đầu Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. Nội dung cuộc phỏng vấn
này khá giống với cuộc phỏng vấn của Nguyễn Lan Anh đã đưa ra trên kia. Trong cuộc
phỏng vấn này, Nguyễn Xuân Khánh cũng giải thích nguồn gốc và sự ra đời tác phẩm.
Tuy nhiên cuộc phỏng vấn đi sâu khai thác những vấn đề cảm hứng sáng tác, sự đánh
giá của chính Nguyễn Xuân Khánh về tác phẩm của mình. Nhà văn Nguyễn Xuân
Khánh đã lý giải chất hiện thực trong tác phẩm, đó chính là một phần cuộc sống lam lũ
của chính ơng được ơng đưa vào trong tác phẩm. Khi nhà văn Văn Chinh hỏi về những
cái được và chưa được của Mẫu thượng ngàn, Nguyễn Xuân Khánh trả lời: Cái được
của Mẫu thượng ngàn là dù trải qua bao gian nan thì vẫn được tái sinh trên nền của bản
thảo cũ - Làng nghèo. Qua cuộc phỏng vấn này chúng tôi thấy, nhà văn đã hé mở về
bút pháp của mình. Trong Mẫu thượng ngàn, ông đã viết bằng thi pháp hiện đại. Vì
vậy qua tác phẩm, độc giả thấy được cái hồn Việt được đựng trong các mơ tip dân gian.
Nhà văn cũng nói về điều mà ơng chưa thật sự hài lịng. Ơng cho rằng tác phẩm Mẫu
thượng ngàn của ơng cịn nhiều chỗ dài dòng đến quê mùa.
Ngày 18 tháng 12 năm 2012, trên trang Viện Văn học đăng tải bài viết: Những
miền mơ tưởng mẫu tính và nữ tính vĩnh hằng trong Mẫu thượng ngàn của Nguyễn
Xuân Khánh (một tiếp cận từ lí thuyết cổ Mẫu) do Nguyễn Quang Huy viết. Trong bài
viết này, Nguyễn Quang Huy đã tập trung nghiên cứu viết về những biểu tượng của
Mẫu. Nguyễn Quang Huy đã khái quát về biểu tượng Mẫu theo hướng tiếp cận lí thuyết
cổ Mẫu. Theo Nguyễn Quang Huy trong tác phẩm này Mẫu hóa thân vào trăng, hang
đá, nước, rừng; Mẫu mang những phẩm tính huyền diệu của người mẹ; trong Mẫu
thượng ngàn, các nhân vật trải qua những trải nghiệm tất cả đều quy hướng về phía
Mẫu...
Năm 2013, xuất hiện luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thu Hương (Trường Đại học
KHXH & NV - Đại học Quốc gia Hà Nội) đã nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong tiểu
thuyết Mẫu thượng ngàn và tiểu thuyết Đội gạo lên chùa. Luận văn có tên: Nghệ thuật
tự sự trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh.
4
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Tác giả luận văn đã tập trung nghiên cứu về các phương diện nghệ thuật tự sự trong hai
tác phẩm: nhân vật, kết cấu, điểm nhìn, ngơn ngữ, giọng điệu. Từ đó khẳng định thành
cơng của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Theo Nguyễn Thu Hương, nghệ
thuật xây dựng nhân vật trong hai tiểu thuyết được ông xây dựng với nhiều thủ pháp
mới mẻ, nhưng nhìn chung vẫn là theo lối truyền thống. Theo tác giả luận văn, cái mới
quan trọng nhất của Nguyễn Xuân Khánh là mới về tư tưởng, phần tư tưởng phóng
khống và có ý nghĩa thời cuộc. Qua luận văn của Nguyễn Thu Hương giúp ta có cái
nhìn tồn diện hơn về nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh, đồng thời cũng thấy được
những nét văn hóa Việt đang được lưu giữ và phát huy.
Năm 2013, khóa luận tốt nghiệp đại học của Nguyễn Thị Phương Lan (Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2) đã nghiên cứu về nhân vật nữ trong Mẫu thượng ngàn.
Khóa luận có tên: Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân
Khánh. Tác giả khóa luận đã tập trung nghiên cứu về nhân vật nữ trong tác phẩm Mẫu
thượng ngàn. Từ đó tác giả chỉ ra đặc điểm của nhân vật nữ trong tác phẩm. Theo Nguyễn
Thị Phương Lan, nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn là những nhân vật xinh
đẹp, mang sức sống, sự tái sinh. Dù họ có số phận bất hạnh nhưng ln có tâm hồn thánh
thiện, tình u thương. Theo tác giả luận văn, các nhân vật nữ giống như một biểu
tượng để nhân vật thể hiện thái độ trân trọng đối với văn hóa dân tộc. Tác giả khóa luận
đã đánh giá cao Nguyễn Xuân Khánh bởi nhà văn đã góp phần hồn thiện thêm về bức
tranh người phụ nữ trong văn học Việt Nam.
Năm 2016, khóa luận tốt nghiệp đại học của Vũ Thị Thảo (Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2) đã nghiên cứu về thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn.
Khóa luận có tên: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn
Xuân Khánh. Tác giả khóa luận đã tập trung nghiên cứu về nhân vật và nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong tiểu thuyết. Theo tác giả luận văn, các kiểu nhân vật trong Mẫu
thượng ngàn gồm: nhân vật nữ, nhân vật xâm lược và nhân vật tâm linh. Các kiểu nhân
vật đó được nhà văn Nguyễn Xuân Khánh tập trung xây dựng qua miêu tả ngoại hình,
biểu hiện tâm lí và tâm linh. Qua đó, tác giả luận văn khẳng định tài năng của Nguyễn
Xuân Khánh trong nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Mẫu thượng ngàn.
