Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn huyện uỷ tương dương lãnh đạo lĩnh vực văn hoá xã hội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 101 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với lãnh đạo hệ thống chính trị và các lĩnh vực trọng yếu như
kinh tế, quốc phòng, an ninh trật tự... sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực
văn hoá - xã hội cũng là vấn đề thường xuyên được đặt ra từ khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Kinh nghiệm cho thấy, cứ mỗi lần đất nước có những bước ngoặt thì sự
lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hoá- xã hội lại được đặt ra một cách cấp
thiết, và dĩ nhiên từ văn hoá- xã hội sẽ đi tới các vấn đề khác của đời sống.
Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hố- xã hội là một
vấn đề có ý nghĩa chính trị to lớn. Đồng thời đó cũng là một yêu cầu khách
quan nhằm định hướng chiến lược thúc dẩy các q trình văn hố, thoả mãn
nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân.
Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã tạo nên diện
mạo mới cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã
hội. Trong đó, Nghệ An - vùng đất địa linh nhân kiệt cũng có những bước
phát triển nhanh chóng, các huyện miền núi cao của tỉnh cũng có những
chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đời
sống văn hoá, xã hội của đồng bào các huyện miền núi cao của tỉnh Nghệ An
vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc, có tính thời sự rất nóng hổi. Giải quyết những
vấn đề đó là cả một q trình lâu dài, khó khăn, đòi hỏi sự quan tâm sâu sắc
của các cấp lãnh đạo, các nhà khoa học bằng việc nghiên cứu nghiêm túc, chu
đáo chứ không thể giải quyết vấn đề một cách giản đơn hay áp đặt.
Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế, khoa học kỹ thuật hiện đại tác
động mạnh mẽ vào lĩnh vực văn hoá - xã hội nói chung. Thực trạng đời sống
văn hố, xã hội của nhân dân các huyện miền núi cao tỉnh Nghệ An những
năm qua diễn ra trong cơ chế thị trường với những tác động tích cực và tiêu
cực đan xen nhau. Hơn nữa, các huyện miền núi cao của tỉnh Nghệ An mà



2
trong đó Tương Dương là một huyện lớn, hầu hết là huyện biên giới (trừ
huyện Quỳ Châu), các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng các yếu tố văn
hoá, xã hội trong đời sống của đồng bào miền núi để thực hiện âm mưu “diễn
biến hồ bình”.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là bước
vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, hoạt động lãnh
đạo văn hoá -xã hội của cấp uỷ các huyện miền núi cao của tỉnh Nghệ An nói
chung và Huyện uỷ Tương Dương nói riêng, bên cạnh những kết quả đạt
được vẫn cịn nhiều mặt yếu kém, khuyết điểm đang đặt ra vấn đề cần phải
tiếp tục nghiên cứu bổ sung. Sự lãnh đạo của Huyện ủy đối với lĩnh vực văn
hoá- xã hội vẫn cịn khơng ít lúng túng trong nội dung và phương thức lãnh
đạo, cịn biểu hiện bng lỏng sự lãnh đạo, khoán trắng một số nội dung quan
trọng, chưa thường xuyên coi trọng công việc sơ kết, tổng kết, rút kinh
nghiệm... Những yếu kém đó đã hạn chế khơng nhỏ không chỉ đối với việc
nâng cao năng lực lãnh đạo của Huyện uỷ mà còn làm chậm việc thực hiện có
kết quả các mục tiêu đề ra của lĩnh vực văn hoá- xã hội của huyện nhà.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở khu vực miền núi của tỉnh Nghệ An và trước thực trạng lãnh đạo đó
của Huyện uỷ Tương Dương, địi hỏi phải nghiên cứu, tìm giải pháp tăng
cường sự lãnh đạo của Huyện ủy đối với lĩnh vực văn hoá- xã hội. Đây là vấn
đề thực sự cần thiết và cấp bách.
Là một cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Huyện uỷ Tương Dương lại có vinh
dự và điều kiện được học tập cơ bản, hệ thống lý luận về xây dựng Đảng, tơi
nhận thấy trách nhiệm của mình trong thực hiện nhiệm vụ cấp bách nói trên. Vì
thế, mặc dù cịn nhiều khó khăn thách thức cả khách quan và chủ quan, nhưng
tôi đã chủ động chọn và thực hiện đề tài “Huyện uỷ Tương Dương lãnh đạo
lĩnh vực văn hoá- xã hội trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sỹ
Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.



3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề
Đảng lãnh đạo các lĩnh vực trọng yếu đã được đặt ra từ khi Đảng ta ra đời. Đó
là quy luật tất yếu của một Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, cho đến nay các cơng
trình khoa học chủ yếu chỉ tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với
một số lĩnh vực trọng yếu như:
- Đảng lãnh đạo xây dựng kinh tế trong giai đoạn cơng nghiệp hố
hiện đại hố đất nước.
- Đảng lãnh đạo nền quốc phịng toàn dân.
- Đảng lãnh đạo lĩnh vực an ninh, trật tự…
Về lĩnh vực văn hố- xã hội cũng đã có một số bài viết, cơng trình
nghiên cứu từ những góc độ khác nhau nhằm từng bước giải quyết về nhận
thức hoặc đi sâu vào từng nội dung cụ thể của lĩnh vực văn hố - xã hội nói
chung, như: Đảng lãnh đạo văn hoá, văn nghệ (xem Lê Văn Lý- chủ biên,
Đảng lãnh đạo một sô lĩnh vực trọng yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
1999; Nguyễn Duy Bắc- Tuyển chọn, Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ
thuật trong cơng cuộc đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2001;….),
Đảng lãnh đạo báo chí (xem Nguyễn Vũ Tiến, Vai trị lãnh đạo của Đảng đối
với báo chí trong thời ký đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2005….)
hoặc Đảng lãnh đạo Giáo dục- Đào tạo (xem Nguyễn Đức Nhuận, Tỉnh uỷ
Thái Bình lãnh đạo cơng tác giáo dục phổ thơng, Luận văn thạc sỹ Khoa học
chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng 2007;…);... Còn Huyện uỷ lãnh đạo
lĩnh vực văn hoá- xã hội đối với cấp huyện ở bình diện cả nước nói chung và
các huyện miền núi cao của tỉnh Nghệ An nói riêng, có thể nói chưa có cơng
trình nghiên cứu nào đề cập một cách hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đánh giá thực trạng