5
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
2.2. Tình hình nghiên cứu về hình tượng nhân vật phụ nữ trong tiểu thuyết Kim
Lăng thập tam thoa
Đánh từ khóa Nghiêm Ca Linh trên google, trong ba giây xuất hiện 24.900 kết
quả liên quan đến Nghiêm Ca Linh. Điều đó chứng tỏ Nghiêm Ca Linh và tác phẩm
của bà được bạn đọc, giới nghiên cứu quan tâm. Nhưng vì trình độ ngoại ngữ có hạn,
chúng tơi chưa thể bao quát được toàn bộ các tài liệu. Tại Việt Nam, Nghiêm Ca Linh
là nhà văn còn khá xa lạ với độc giả. Năm 2012, qua bản dịch của Lê Thanh Dũng
người đọc mới có cơ hội tiếp cận với tác phẩm Kim Lăng thập tam thoa. Từ đó đến
nay, mới chỉ có một số ít bài viết mang tính giới thiệu về tác giả Nghiêm Ca Linh và
tác phẩm của bà. Chúng tôi xin điểm qua những tài liệu mà chúng tôi thu thập được.
Ngày 1 tháng 3 năm 2012, trên tạp chí điện tử VnExpress có đăng tải bài viết của
Thành Lê với tiêu đề: Xuất bản Kim Lăng thập tam thoa tại Việt Nam. Trong bài viết
này Thành Lê giới thiệu khái quát nội dung cuốn tiểu thuyết Kim Lăng thập tam thoa
và tác giả Nghiêm Ca Linh. Theo đánh giá của Thành Lê, tiểu thuyết Kim Lăng thập
tam thoa là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Nghiêm Ca Linh viết về chiến tranh. Mặc dù
viết về chiến tranh, nhưng bà không đi khoét sâu nỗi đau lịch sử mà tập trung thể hiện
sự chiến thắng cái thiện với cái ác bên trong của người phụ nữ. Các cô gái điếm họ bị
coi là cặn bã của xã hội nhưng họ đã tự vượt qua ranh giới đàn bà thường ích kỉ nhỏ
nhen, họ biết trả nhưng gì khơng thuộc về mình: nơi ở, lương thực. Hơn hết, họ dám
hy sinh bản thân mình để cứu các em nữ sinh khỏi sự tàn bạo của lính Nhật. Về nhà
văn Nghiêm Ca Linh, bà là nhà văn Trung Quốc, sinh sống tại Mĩ. Bà sáng tác trên
nhiều thể loại: tiểu thuyết, tiểu luận và kịch bản. Cho đến nay bà đã giành được khoảng
ba mươi giải thưởng trên cả lĩnh vực văn học lẫn điện ảnh. Các tác phẩm của bà luôn
thu hút sự quan tâm của độc giả và giới nghiên cứu.
Năm 2018, xuất hiện khóa luận tốt nghiệp đại học chuyên ngành Ngữ văn của
Lục Thị Đoài trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Khóa luận có tên là Quan niệm
nghệ thuật về người phụ nữ trong tiểu thuyết Kim Lăng thập tam thoa của Nghiêm Ca
Linh. Trong khóa luận của mình, Lục Thị Đồi đã tập trung tìm hiểu, phân tích Kim
Lăng thập tam thoa ở một phương diện cơ bản nhất của một tác phẩm văn học, đó là
vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người. Lục Thị Đoài đã chỉ ra đặc điểm người phụ
6
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
nữ để thấy được quan niệm của nhà văn: dù xuất thân ở địa vị sang - hèn, sống trong
xã hội bất công, người phụ nữ luôn bị chà đạp thì người phụ nữ càng khao khát sống
với một sức sống mãnh liệt. Theo Lục Thị Đoài, Nghiêm Ca Linh đã có quan niệm rất
xác đáng về con người: con người bất khả chiến bại.
Nghiên cứu lịch sử vấn đề Hình tượng nhân vật phụ nữ trong hai tiểu thuyết Mẫu
thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh và Kim Lăng thập tam thoa của Nghiêm Ca
Linh, chúng tôi nhận thấy:
1/ Đã xuất hiện một số cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn
của Nguyễn Xuân Khánh trong đó có cơng trình viết về nhân vật người phụ nữ nhưng
chưa đặt nhân vật phụ nữ ở tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn trong sự so sánh với nhân vật
phụ nữ ở tiểu thuyết Kim Lăng thập tam thoa.
2/ Về tiểu thuyết Kim Lăng thập tam thoa của Nghiêm Ca Linh, ở Việt Nam, đã
có cơng trình nghiên cứu về nhân vật phụ nữ, song mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
quan niệm nghệ thuật. Chưa có cơng trình nào nghiên cứu so sánh về hình tượng người
phụ nữ trong hai tác phẩm kể trên.
Dù các tài liệu chúng tôi thu thập được còn khá hạn chế, nhưng kết quả của các
cơng trình đó đều là cơ sở cho chúng tơi định hướng triển khai đề tài. Những phát hiện
khoa học của các nhà nghiên cứu sẽ được chúng tôi kế thừa, đồng thời mở rộng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Với đề tài này, chúng tôi hướng đến:
1/ Khám phá giá trị thẩm mĩ của hai tác phẩm Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân
Khánh) và Kim Lăng thập tam thoa (Nghiêm Ca Linh) từ lý thuyết văn học so sánh.
2/ Từ đó khẳng định thêm những đóng góp của hai nhà văn ở thể loại tiểu thuyết,
khẳng định đóng góp của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:
7
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
1/ Làm rõ những vấn đề lý thuyết về văn học so sánh, hình tượng nhân vật trong
tác phẩm văn học; tìm hiểu về thời đại, cuộc đời, con người, sự nghiệp của nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh và Nghiêm Ca Linh.