về tình hình lãnh đạo của Huyện uỷ nhằm xác lập các cơ sở khoa học cho việc


4
xây dựng và hồn thiện chương trình, nội dung, phương thức lãnh đạo của
Huyện uỷ đối với lĩnh vực văn hoá- xã hội trong thời gian tới nhằm đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về lãnh đạo lĩnh vực văn hoá- xã hội
trong giai đoạn hiện nay.
- Làm rõ về phương diện lý luận các khía cạnh: nội dung, phương thức,
quy trình lãnh đạo của Huyện uỷ đối với lĩnh vực văn hoá - xã hội.
- Nghiên cứu, khảo sát, phân tiách thực trạng một số mặt đời sống thuộc
lĩnh vực văn hoá - xã hội và sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với lĩnh vực văn hố xã hội qua đó tổng kết, rút ra nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm
- Trình bày các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thiết thực, khả thi
nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với lĩnh vực văn hoá - xã hội
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với lĩnh vực văn hoá - xã hội là hoạt
động lãnh đạo trên một lĩnh vực rất rộng lớn, nhiều vấn đề: văn hố-tư tưởng,
thơng tin, thể thao, y tế, giáo dục- đào tạo, dân số- việc làm và xố đói giảm
nghèo, bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em, thực hiện chính sách người có
cơng, đấu tranh phịng, chống tệ nạn xã hội,…và được thực hiện trong một
quá trình lâu dài.
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đề tài này chỉ tập trung
nghiên cứu sự lãnh đạo của Huyện uỷ Tương Dương đối với một số công
tác trọng yếu, cấp bách nhất ở địa phương, như: Văn hoá thơng tin, thể
thao; Y tế- chăm sóc sức khoẻ cộng đồng; Giáo dục - Đào tạo và dạy nghề;
Lao động, việc làm và xố đói giảm nghèo trên địa bàn huyện trong giai

đoạn hiện nay.


5
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn
- Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng ta về lĩnh vực văn hoáxã hội.
- Cơ sở thực tiễn của đề tài là thực trạng đời sống văn hoá - xã hội và
sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với lĩnh vực văn hoá - xã hội ở huyện Tương
Dương của tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng mácxít,
phương pháp nghiên cứu lơgic và lịch sử, thống kê, phân tích, tổng hợp, điều
tra, khảo sát và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, làm phong phú
thêm kinh nghiệm và lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực
trọng yếu, nhất là sự lãnh đạo của Huyện uỷ đối với lĩnh vực văn - hoá xã hội
ở các huyện miền núi trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác lãnh
đạo thực tiễn của cấp uỷ huyện và cấp uỷ cơ sở đối với lĩnh vực văn hố xã
hội; đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy trong các
trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HUYỆN ỦY TƯƠNG DƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
ĐỐI VỚI LĨNH VỰC VĂN HÓA- XÃ HỘI
1.1. HUYỆN ỦY VÀ LĨNH VỰC VĂN HÓA - XÃ HỘI CỦA HUYỆN
TƯƠNG DƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

1.1.1. Huyện uỷ huyện Tương Dương
1.1.1.1. Khái quát về huyện Tương Dương và Đảng bộ huyện Tương Dương
* Về huyện Tương Dương
Tương Dương là huyện vùng cao, biên giới, nằm ở phía Tây Nam tỉnh
Nghệ An, cách thành phố Vinh 190 km, cách cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn 90
km, cách cửa khẩu Tam Hợp 70 km. Huyện Tương Dương nằm ở toạ độ từ
18058’ đến 19039’ vĩ độ Bắc và 104003’ đến 104055’ kinh độ Đơng.
+ Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hồ Dân chủ
Nhân dân Lào) và huyện Quế Phong.
+ Phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Bulikhămxay
(nước Cộng hồ dân chủ nhân dân Lào).
+ Phía Đơng và Đơng Nam giáp huyện Con Cng.
+ Phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Kỳ Sơn.
Diện tích tự nhiên của huyện là 2.806,36 km2, chiếm 17% diện tích tự
nhiên của tỉnh Nghệ An. Tính đến tháng 12/2007 huyện Tương Dương có 21
xã, thị trấn với 167 thơn, bản, khối xóm. Thị trấn Hồ Bình là trung tâm chính
trị, kinh tế, xã hội của huyện. Huyện Tương Dương có 4 xã biên giới và 01
cửa khẩu quốc tế tại xã Tam Hợp.Tổng chiều dài đường biên giới với nước
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là 58 km. Dân số tính đến 12/2007 là 74148
người, trong đó các dân tộc thiểu số chiếm 88.7%. Mật độ dân số 26.5
người/km2.