2/ Khảo cứu, so sánh hình tượng nhân vật phụ nữ trong tiểu thuyết Mẫu thượng
ngàn của Nguyễn Xuân Khánh và Kim Lăng thập tam thoa của Nghiêm Ca Linh từ
phương diện nội dung.
3/ Khảo cứu, so sánh hình tượng nhân vật phụ nữ trong tiểu thuyết Mẫu thượng
ngàn của Nguyễn Xuân Khánh và Kim Lăng thập tam thoa của Nghiêm Ca Linh từ
phương diện nghệ thuật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Với đề tài Hình tượng nhân vật phụ nữ trong hai tiểu thuyết Mẫu thượng
ngàn của Nguyễn Xuân Khánh và Kim Lăng thập tam thoa của Nghiêm Ca Linh, đối
tượng nghiên cứu của chúng tơi là hình tượng nhân vật phụ nữ trong tiểu thuyết của
Nguyễn Xuân Khánh và Nghiêm Ca Linh trong sự so sánh tương đồng và khác biệt.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Văn học so sánh có hai hướng nghiên cứu là so sánh ảnh hưởng và so sánh tương
đồng. Chúng tôi tập trung theo hướng nghiên cứu so sánh tương đồng; cụ thể là so sánh
chỉ ra sự tương đồng và khác biệt của hình tượng nhân vật phụ nữ trong tiểu thuyết
Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh và Kim Lăng thập tam thoa của Nghiêm
Ca Linh cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
- Phạm vi khảo sát:
Thực hiện đề tài, chúng tôi tập trung khảo cứu trên các văn bản:
+ Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Nxb Phụ nữ, xuất bản năm 2006.
+ Kim Lăng thập tam thoa (Nghiêm Ca Linh), bản dịch của Lê Thanh Dũng, Nxb
Văn học, xuất bản năm 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp:
8
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
- Lý thuyết văn học so sánh: Hệ thống lý thuyết này giúp chúng tôi khám phá giá
trị của tác phẩm trong sự tương đồng.
- Phương pháp xã hội học: để thấy được những ảnh hưởng của xã hội chi phối sự
tương đồng và khác biệt trong cái nhìn về nhân vật phụ nữ của hai nhà văn trong sáng
tác của mình.
- Phương pháp nghiên cứu tiểu sử: giúp chúng tơi tìm hiểu cuộc sống và các mối
quan hệ riêng tư của nhà văn. Dùng yếu tố tiểu sử của nhà văn để lý giải tác phẩm văn
học của nhà văn.
- Phương pháp liên ngành: phương pháp này giúp chúng tơi tìm hiểu giá trị của
các tác phẩm văn học trong mối liên hệ với các ngành khoa học khác văn hóa, lịch sử...
để đánh giá tác phẩm một cách khách quan tồn diện hơn.
Trong đề tài, chúng tơi đồng thời sử dụng các thao tác cơ bản trong nghiên cứu:
thống kê - phân loại, phân tích - tổng hợp, so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
Đây là luận văn đầu tiên ở Việt Nam tiếp cận hình tượng nhân vật phụ nữ trong
tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh và Kim Lăng thập tam thoa của
Nghiêm Ca Linh bằng phương pháp luận văn học so sánh. Luận văn góp thêm tiếng
nói vào việc tìm hiểu vấn đề hình tượng nhân vật phụ nữ qua hai tác phẩm văn học của
Việt Nam và Trung Quốc; đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên đại
học ngành Ngữ văn nói riêng, khoa học xã hội nhân văn nói chung và giáo viên trường
phổ thơng quan tâm đến lĩnh vực văn học so sánh.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tơi ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo, gồm ba chương:
Chương 1: Khái lược về văn học so sánh, hình tượng nhân vật và sự hiện diện của
hai nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và Nghiêm Ca Linh
Chương 2: Hình tượng nhân vật phụ nữ nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật phụ nữ trong Kim Lăng thập tam thoa
và Mẫu thượng ngàn trong sự đối sánh
9
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC SO SÁNH, HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT VĂN
HỌC VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA HAI NHÀ VĂN NGUYỄN XUÂN KHÁNH VÀ
NGHIÊM CA LINH
1.1. Khái niệm văn học so sánh và khái niệm hình tượng nhân vật trong tác phẩm
văn học
1.1.1. Khái niệm văn học so sánh
Trên thế giới hiện nay, văn học so sánh đã trở thành một bộ môn trong các trường
đại học ở hầu hết các nước phương Tây. Đây là bộ môn đã tồn tại hơn một trăm năm.
Năm 1886, nhà nghiên cứu văn học người Anh - Macauly Ponestt đã cho ra mắt cơng
trình tổng hợp đầu tiên về lịch sử văn học thế giới mang tên Văn học so sánh
(Comparative Literature) đánh dấu sự hình thành chính thức của bộ mơn văn học so
sánh với tư cách là một bộ môn độc lập. Sau đó lan rộng và trở nên sơi động hơn ở các
nước: Pháp, Đức, Anh, Mĩ, Thụy Sĩ, Italia.
Cho đến nay, văn học so sánh đã có hàng trăm quan niệm, định nghĩa khác nhau.
Dường như mỗi trường phái, mỗi nhà nghiên cứu liên quan đến ngành khoa học mới
này đều định nghĩa về nó. Bên cạnh những nét tương đồng, những định nghĩa về văn
học so sánh cũng có nét khác biệt khi tìm hiểu cắt nghĩa khái niệm. Định nghĩa đầu
tiên: Văn học so sánh - một cái nhãn hiệu ước lệ và không được minh xác cho lắm thường được hiểu là một xu hướng hay một ngành nhất định nghiên cứu về văn học
bao gồm sự nghiên cứu có hệ thống về những tập hợp (văn học) có tính chất siêu dân
tộc [15, tr. 10]. Định nghĩa ban đầu về văn học so sánh chưa được phổ biến rộng rãi,
mới chỉ là một ngành hay một xu hướng nghiên cứu trong văn học mang tính chất dân
tộc. Khái niệm này đã bó hẹp phạm vi của văn học so sánh.
Tại Việt Nam, văn học so sánh bước đầu đã nhận được sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu nhưng vẫn chưa có chỗ đứng xứng đáng. Ở nước ta, bộ môn văn học so
sánh vẫn chưa được thành lập tại các trường đại học. Cho đến nay, nhiều người vẫn
còn nhầm lẫn chưa phân biệt rõ ràng văn học so sánh với tư cách là một bộ môn khoa
học độc lập với so sánh văn học với tư cách là một phương pháp.
10
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Năm 1974, trường Đại học Sư phạm Vinh đã xuất bản cuốn Thuật ngữ nghiên
cứu văn học, coi văn học so sánh là “một trường phái nghiên cứu văn học theo quan
điểm tư sản chuyên nghiên cứu những mối liên hệ văn học quốc tế, xuất hiện vào nửa
đầu thế kỉ XIX, phát triển vào nửa sau thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX, ngày nay đang
ngày càng đi vào con đường hình thức chủ nghĩa, duy tâm và phản động” [27, tr.
369]. Trong khái niệm trên, văn học so sánh được coi là một trường phái văn học
chuyên nghiên cứu mối liên hệ văn học quốc tế theo quan điểm tư sản. Đây là trường
phái xuất hiện từ nửa đầu thế kỉ XIX nhưng chỉ phát triển trong thời gian ngắn. Đến
nay khái niệm chưa thực sự thuyết phục giới nghiên cứu.
Trong bài báo Văn học dịch và những vấn đề lý luận của văn học so sánh (Tạp
chí văn học, năm 1979) tác giả Trương Đăng Dung đã khẳng định: “Văn học so sánh
là một ngành khoa học của văn học, có nhiệm vụ nghiên cứu những mối quan hệ qua
lại cũng như những điểm tương đồng và khác biệt giữa các nền văn học. Cái đích lớn
nhất của văn học so sánh là tiếp cận tiến trình của văn học thế giới” [28].
Trong cuốn Lý luận văn học so sánh (2011), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
Nguyễn Văn Dân căn cứ vào quá trình thực tiễn hình thành đối tượng của văn học so
sánh đã đưa ra định nghĩa như sau: “Văn học so sánh là một bộ môn văn học sử
nghiên cứu các mối quan hệ giữa các nền văn học dân tộc [hay các nền văn học quốc
gia]” [6, tr. 21]. Mối quan hệ đó khơng chỉ là mối quan hệ tiếp xúc trực tiếp, mà còn
để chỉ các mối quan hệ đồng đẳng giữa các hiện tượng tương đồng, còn để chỉ cả những
mối tương quan độc lập giữa các hiện tượng khác biệt đặc thù của các nền văn học dân
tộc khi chúng được đem ra so sánh để giải quyết một vấn đề của văn học hay của lịch
sử - xã hội. Văn học so sánh được hiểu với tư cách là một bộ môn khoa học độc lập
chứ không phải là một phương pháp so sánh văn học. Văn học so sánh không chỉ là các
mối quan hệ trực tiếp, các điểm tương đồng ngoài quan hệ trực tiếp mà nó cịn chỉ ra
các điểm khác biệt độc lập để tìm ra giá trị thẩm mĩ.
Như vậy, định nghĩa về văn học so sánh của các nhà lí luận có những chỗ khơng
hồn tồn giống nhau. Tuy nhiên, các nhà lí luận đều chỉ ra văn học so sánh là bộ môn
nghiên cứu văn học, một ngành khoa học độc lập, có đối tượng, mục đích, phương pháp
luận riêng. Từ những định nghĩa văn học so sánh trên, chúng tôi lựa chọn quan điểm
của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân: Văn học so sánh là tên gọi của một hệ phương
11
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
pháp luận, không chỉ cho phép người nghiên cứu so sánh các hiện tượng văn học ở các
quốc gia khác nhau theo quan hệ giao lưu ảnh hưởng hay so sánh văn học theo quan hệ
tương đồng, mà còn cho phép người nghiên cứu so sánh giữa các điểm khác biệt để
giải quyết một vấn đề chung của văn học hay lịch sử - xã hội.
Như vậy hướng nghiên cứu của chúng tôi không phải là so sánh ảnh hưởng mà là
so sánh tương đồng. Những căn cứ trên là cơ sở lý thuyết để chúng tôi nghiên cứu, so
sánh tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh và Nghiêm Ca Linh ở phương diện hình
tượng nhân vật phụ nữ. Trên thực tế, có thể có nhiều cơng trình nghiên cứu độc lập về
hai tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh và Kim Lăng thập tam thoa
của Nghiêm Ca Linh, nhưng chúng tôi đặt hai nhà văn này trong thế đối sánh để có
thêm cách nhìn nhận mới mẻ hơn.
1.1.2. Khái niệm hình tượng nhân vật
Nhân vật văn học đóng vai trò rất quan trọng trong một tác phẩm văn học. Nhân
vật vừa là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong tác phẩm, vừa thể hiện sự sống
động trong tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Qua đó đánh giá được cá tính sáng tạo của
nhà văn. Nhân vật văn học truyền tải được quan niệm của nhà văn về con người và cuộc
sống, cũng là cái sâu sắc nhất còn đọng lại trong cảm xúc, trong tâm hồn của người đọc.
Nhân vật văn học quyết định sự thành công hay thất bại của tác phẩm văn học.
Trong Thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân viết: “Nhân vật văn học là một thuật
ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại
của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi
cịn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc
điểm giống với con người” [3, tr. 24].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Trần Đình Sử: “Nhân vật văn học là những
con người cụ thể được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó là
những nhân vật có tên như Tấm, Cám, Thúc Sinh, Kim Trọng… đó là những nhân vật
khơng có tên như: thằng bán tơ, một mụ nào ở trong Truyện Kiều… đó là những con vật
trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ,
những con vật mang đặc điểm và tính cách con người” [10, tr. 115].