7
Tương Dương có hệ thống giao thơng khá thuận lợi: Đường bộ với các
tuyến Quốc lộ 7 (đoạn đi qua Tương Dương dài 54 km), đường 7-48 và các
tuyến đường biên giới Bãi Xa- Tùng Hương,Tam Hợp- Bulikhămxay (Lào).
So với các huyện miền núi khác, huyện Tương Dương có lợi thế về đường
thuỷ. Tồn huyện có 4 tuyến sơng chính: Nậm Mộ, Nậm Nơn, Sông Lam, Hội
Nguyên với tổng chiều dài 188 Km, tạo diều kiện cho việc phát triển kinh tế
và giao lưu văn hoá giữa các vùng trong huyện.
Hệ thống sơng, suối của huyện Tương Dương cịn là tiềm năng thuỷ
điện rất lớn. Ngồi 2 cơng trình thuỷ điện lớn nhất khu vực Bắc Trung bộ như
thuỷ điện Bản Vẽ (2004) có cơng suất 320MW, thuỷ điện Khe Bố (2007), có
cơng suất 100MW đang thi cơng xây dựng, cịn có các cơng trình thủy điện
gắn với thuỷ lợi (công suất từ 08-50MW) đã được quy hoạch và đang xúc tiến
đầu tư xây dựng.
Tương Dương nằm trong hệ uốn nếp Trường Sơn (Pù Xai Lai Leng), có
nhiều dạng địa hình khác nhau, phần lớn là đất núi đồi. Tương Dương có địa
hình hiểm trở, nhiều núi cao. Đồi, núi bị chia cắt bởi nhiều con suối lớn, nhỏ, tạo
nên những nếp nhăn, lượn sóng, cao dần về phía Tây và Tây Bắc, thấp dần về
phía Nam và Đơng Nam. Núi cao, độ dốc lớn (độ dốc trung bình 300) tạo nên địa
hình đa dạng và phức tạp. Theo tài liệu điều tra thổ nhưỡng Nghệ An, huyện
Tương Dương có 14 loại đất trên tổng số 32 loại đất toàn tỉnh (chiếm 43.75%).
Trong nhiều năm qua, nhân dân các dân tộc huyện Tương Dương đã
từng bước phát huy hiệu quả nguồn tài ngun thiên nhiên để xố đói giảm
nghèo và phát triển văn hố-xã hội, khơng ngừng nâng cao đời sống mọi mặt.
Tổ chức UNESCO đã công bố, các huyện phía Tây Nghệ An là khu dự
trữ sinh quyển lớn nhất cả nước, trong đó các huyện Tương Dương, Con
Cng, Quì Hợp nằm ở vùng lõi của khu dự trữ sinh quyển đó. Rừng Tương
Dương phong phú về chủng loại, hàng trăm lồi cây, trong đó 42 lồi đã được
ghi vào sách đỏ Việt Nam, có nhiều loại động vật q hiếm hổ, gấu, bị tót,
voi, sóc bay, voọc xám (đã được ghi vào Sách đỏ Việt Nam).



8
Trong lịng đất Tương Dương cịn chứa đựng những khống sản quý
như mỏ vàng Hội Nguyên, mỏ than đá Khe Bố (với loại than nâu, lửa dai).
Nguồn đá các loại rất dồi dào, đặc biệt là đá vơi có trữ lượng lớn phân bố
khắp nơi, đá Granit ở Lưu Kiền với trữ lưọng lớn.
Tương Dương chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa; gió Đơng Bắc (thổi
từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau), làm cho khí hậu khơ hanh, rét;
gió Lào(thổi từ tháng 5 đến tháng 9) làm cho nhiệt độ lên cao, độ ẩm thấp, khí
hậu khơ hanh và nóng. Nhiệt độ trung bình 23.40C, cao nhất là 470C, thấp
nhất là 1.70C. Lượng mưa trung bình hàng năm 1351mm, lớn nhất 1637mm,
nhỏ nhất 882mm; ngày mưa trung bình trong năm là 130 ngày, độ ẩm trung
bình 83%.
Trong tương lai, khi loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hoá đang
ngày càng trở nên hấp dẫn, Tương Dương sẽ là điểm đến lý tưởng cho du
khách trong và ngoài nước với các địa danh như: Vườn quốc gia Pù Mát, khu
bảo tồn thiên nhiên Pù Huống (với rừng Cây Lùn), rừng xăng lẻ Tam Đình,
rừng lạnh nguyên sinh ở Tam Hợp, cùng với hệ thống hang động thiên nhiên
như Thằm Nặm, Thằm Kèo ở xã Hữu Khng, Thằm Cùng ở Tam Đình,…Hồ
thuỷ điện Bản Vẽ, Khe Bố và những bản làng người Thái, Mông, Khơmú, Ơđu,
Poọng tạo lợi thế cho ngành du lịch của Tương Dương phát triển mạnh mẽ.
Tương Dương là nơi tụ cư của 6 dân tộc: Kinh, Thái, Mông, Khơmú,
Ơđu, Poọng (thuộc Thổ). Nhân dân các dân tộc Tương Dương có bề dày
truyền thống văn hoá và truyền thống cách mạng rất đáng tự hào. Vượt lên
những khắc nghiệt của thiên nhiên, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhân dân các
dân tộc ở đây ln đồn kết một lịng, chiến đấu dũng cảm, lao động cần cù
xây dựng cuộc sống no ấm và bảo vệ vững chắc vùng biên giới của Tổ quốc.
Theo Giáo sư Ninh Viết Giao trong cuốn Địa chí huyện Tương Dương
thì đất Tương Dương xưa gọi là Kiềm Châu, đời Trần gọi là Mật Châu, đến