12
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Các nhà nghiên cứu khi đưa ra định nghĩa về nhân vật văn học đều gặp nhau ở ý
nghĩa nội hàm cơ bản: Đều coi nhân vật văn học là đối tượng văn học lựa chọn để miêu
tả bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học có thể là người, là vật, sự vật, có tên,
khơng có tên… mang đặc điểm, tính cách giống con người. Là những đối tượng ở hiện
thực, nhưng được nhìn qua lăng kính của tác giả.
Trong nghiên cứu văn học, nhân vật được xem là phương tiện cơ bản để nhà văn
khái quát hiện thực một cách hình tượng và qua nhân vật tác giả thể hiện quan niệm
nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ của mình về con người. Thơng qua thế giới nhân vật,
nhà văn bộc lộ những quan niệm của mình về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà
văn có mục đích gắn nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập trong tác phẩm.
Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải là những bản sao có sẵn mà nó ln
được khắc họa, xây dựng phù hợp với ý đồ tư tưởng của nhà văn.
Trong tác phẩm văn học, nhân vật văn học giữ vai trò vơ cùng quan trọng. Qua
cái nhìn của nhà văn, tính cách của nhân vật được nhào nặn theo mức độ nào đó, nhân
vật sẽ trở thành hình tượng. Hình tượng được hiểu là sản phẩm của phương thức chiếm
lĩnh, thể hiện và tái tạo hiện thực theo quy luật của tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật chính là những vấn đề của đời sống được nhà văn tưởng tượng
sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật của mình. Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống,
nhưng nó khơng phải sao chép y nguyên, hay làm theo bản mẫu nào đó, mà ở đó nhà
văn có sự chọn lọc và sáng tạo mang đậm dấu ấn tư tưởng nhà văn. Nó vừa có giá trị
thể hiện những nét cụ thể, cá biệt khơng lặp lại, lại vừa có khả năng khái quát, làm bộc
lộ được bản chất của một loại người hay một quá trình đời sống theo quan niệm của
nhà văn. Hình tượng nghệ thuật khơng phải phản ánh các khách thể thực tại tự nó, mà
thể hiện toàn bộ quan niệm và cảm thụ sống động của nhà văn với thực tại. Người đọc
khơng chỉ nhìn nhận thực tại qua bề nổi, mà qua hình tượng nghệ thuật hiểu được nội
dung ẩn sau mà tác giả muốn nói đến.
Khơng phải tác phẩm văn học nào cũng có hình tượng văn học, khơng phải nhân
vật nào trong tác phẩm cũng trở thành hình tượng nhân vật văn học. Để trở thành hình
tượng nhân vật thì nhân vật ấy phải có tính cách điển hình trong hồn cảnh điển hình.
Nghĩa là nhân vật ấy phải được sự tập trung, khái quát cao, phải mang đậm nét khái
quát của một tầng lớp, giai cấp nào đó… mà nhân vật ấy là người đại diện. Và bối cảnh
13
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
xã hội của nhân vật ấy xuất hiện phải là bối cảnh điển hình của một vùng, một nơi nào
đó trong thời điểm nhất định.
Trên cơ sở những khái niệm về hình tượng nhân vật nêu trên, chúng tơi tiến hành
so sánh hình tượng nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm Mẫu thượng ngàn (Nguyễn
Xuân Khánh) và Kim Lăng thập tam thoa (Nghiêm Ca Linh).
1.2. Hai nhà văn: Nguyễn Xuân Khánh và Nghiêm Ca Linh
1.2.1. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và tác phẩm Mẫu thượng ngàn
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933. Đây là một giai đoạn xã hội đầy
biến động, lịch sử - xã hội Việt Nam có rất nhiều sự kiện dẫn đến những thay đổi lớn.
Những sự kiện và sự thay đổi đó chắc chắn có tác động và ảnh hưởng đến con người
nói chung và nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nói riêng.
Những năm đầu thế kỉ XX, Việt Nam chịu sự đô hộ của thực dân Pháp. Đó là chế
độ thực dân nửa phong kiến. Chế độ thực dân nửa phong kiến khiến cho đời sống xã
hội của người dân Việt Nam như tăm tối. Tuy nhiên cũng dẫn đến một hệ quả ngoài
mong muốn của thực dân Pháp đó là sự ảnh hưởng giao lưu của văn hóa phương Tây
đến văn hóa Việt Nam. Sự giao lưu ảnh hưởng diễn ra trên mọi mặt của đời sống: tôn
giáo, ngôn ngữ, giáo dục, văn chương... Sinh vào đầu thế kỉ XX, nên nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh cũng như các nhà văn cùng thời chịu ảnh hưởng lớn từ văn học Pháp.
Những sáng tác của ông ít nhiều mang nét hiện đại của phương Tây ở nội dung và nghệ
thuật.
Khi Pháp vào xâm lược nước ta đã khiến cho nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ
hai tròng”, cho đến năm 1945 - Cách mạng tháng Tám thành công - đã mở ra kỷ nguyên
mới cho dân tộc Việt Nam. Từ năm 1946 đến 1954 là giai đoạn toàn quốc kháng chiến
đánh đuổi thực dân Pháp lần hai. Sau chín năm trường kì chống Pháp, miền Bắc đã
giành được độc lập. Ngay khi giành chiến thắng năm 1954, miền Bắc tiến hành công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Văn học có bước chuyển mình để phục vụ hai
nhiệm vụ lớn của dân tộc: xây dựng đất nước và chiến đấu giải phóng miền Nam. Các
văn nghệ sĩ bước vào cuộc chiến mới với rất nhiều đề tài, cảm hứng mới phù hợp thời
đại. Cũng như các văn nghệ sĩ giai đoạn này, Nguyễn Xuân Khánh hồ hởi tham gia viết
văn và làm công tác phục vụ kháng chiến.