thời thuộc Minh gọi là châu Trà Long (có sách viết là Trà Lung) sau đổi thành


9
châu Trà Thanh, nhà Lê gọi là phủ Trà Lân, có 4 huyện (thường gọi là Tứ
Lân). Điều này được ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư: Quang Thuận năm thứ
10 (1469), Lê Thánh Tông. “Định bản đồ các phủ, châu, huyện, trang, sách
thuộc 12 thừa tuyên trong nước: Nghệ An 9 phủ 27 huyện 2 châu”. Tác giả
Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời chép rõ hơn: Phủ Trà lân
có 4 huyện là Kỳ Sơn có 9 động, Tương Dương có 7 động, Hội Ninh (sau đổi
là Hội Nguyên) có 5 động, Vĩnh Khang (sau đổi thành Vĩnh Hồ) có 8 động.
Đến triều Nguyễn, đầu đời Gia Long, đặt chức quản phủ và tri phủ.
Vào thời kỳ cuối đời Lê, đầu đời Nguyễn có cấp tổng, và Phủ Trà lân
có 4 huyện: Tương Dương, Vĩnh Hồ, Hội Ngun và Kỳ Sơn. Trong đó,
huyện Tương Dương có 3 tổng: Cẩm Dã, n Lịng Bán, Tứ Dương.
Minh Mạng năm thứ 2 (1821), triều đình nhà Nguyễn đổi phủ Trà Lân
thành phủ Tương Dương. Phủ kiêm lý 4 huyện Kỳ Sơn, Hội Nguyên, Vĩnh
Hoà, Tương Dương phủ có 13 tổng, 24 xã. Phủ lỵ đặt ở địa phận xã Chính
n, tổng n Duyệt. Thời thuộc Pháp thì chuyển lên Cửa Rào. Tại Cửa Rào,
ngoài một số dịnh thự cơng sở của Tri phủ và thuộc viên cịn có tồ Đại Lý, đứng
đầu là quan người Pháp, nắm tồn bộ quyền điều hành các cơng việc về binh sự,
dân sự ở Phủ Tương Dương. Sau năm 1945, tất cả các phủ đều gọi là huyện.
Ngày 17-5-1961, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 65/QĐ-CP chia
huyện Tương Dương thành 2 huyện là: Tương Dương (gồm 9 xã) và huyện
Kỳ Sơn (gồm 8 xã). Sau nhiều lần sáp nhập và chia tách, hiện nay, huyện
Tương Dương có 22 xã, 1 thị trấn (Tam Quang, Tam Đình, Tam Thái, Tam
Hợp, Thạch Giám, thị trấn Hồ Bình, Xá Lượng, Lưu Kiền, Lượng Minh,
Yên Na, Yên Hoà, Yên Tĩnh, Yên Thắng, Nga My, Xiêng My, Kim Đa, Kim
Tiến, Hữu Khuông, Hữu Dương, Luân Mai, Nhôn Mai, Mai Sơn) với 167
thôn bản, khối xóm [12, tr.15, 28].

Các nhà sử học đã tìm thấy tại bản Xiềng Lằm (thuộc xã Hữu Khuông)
6 hang động có di chỉ văn hố Hồ Bình. Điều đó chứng tỏ, cách đây khoảng


10
11 nghìn năm, ở Tương Dương đã có con người cư trú. Đồng bào dân tộc
thiểu số ở các bản Văng Mơn, Xiềng Líp, Xốp Kha ở xã n Hồ, Xiềng
Nứa, Na Khốm, xã Yên Na trong quá trình khai thác vàng sa khoáng hoặc chài
lưới trên khe Hội Nguyên đã tìm thấy các lưỡi cuốc, rìu bằng đá được mài rất
đẹp, các nhà khảo cổ học xác minh đây là dụng cụ lao động thuộc thời văn hoá
Bắc Sơn. Tại Cồn Đền, nằm ngay trên ngã ba sông Nậm Nơn và Nậm Mộ (Cửa
Rào, xã Xá Lượng), các nhà khảo cổ đã tìm thấy di chỉ thuộc sơ kỳ thời đại đồ
đồng với các hiện vật như: lưỡi rìu bằng đá, các chì lưới và dọi se chỉ, một số sản
phẩm gốm khá tinh xảo có hình trang trí tương tự đồ gốm văn hoá Phùng
Nguyên ở đồng bằng Bắc Bộ,... Ngày 16-4-1985, tại đồi Đền (Cửa Rào) đã phát
hiện trống đồng thuộc loại 2 theo bảng xếp hạng của Héger [12, tr.65,80].
Đời nhà Hán, Tương Dương nằm trong huyện Hàm Hoan, huyện lớn
nhất của quận Cửu Chân, tức cả Nghệ-Tĩnh bây giờ. Đời Nam Bắc Triều,
Tương Dương nằm trong huyện Tây An. Đời nhà Tuỳ, Tương Dương nằm
trong huyện Quang An. Từ năm 638, Tương Dương nằm trong Hoan Châu.
Diễn Châu và Hoan Châu là 2 châu của Nghệ An thời đó. Thế kỷ X, năm 980,
Lê Hồn lên ngôi vua, đổi 10 đạo từ thời Đinh Tiên Hồng thành lộ, phủ,
châu. Nghệ -Tĩnh thời đó gọi là Hoan Châu và Diễn Châu, trong thời gian này
Tương Dương vẫn thuộc thuộc Hoan Châu. Năm 1010, nhà Lý lên thay nhà
Tiền Lê, đổi Hoan Châu làm trại, sau đó chia nước ta làm 24 lộ, Diễn Châu và
Hoan Châu là 2 lộ. Năm Thiên Thành thứ 3 (1030) đời Lý Thái Tơng, triều
đình nhà Lý đổi Hoan Châu ra châu Nghệ An. Tên Nghệ An có từ đó và
Tương Dương lúc bấy giờ gọi là Kiềm Châu [12, tr.80-83]. Lý Nhật Quang là
con thứ 8 của Lý Thái Tổ (1010-1028) đến Tương Dương và cho khai phá
vùng tổng Huyền Lãng huyện Vĩnh Hoà cũ, tức vùng Khe Bố (xã Tam

Quang, huyện Tương Dương bây giờ) và Cự Đồn (xã Bồng Khê, huyện Con
Cuông) lập bản mới, xây dựng đập thuỷ lợi và làm con đường thượng đạo từ
huyện Đô Lương sang Lào. Đất Bãi Sở, Bãi Xa, Mỏ Than, Khe Bố (xã Tam


11
Quang, huyện Tương Dương)xưa thuộc đất của Bản Phai (tiếng Thái gọi là
cái đập) là dấu tích của Lý Nhật Quang tạo dựng thời nhà Lý. Tại bản Phai có
một ngôi đền thờ Lý Nhật Quang, gọi là đến Pàng [12, tr.86-91]
Từ năm 1335-1336, vua Trần Minh Tông đem quân dẹp giặc Ai Lao,
đến đất Châu Kiềm (tức Tương Dương), thấy quân sĩ hùng hậu, giặc Ai Lao
nghe tin bỏ trốn. Dẹp xong giặc, vua Trần Minh Tông xuống chiếu cho Trung
Ngạn mài sườn núi khắc chữ ghi công rồi về [12, tr.91-92]. Trong thời gian
đóng quân tại Châu Kiềm, vua Trần Minh Tông cho xây dựng doanh trại tại Cự
Đồn là thung lũng của Thành Nam, châu lỵ của Mật Châu (sau này là phủ lỵ
của phủ Trà Lân đời nhà Lê). Thành được đắp bằng đất trộn đá, nằm hẳn trên triền
núi cao, trên thành đất lại có nữ thành rất kiên cố. Trên nữ thành này có trồng
nhiều tre, ngồi thành có hào sâu, có nơi sâu đến 5m và rộng 7.8m [12, tr.93].
Trong lần đánh giặc Ai Lao làm phản sau này, do chủ quan, lại gặp sương mù
dày đặc, bị giặc mai phục nên quân ta chết nhiều trong đó có đốc tướng Đồn
Nhữ Hải. Sau khi rút quân về, vua Trần Minh Tông củng cố lại thế trận, huy
động thêm binh lực, điều động Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư vào Nghệ An
làm đốc tướng, đuổi đánh quân Ai Lao ra khỏi bờ cõi [12, tr.94-95].
Thế kỷ XV, quân Minh sang đánh nước ta, năm 1418 Lê Lợi dựng cờ
khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hoá. Nghĩa sĩ theo như trẩy hội [12, tr.95].Tại
Tương Dương, ở Pù Lôn thuộc xã Luân Mai (nay chia tách thành xã Ln
Mai, Nhơn Mai và Mai Sơn) có một tù trưởng người Thái, thấy dân bị nhũng
nhiễu tàn tệ, ông đã dựng cờ nghĩa, tập hợp trai tráng người Thái trong vùng
gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, đối phó với giặc Minh. Thành Huồi Xá (Mai
Sơn) xây bằng đất sét, ở lưng chừng một hòn núi, thành khá rộng, có đường

hào giao thơng chạy quanh thành, xuống chân núi nối vào con đường mịn.
Ngồi nghĩa qn Huồi Xá, ở Tương Dương cịn có các nghĩa qn của một
số tù trưởng người Thái ở Nga My (Xiêng My), Yên Hoà (Xiềng Men), Khe
Bố (Mường Pồ) đều gia nhập nghĩa quân Lam Sơn khi Lê Lợi kéo quân đánh
thành Trà Long [12, tr.99, 102].


12
Thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam đã đi đến chỗ suy vong.
Nhà Lê không giữ được rường mối, họ Trịnh bạo nghịch hiếp vua, nhân dân
điều linh khốn khổ, phong trào nông dân nổi lên khắp nơi. Lê Duy Mật lại
dựng cờ khởi nghĩa trong suốt 31 năm (1738-1769), đến Nghệ An xây dựng
thành Trình Quang và 16 đồn luỹ khác. ở Tương Dương, nghĩa quân Lê Duy
Mật cho dựng các đồn luỹ như Bản Pồ (Khe Bố), Mường Mật (Thạch Giám),
Hoàng Mật (Cửa Rào),…Tại đây, Lê Duy Mật đã dựa vào bà con các dân tộc
Thái, Khơmú, Ơđu,…xây dựng lực lượng khá mạnh, cả về cơ sở quân sự lẫn
đội ngũ để chiến đấu lâu dài. Trịnh Doanh đã nhiều lần cất quân lên đánh
chiếm, nhưng nhờ căn cứ hiểm trở, xa xăm, lòng dân vững chắc cho nên
không thể đánh được. Mặc dù, sau này nghĩa quân của Lê Duy Mật bị đánh
bại, phong trào nông dân khởi nghĩa ở miền Tây Nghệ An bị dìm trong bể
máu. “Vua áo đỏ” khơng cịn, nhưng máu đỏ của nhân dân miền núi Nghệ An,
trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số Tương Dương vẫn muôn đời tươi
thắm [12, tr.102-109]. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858), đồng bào
các dân tộc Tương Dương đã hăng hái hưởng ứng và tham gia phong trào Cần
Vương, chống lại bọn giặc cướp nước cùng bè lũ tay sai bán nước.
Từ khi lãnh tụ Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào
Đông Dương và Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, đồng bào các dân tộc
Tương Dương dần dần giác ngộ ý thức dân tộc, ý thức giai cấp và đã vùng
dậy giành chính quyền, làm chủ xã hội trong cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945.

Sau hiệp định Giơnevơ được ký kết, hoà bình được lập lại, nhân dân
Tương Dương đã cùng nhân dân cả tỉnh, cả nước tiến hành công cuộc hàn gắn
vết thương chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, xã
hội, ổn định đời sống, thực hiện cải cách dân chủ, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
góp phần vào cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam
thống nhất Tổ quốc.