14
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Sau ba mươi năm chiến tranh, bên cạnh niềm vui chiến thắng thì chiến tranh đã
để lại hậu quả tổn thất về người và của, khiến kinh tế xã hội trở nên nghèo nàn. Từ sau
năm 1975, cả dân tộc Việt Nam cùng chung tay ra sức giải quyết những vấn đề cấp
thiết đó. Đặc biệt, từ năm 1986, chính sách mở cửa kinh tế đã có những bước ngoặt
đem lại những thay đổi cho kinh tế, xã hội. Công cuộc đổi mới đó cũng đem lại khơng
khí mới cho văn học nghệ thuật nói chung.
Cũng như hầu hết các nhà văn Việt Nam thế kỉ XX, Nguyễn Xuân Khánh là nhà
văn mang trong mình dấu ấn thời đại rất sâu đậm - đó là những sự kiện, những biến
chuyển của xã hội Việt Nam thế kỉ XX. Phần lớn các sáng tác của ông đều phản ánh
những sự kiện của giai đoạn này. Những năm kháng chiến, các sáng tác của Nguyễn Xuân
Khánh tái hiện bối cảnh xã hội, con người Việt Nam với tinh thần đấu tranh bảo vệ dân
tộc, cổ vũ tinh thần chiến đấu. Sau chiến tranh, sáng tác của ông luôn phản ánh những vấn
đề chân thực về những sự kiện, những vấn đề xã hội đang diễn ra. Mỗi áng văn của ông
mang đậm dấu ấn bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam những năm của thế kỉ XX. Nhưng
Nguyễn Xuân Khánh lại có cái tài đặc biệt. Ơng đã thành cơng khi tái hiện những sự kiện
lịch sử đó qua áng văn chương của mình khơng hề khơ khan, trái lại làm nó phong phú
hơn để độc giả tiếp nhận nó một cách nhân văn hơn, hiện đại hơn.
Nhà văn Nguyễn Xn Khánh sinh tại Hà Nội. Ơng có bút danh là Đào Nguyễn.
Là nhà văn có cuộc đời truân chuyên, cơ cực, vất vả. Năm lên sáu lên bảy tuổi, cha ông
chết trong một trận dịch tả. Khi ấy mẹ của ông mới 30 tuổi, thương con nên bà ở vậy
ni con suốt cả đời. Vốn gắn bó sâu nặng với mẹ ngay từ khi cịn nhỏ, tình cảm gắn
bó ăn sâu vào tâm thức của nhà văn. Vì thế trong các sáng tác của ông sau này, ông
luôn viết nhiều về người phụ nữ, về Mẫu, luôn đề cao đạo Mẫu.
Do cha mất sớm, Nguyễn Xuân Khánh theo mẹ về bên ngoại. Quê ngoại ở làng
Thanh Nhàn - nay chính là con phố Trần Khát Chân (Hà Nội) - nơi ơng đang sinh sống
đã có những thay đổi khác xóm nghèo ngày trước. Trong ký ức của ơng, làng quê ngoại
đẹp như một bức tranh yên ả: “Làng Thanh Nhàn ngày xửa, ngày xưa không theo nông
nghiệp truyền thống, làng có ao thả cá, trồng sen, trồng rau muống, trồng ổi… Sự thực
cái làng này là một làng của thành phố, phía bên kia đường đã là phố Lị Đúc, nội thành
Hà Nội. Làng là nơi sinh sống của những thợ tiện, thợ nguội, một số viên chức nghèo,
15
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
mấy ơng tham, ơng phán có những cái nhà vườn ở đây” [7]. Nhà văn được lớn lên trong
một “gia đình viên chức”, nơi mà: “Đàn ơng đi làm thợ ở nhà máy đèn, phụ nữ thì bn
bán ở chợ Hơm. Nhà tơi chun bán măng vì có mối liên hệ giữa gia đình tơi và gia
đình ở Thái Ngun” [7]. Mấy chục năm của cuộc đời ông sống và gắn bó với mảnh
đất này, với những người lao động lầm lũi, những căn nhà lá xập xệ, những khóm tre
tả tơi, bờ ao, bờ chuôm, những cống rãnh nước thải đổ về từ thành phố,… Những kí ức
đó đã trở thành dấu ấn trong những trang viết sau này của nhà văn.
Nguyễn Xuân Khánh có cơ hội tiếp xúc với văn chương từ khi còn rất trẻ. Năm
lên mười tuổi ông đã biết đến và đọc một cách ngấu nghiến tiểu thuyết đầu tiên của
Việt Nam - tiểu thuyết Tố Tâm. Niềm ham mê văn chương, say mê tiểu thuyết đã giúp
ơng có dịp tiếp xúc với văn học Trung Quốc từ khi còn rất sớm, qua các tiểu thuyết:
Đông Chu liệt quốc, Thuyết Đường, Thủy Hử, Tây Du Kí… Tuy nhiên, Nguyễn Xn
Khánh lại khơng theo con đường văn chương từ khi cịn trẻ mà ơng lại chọn con đường
trở thành bác sĩ, trở thành một sinh viên trường Đại học Y. Dù vậy nhưng niềm say mê
văn chương vẫn âm ỉ cháy trong trái tim của nhà văn, khao khát viết, khao khát cống
hiến. Ông đã từng kể lại, hồi ấy đang là sinh viên trường Y được hai năm - một trường
đại học lớn và có tiếng ở Hà Nội, vào năm 1952, ông quyết định từ bỏ để xin đi bộ đội.