13
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ hàng ngàn người dân
Tương Dương đã hăng hái lên đường làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, hàng trăm
người đã ngã xuống, hàng trăm người khác cịn mang trên mình di chứng của
chiến tranh,…
Từ ngày tách huyện (5-1961), Đảng bộ và nhân dân Tương Dương đã
ra sức khắc phục khó khăn, tích cực thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần
thứ nhất, lần thứ hai,…Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng bộ và nhân
dân Tương Dương tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, truyền thống
văn hoá hăng hái thi đua yêu nước, tích cực phát triển kinh tế hộ gia đình, xố
đói giảm nghèo, làm giàu cho gia đình và cho xã hội.
Với lợi thế như trên, huyện Tương Dương có vị trí chiến lược rất quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Về Đảng bộ huyện Tương Dương
- Theo cuốn Lịch sử Đảng bộ Tương Dương, để tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng sát với cơ sở, Hội nghị thường xuyên của Tỉnh uỷ Nghệ An,
ngày 5-7-1947 đã quyết nghị chấn chỉnh các Ban chấp hành Đảng bộ các
phủ, huyện và Ban cán sự phụ trách 2 huyện Tương Dương, Quỳ Châu. Sau
đó ban cán sự Đảng của huyện Tương Dương được Tỉnh uỷ tăng cường lên
11 đồng chí.
Tháng 6-1947, tại Cửa Rào đã hình thành chi bộ Đảng Cộng sản Đơng
Dương đầu tiên ở huyện Tương Dương, đảng viên hầu hết là cán bộ tỉnh tăng

cường và cán bộ quân đội. Sau đó các chi bộ đảng lần lượt được thành lập ở
các địa phương như: Tà Cạ, Nậm Nơn, Hữu Kiệm, Chiêu Lưu, Mường Xén,
Thạch Giám, Tam Quang,…
Việc thành lập Ban cán sự Đảng bộ huyện Tương Dương cùng các chi
bộ đảng có ý nghĩa to lớn và đánh dấu bước trưởng thành của phong trào cách
mạng sau nhiều năm nhen nhóm xây dựng. Từ đây, mọi cơng tác trong huyện
đều do Ban cán sự trực tiếp chỉ đạo.


14
Sau khi thành lập ban cán sự Đảng bộ, theo yêu cầu của cấp trên, ngày
18-12-1948, Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Tương Dương được kiện
tồn gồm 7 uỷ viên.
Năm 1949, số chi bộ ở Tương Dương được thành lập đều là các chi bộ
ghép, chi bộ dự bị, cịn trong chế độ phụ trách, các bí thư chủ yếu là cán bộ,
đảng viên ở tỉnh, các huyện đồng bằng tăng cường lên. Sang năm 1950, số chi
bộ thành lập là chi bộ chính thức của một vùng, một xã, đã bầu ra được chi uỷ
có từ 3-5 uỷ viên và bỏ được chế độ phụ trách.
Tháng 6- 1950, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Đại hội đại biểu Đảng bộ
Tương Dương lần thứ nhất tại bản Quang Trung, xã Tam Quang (tức bản Sơn
Hà ngày nay). Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá ưu, khuyết điểm của tổ chức
đảng, chính quyền, đồn thể và phong trào thi đua yêu nước trong thời gian
qua; đề ra phương hướng, nhệm vụ chủ yếu của Đảng bộ trong thời gian tới
là: Đẩy mạnh mọi mặt kháng chiến, trước hết là chống giặc giữ làng, bảo vệ
chính quyền, ra sức tăng gia sản xuất, tiết kiệm, phục vụ tiền tuyến, triển khai
phong trào bình dân học vụ, chống giặc dốt. Đây là đại hội thành lập Đảng bộ
huyện Tương Dương.Từ đó đến nay, Đảng bộ huyện Tương Dương đã trải
qua 24 kỳ Đại hội, thể hiện sự trưởng thành của Huyện uỷ kể cả số lượng tổ
chức cơ sở đảng, đội ngũ đảng viên và cả tầm trí tuệ, ln đáp ứng yêu cầu
của nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng.

Tính đến tháng 12 năm 2007, Đảng bộ huyện Tương Dương đã có
3.741 đảng viên (chiếm 5,01% dân số cả huyện). Trong đó, có 20 tổ chức cơ
sở đảng dưới 30 đảng viên; 05 tổ chức cơ sở đảng từ 30-50 đảng viên; 05 tổ
chức cơ sở đảng có từ 51-100 đảng viên; 19 tổ chức cơ sở đảng có trên 100
đảng viên. Huyện uỷ Tương Dương trực tiếp lãnh đạo và quản lý 49 tổ chức
cơ sở đảng, trong đó có 20 tổ chức cơ sở đảng xã, thị trấn, 4 tổ chức cơ sở
đảng khối doanh nghiệp và 25 tổ chức cơ sở đảng khối các cơ quan nhà nước.
Khối văn hố - xã hội: có 9 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Huyện uỷ (có
125 đảng viên). Tổng số đảng viên sinh hoạt tại các cơ sở đảng khối văn hoá -


15
xã hội từ huyện đến xã là 1057 đồng chí, chiếm 24,94% tổng số đảng viên
trong toàn đảng bộ [15, tr.56, 61].
1.1.1.2. Huyện uỷ Tương Dương - Vai trò, chức năng; nhiệm vụ và
đặc điểm
* Vai trò quan trọng của Huyện ủy được thể hiện trên các phương diện
sau đây:
Trong hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng, Huyện ủy Tương
Dương là một tổ chức trong hệ thống các tổ chức của Đảng, hoạt động của
Huyện ủy góp phần rất quan trọng vào hoạt động của toàn Đảng để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng.
Xét trong mối quan hệ với Tỉnh ủy Nghệ An thì Huyện ủy Tương Dương
là cấp dưới trực tiếp của Tỉnh ủy lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động trên địa
bàn bao gồm: Lãnh đạo xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, lãnh đạo
các lĩnh vực kinh tế, văn hố- xã hội, quốc phịng-an ninh, lãnh đạo hoạt động
của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Xét với trong mối quan hệ với các tổ chức cơ sở Đảng trong huyện thì
Huyện ủy Tương Dương là cấp trên trực tiếp của các tổ chức đó. Lãnh đạo,
chỉ đạo, kiểm tra mọi hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng, nhân tố rất quan