Quyết định của ông đã khiến gia đình ngạc nhiên, can ngăn. Dù bị gia đình phản đối,
nhưng với lịng quyết tâm và nhiệt huyết được viết, được công hiến cho văn chương đã
không làm ơng nản chí. Ơng đã xin gia nhập qn ngũ để trở thành người lính cụ Hồ.
Cuộc sống quân đội, những cuộc hành quân gian khó vất vả là động lực khơi gợi lại
trong con người Nguyễn Xuân Khánh niềm đam mê, thơi thúc viết.
Thời cịn trẻ, Nguyễn Xn Khánh viết không nhiều. Cho đến những năm 50 của
thế kỉ XX ơng mới bắt đầu có những sáng tác đầu tay. Khi mới bắt đầu vào nghề ơng
đã có những quan niệm về văn chương của riêng mình, nhưng những phát biểu đó
khơng được phát biểu thành quan niệm chính thức. Nguyễn Xn Khánh ln quan
niệm “nhà văn phải là thư kí trung thành của thời đại”. Vì thế trong các sáng tác của
ông, ông viết chân thực về cuộc sống, xã hội, khơng đánh bóng, khơng tơ hồng. Và ông
cũng luôn quan niệm học ở sách vở là một phần, học ở trường đời mới đem lại thành
công lớn. Quan niệm này đã chi phối suốt quá trình sáng tác của nhà văn. Nhờ ý thức
tự học mà ông đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm và vốn sống cho bản thân, từ đó
16
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
những sáng tác của ơng ln có chiều sâu, mang hơi thở của thời đại và nhân loại. Vì
vậy, ơng được xem là một trong những nhà văn thuộc thế hệ những cây đại thụ của
làng văn học trong ý thức tự học mà thành tài. Những quan niệm này đã chi phối toàn
bộ những sáng tác của nhà văn.
Năm 1958, tiểu thuyết Làng nghèo ra đời, đây là tác phẩm đầu tay của nhà văn.
Tác phẩm được sáng tác khi ông tham dự trại sáng tác của Văn nghệ quân đội ở Thanh
Liệt. Hồi đó, cuốn tiểu thuyết này khơng được phép xuất bản, vì nội dung cuốn tiểu
thuyết viết quá chân thực, có thể “sát đến mặt đất, chạm đến nhiều thứ”, Làng nghèo
chỉ còn được giữ lại qua những bản thảo. Đến đầu năm 1959, khi trong quân ngũ, ông
viết truyện ngắn đầu tay Một đêm gửi về Tạp chí Văn nghệ qn đội, sau đó truyện
ngắn được in, rồi được giải thưởng của tạp chí. Tiếp đó, năm 1962 tập truyện ngắn
Rừng sâu của ơng được Nhà xuất bản Văn học xuất bản. Những thành công ban đầu là
động lực để ông bước vào con đường văn chương đầy cam go và thử thách.
Sau khi xuất ngũ, ơng trở về làm phóng viên, biên tập ở Tạp chí Văn nghệ qn
đội. Văn chương thời ấy khơng phải nghề kiếm tiền đủ sống. Như nhiều viên chức thời
đó, ơng phải bươn chải làm nhiều nghề kiếm sống để ni gia đình. Với ơng, sáng tác
hồi đó như một sự giải thoát, một niềm đam mê lớn lao, như thể trút hết được mọi điều
trong cuộc sống. Sau khi bị dính “tai nạn nghề nghiệp”, ơng xin về nghỉ hưu sớm.
Tưởng chừng nghiệp văn chương sẽ khơng cịn theo ơng nữa, nhưng đây chính là dấu
mốc lớn - đời ông lại bước sang một bước ngoặt mới. Những năm tháng đó, kinh tế
chung của xã hội Việt Nam rất nghèo khó cuộc sống của Nguyễn Xuân Khánh cũng
vậy. Sau khi nghỉ hưu, ông phải tiếp tục bươn chải kiếm sống bằng nhiều nghề: thợ
mộc, thợ bốc vác, thợ cán bột mì, bảo vệ trơng kho lương thực. Có một thời gian dài,
ông đã từng làm nghề thợ may. Ông từng làm Bí thư chi bộ tiểu khu Thanh Nhàn. Dù
cuộc sống có khốn khó, gánh nặng cơm áo gạo tiền đè nặng trên đôi vai, nhưng khát
khao muốn viết và được viết của ông cứ trào dâng, cứ sôi sục mãi. Nhà văn vẫn miệt
mài viết, miệt mài sáng tạo dù thành công vẫn chưa mỉm cười với ông.
Với Nguyễn Xuân Khánh, cuộc đời vốn là những khó khăn, nhưng ở giai đoạn
nào thì ơng cũng có những sáng tác để khẳng định bản lĩnh chính mình: Tác phẩm Một
đêm (1959), Rừng sâu (1962) là những truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Xuân Khánh
khi chập chững bước vào nghề. Những năm khốn khó của cuộc đời, ơng cho ra đời tác
17
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
phẩm Miền hoang tưởng (1990) với bút danh Đào Nguyễn. Đặc biệt, Nguyễn Xuân
Khánh được độc giả biết đến nhiều nhất là qua bộ ba tiểu thuyết: Hồ Quý Ly (2002),
Mẫu thượng ngàn (2006), Đội gạo lên chùa (2011) - chính những tác phẩm này đã đưa
nhà văn lên tầm cao mới, là hiện tượng hiếm có trong văn đàn. Cũng trong thời gian
cho ra đời bộ ba tiểu thuyết, ông cũng sáng tác các tác phẩm: Hai đứa trẻ và con chó
con mèo xóm núi (2002) và Mưa quê (2003).
Có thể nói, trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh bộ ba tiểu thuyết
đem lại thành công cho nhà văn, nhưng Mẫu thượng ngàn được xem là tiểu thuyết đáng
quan tâm hơn cả. Mẫu thượng ngàn là cuốn tiểu thuyết dày hơn 700 trang, được Nguyễn
Xuân Khánh sáng tác trong khoảng thời gian miệt mài liên tục 5 năm (2000 - 2005). Mẫu
thượng ngàn chính là tác phẩm có tên tiền thân là Làng nghèo. Tác phẩm được sáng tác
vào năm 1958, nhưng nó khơng được xuất bản. Vì lý do đặc biệt mà ơng phải gửi tất cả
bản thảo cho bạn bè ông giữ hộ, may mắn cịn một bản ơng Lê Bầu - bạn của nhà văn cịn
giữ được. Sau này, ơng Lê Bầu đã mạnh dạn là người “đỡ đầu” cho cuốn tiểu thuyết này
được xuất bản, để nó được xuất hiện trong làng văn học Việt Nam.
Nhan đề Mẫu thượng ngàn trùng tên của một trong ba vị Mẫu được thờ cúng tại điện
Mẫu, cạnh đình, chùa của người Việt, chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam,
tín ngưỡng gắn liền với núi rừng của người Việt. Việc đặt tên tác phẩm như vậy hẳn có
mục đích của Nguyễn Xn Khánh. Tuy nhiên, trong tác phẩm khơng có nhân vật nào
phản chiếu hình ảnh Mẫu. Tác phẩm Mẫu thượng ngàn kể rất sinh động cuộc sống của
những người dân ở một làng quê vùng bán sơn địa miền Bắc vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX. Lấy bối cảnh thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, đạo Phật bị gạt bỏ, đạo Thiên chúa
giáo lan rộng, những người dân quê trở về với đạo Mẫu - tín ngưỡng ăn sâu bám rễ tâm thức
của họ từ ngàn xưa.
Mẫu thượng ngàn là câu chuyện về tình yêu của những người đàn bà Việt trong
khung cảnh một ngơi làng cổ. Đó là tình yêu vừa mãnh liệt, vừa cay đắng, mang đậm
chất phồn thực, với những mơ ước và sự hi sinh cao thượng. Mẫu thượng ngàn cũng là
cuốn tiểu thuyết tái hiện lịch sử nước ta với sự kiện thực dân Pháp đánh thành Hà Nội
lần thứ hai, cuộc giao chiến giữa quân Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc với người Pháp… Đó là
một cuốn tiểu thuyết về văn hóa, phong tục Việt Nam được thể hiện qua cuộc sống của
18
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
người dân đặc biệt là người phụ nữ ở một vùng quê bán sơn địa miền Bắc Việt Nam.
Với hệ thống nhân vật nữ được xây dựng khá đông đúc, là những nhân vật đẹp nhất,
hay nhất, đậm nhất, mê nhất. Họ hiện lên vừa chân thực, chất phác mang dáng dấp
những người phụ nữ thôn quê. Đồng thời, ở họ cái khát khao “cho và nhận, nhận và
cho” tất cả, tất cả đều “tràn trề sinh lực, đầm đìa phồn thực”. Nói như nhà văn Nguyên
Ngọc đã nhận xét về tác phẩm Mẫu thượng ngàn: “…Không phải ngẫu nhiên mà trong
cuốn tiểu thuyết này đông đúc nhất, và cũng đẹp nhất, hay nhất, đậm nhất, mê nhất là
những nhân vật nữ, có cảm giác như vơ số vậy, từ bà Tổ Cơ bí ẩn, bà ba Váy đa tình...
cho đến cô đồng Mùi, cô mõ Hoa khốn khổ, cô trinh nữ Nhụ tinh khiết. Hàng chục,
hàng chục nhân vật nữ hết sức gần gũi, hiện thực, mơn mởn, sần sùi, dào dạt, trễ tràng,
trữ tình, thừa mứa, khát khao cho và nhận, nhận và cho... và đến cả bà Đà của ông Đùng
huyền thoại nữa..., tất cả tràn trề sinh lực, đầm đìa phồn thực...” [34].
Mẫu thượng ngàn được sáng tác khi Nguyễn Xuân Khánh đã vào độ tuổi “thất
thập cổ lai hi”. Dù vậy, ông đã thể hiện được nội lực văn chương, những tri thức, kiến
thức của mình. Ơng cũng chứng tỏ được sự hiểu biết sâu sắc về một thời lịch sử, một
phần văn hóa của dân tộc. Mẫu thượng ngàn thể hiện cách sống từ nhiều góc độ khác
nhau. Mỗi góc độ là cách nhìn nhận mới mẻ của tác giả. Trong tác phẩm Mẫu thượng
ngàn tác giả tái hiện bối cảnh làng quê Bắc Bộ Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX. Bối cảnh xưa cũ đó được ơng thổi vào một luồng khơng khí mới, đó là một cái
nhìn phóng khống, hiện đại, một cách nhìn mới trên biểu tượng Cổ Mẫu. Từ bối cảnh
lịch sử cụ thể đó, những hình tượng nhân vật phụ nữ không chỉ là nhân vật truyền tải
về vấn đề của một thời đại mà có ý nghĩa nhân loại.
Nhờ ý thức tự học, tự tìm tịi, ơng cịn là dịch giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng:
Những quả vàng của Nathalie Sarraute; Lời nguyền cho kẻ vắng mặt của Taha Ben Jelloun;
Nhận dạng nam của Elizabeth; Người đàn bà trên đảo Saint Dominique của Bona
Dominique; Bảy ngày trên kinh khí cầu của Jelus Verne; Hồng hậu Sicile của Pamela
Schoenewaldt…
Những sáng tác từ sau năm 1986 đến nay của nhà văn đã trở thành sự kiện thu
hút sự quan tâm của độc giả và giới nghiên cứu, giành được nhiều giải thưởng danh
giá. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội (năm 2001 với tiểu
19
LUAN VAN CHAT LUONG download : add