trọng đảm bảo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
ở các địa phương trong huyện.
Huyện ủy quyết định mọi vấn đề về tổ chức và cán bộ trong hệ thống
chính trị bao gồm, quyết định việc phân công, phân cấp công tác tổ chức và cán
bộ, công tác đánh giá, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề
bạt, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách cán bộ.
Vai trò của Huyện ủy được quyết định bởi vai trò của cấp huyện đối
với sự phát triển của tỉnh và cả nước trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóaxã hội, quốc phịng-an ninh. Huyện là đơn vị trung gian nối liền cơ sở với tỉnh


16
nên huyện mạnh thì tỉnh mạnh và cả nước mạnh. Trên thực tế chỉ một số
huyện yếu kém đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển chung của tỉnh và
ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển toàn diện của đất nước. Nếu huyện yếu
kém thì thường hoạt động của nhiều cơ sở trong huyện không được sự chỉ đạo
đúng đắn của huyện và dẫn tới hiệu quả hoạt động thấp. Huyện khơng làm
chủ, khơng chỉ đạo có hiệu quả các hoạt động ở cơ sở thì thường xuất hiện
những vấn đề phức tạp, nếu không được giải quyết kịp thời, tích cực sẽ dẫn
tới những điểm nóng, gây mất ổn định ở nông thôn.
Huyện ủy lãnh đạo và quyết định thắng lợi mọi hoạt động trên địa bàn
bao gồm hoạt động của các tổ chức Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính
trị, các tổ chức kinh tế-xã hội, nghề nghiệp và các lĩnh vực hoạt động khác.
Huyện ủy là người định hướng chính trị cho các hoạt động ấy, đảm bảo cho
mọi hoạt động của huyện đi đúng đường lối, quan điểm của Đảng, đi đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa. Huyện ủy trực tiếp uốn nắn những lệch lạc của cơ
sở, phát hiện khẳng định các nhân tố mới, tạo điều kiện cho các nhân tố đó phát
triển, phát huy tác dụng đối với các hoạt động chung của huyện.
Huyện ủy là chủ thể lãnh đạo triển khai các chương trình dự án trên địa
bàn, khai thác tiềm năng, thế mạnh, huy động các nguồn lực trong và ngồi

khu vực phục vụ xây dựng các cơng trình trọng điểm có ý nghĩa chiến lược về
kinh tế, xã hội, quốc phòng-an ninh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Huyện
ủy lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để các tổ
chức này có đủ tư cách và khả năng giao lưu, liên kết với các địa phương, các
ngành, các cơ quan trong tỉnh và cả nước vì sự phát triển mọi mặt của huyện.
Như vậy Huyện ủy Tương Dương có vai trò rất quan trọng quyết định
thắng lợi mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc phòng
trên địa bàn huyện, đảm bảo cho các hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đồn thể nhân dân hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, góp phần quan
trọng vào công cuộc đổi mới trên địa bàn toàn tỉnh và cả nước.


17
* Huyện ủy Tương Dương là cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ huyện
Tương Dương giữa hai kỳ Đại hội và có các chức năng sau đây:
Chức năng quan trọng hàng đầu của Huyện ủy là lãnh đạo tất cả các hoạt
động trên địa bàn huyện, đảm bảo cho các hoạt động ấy theo đúng Đường lối,
quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa. Bao gồm các nội dung: Lãnh đạo các tổ chức Đảng
trong Đảng bộ huyện thực hiện các nhiệm vụ xây dựng nội bộ Đảng trong sạch
vững mạnh, đảm bảo năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có khả năng thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương; lãnh đạo các lĩnh vực của đời
sống xã hội; lãnh đạo chính quyền huyện và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân, xây dựng các tổ chức đó vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Chức năng lãnh đạo của Huyện ủy Tương Dương được thể hiện cụ thể
ở các mặt sau đây:
Ban hành quy chế hoạt động, chương trình làm việc tồn khóa của Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện; quy chế làm việc của Uỷ ban Kiểm tra Huyện ủy.
Quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương,
nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện;

cụ thể hóa thành chương trình hành động, kế hoạch thực hiện và nghị quyết
chuyên đề trong từng thời gian và trên từng lĩnh vực hoạt động.
Trước các kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện, Huyện ủy xây dựng dự
thảo Báo cáo chính trị, phương án nhân sự, các điều kiện đảm bảo để tổ chức
thành công Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ.
Quyết định những chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp lớn về kinh tế-xã
hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các đồn thể nhân dân. Tổ chức triển khai thực hiện và kiểm tra, đôn đốc, giải
quyết những vấn đề phát sinh do yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Quyết định những vấn đề về tổ chức và cán bộ thuộc diện Huyện ủy
quản lý, giới thiệu những cán bộ ra ứng cử vào các chức vụ chủ chốt của Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.


18
Quyết định việc khen thưởng, kỷ luật và xem xét giải quyết những
khiếu nại kỷ luật Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng.
Như vậy, sự lãnh đạo của Huyện ủy là sự lãnh đạo chính trị, là việc đề
ra các chủ trương, biện pháp trên cơ sở các quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Huyện ủy không bao biện, làm thay, không can thiệp
quá sâu vào các hoạt động cụ thể của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân.
Huyện ủy thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ, trực tiếp
quản lý đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý theo phân cấp,
trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các
tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu trong các tổ chức ấy.
Sự lãnh đạo của Huyện ủy phải được hiểu theo nghĩa rộng, tức là đã
bao hàm sự tổ chức thực hiện. Thực hiện chức năng lãnh đạo khơng có nghĩa
là Huyện ủy chỉ đề ra chỉ thị, nghị quyết, chủ trương mà sau khi đề ra các
quyết định lãnh đạo Huyện ủy còn phải lãnh đạo tổ chức thực hiện đạt kết quả

các chủ trương, nghị quyết đó.
Ngồi ra Huyện ủy cịn có chức năng đề xuất, kiến nghị với Tỉnh ủy về
những chủ trương, biện pháp thực hiện đường lối của Đảng, nghị quyết của
Tỉnh ủy trên địa bàn huyện, về những vấn đề liên quan đến huyện trước khi
cấp trên quyết định.
Huyện ủy còn chịu trách nhiệm tổ chức quán triệt và triển khai thực
hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy, đảm bảo cho mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào các dân tộc
trên địa bàn và được thực hiện.
* Trên cơ sở quy định của Điều lệ Đảng và hướng dẫn của Tỉnh ủy,
chức năng và thực tiễn hoạt động lãnh đạo, Huyện ủy Tương Dương có các
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Huyện uỷ có nhiệm vụ cụ thể hóa nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện
thành các chương trình cơng tác tồn khóa, chương trình cơng tác năm, từ đó


19
ra các quyết định lãnh đạo (chỉ thị, nghị quyết, thông báo, kết luận, đề án, kế
hoạch...) trên tất cả các lĩnh vực như lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hố - xã
hội, quốc phịng, an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đồn thể... trong đó trọng tâm là lãnh đạo phát triển kinh tế-xã
hội, công tác xây dựng Đảng, coi trọng lãnh đạo, xây dựng chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ huyện đến cơ sở.
Huyện ủy có nhiệm vụ triển khai và tổ chức thực hiện các nghị quyết,
chỉ thị của cấp trên thông qua việc xây dựng chương trình hành động, đề án
cơng tác, phân công cấp ủy viên phụ trách từng mặt công tác. Sơ kết và tổng
kết việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết, đề xuất và kiến nghị với Tỉnh ủy và
Trung ương những vấn đề vượt quá phạm vi thẩm quyền của cấp mình.
Huyện uỷ có nhiệm vụ lãnh đạo, xây dựng, củng cố khối đoàn kết toàn
dân trong huyện mà trọng tâm là đoàn kết các dân tộc.

Trong lãnh đạo phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội, Huyện ủy
có nhiệm vụ tập trung lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác, phát
huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương tạo sự phát triển nhanh, bền vững về
kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết có hiệu
quả những vấn đề xã hội, thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa đồng bào
các dân tộc trên địa bàn; phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa-thể thao,
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống tinh thần
cho nhân dân.
Một nhiệm vụ hết sức quan trọng là Huyện ủy Tương Dương phải
thường xuyên tiến hành công tác xây dựng Đảng mà trọng tâm là cuộc vận
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho các tổ chức Đảng ngày càng có chất
lượng cao, có đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực, trình độ, lãnh đạo thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng. Do đó, Huyện ủy
tập trung lãnh đạo, củng cố các tổ chức Đảng yếu kém, xóa thơn, bản trắng
đảng viên và chi bộ.


20
Huyện ủy cịn có nhiệm vụ cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của
Đảng, nghị quyết của Tỉnh ủy trong nhiệm kỳ, chuẩn bị nội dung và kế hoạch
tiến hành đại hội tổ chức cơ sở Đảng và đại hội Đảng bộ huyện theo quy định
của Điều lệ Đảng và sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Nghệ An. Xây dựng và thực
hiện quy chế làm việc của Huyện ủy, đảm bảo phát huy vai trị lãnh đạo tồn
diện của Huyện ủy trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, lãnh đạo chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trên địa bàn một cách có hiệu
quả, phát huy được sức mạnh đại đồn kết nhân dân các dân tộc. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ,
đảng viên, các cấp chính quyền, các ngành và các lĩnh vực kinh tế-xã hội,
quốc phòng-an ninh.
* Một số đặc điểm chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Huyện ủy

Tương Dương:
Một là: Huyện ủy Tương Dương được thành lập từ rất sớm(1947) và
trưởng thành cùng với các q trình các mạng sơi nổi của q hương xô viết
Nghệ An và của cả nước. Lịch sử của Huyện ủy và Đảng bộ huyện được xây
dựng, thử thách, rèn luyện lãnh đạo và trưởng thành trong hai cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm, trong công cuộc đổi mới .
Hai là: Huyện uỷ có truyền thống đồn kết và ln trung thành với mục
tiêu, lý tưởng của Đảng, lãnh đạo nhân dân đạt được những kết quả quan
trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; nhất là nhân dân các dân tộc
thiểu số. Qua đó , Huyện uỷ được đồng bào các dân tộc miền núi tin yêu, đùm
bọc, Huyện ủy đã làm tròn chức năng, nhiệm vụ của mình, trở thành chỗ dựa
và niềm tin của nhân dân trong huyện.
Ba là: Huyện ủy Tương Dương đã được kiện toàn qua các kỳ Đại hội đại
biểu Đảng bộ huyện, chất lượng không ngừng được nâng lên, đảm bảo lãnh đạo
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. Qua đại hội đại biểu


21
Đảng bộ huyện lần thứ XXIV vừa qua, Huyện ủy được kiện toàn với cơ cấu
hợp lý hơn. Các Ban tham mưu của Huyện ủy được kiện toàn, chất lượng
được nâng lên. Chất lượng của Huyện ủy ở các huyện khóa sau cao hơn khố
trước, đáp ứng u cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng. Ban Chấp
hành Đảng bộ huyện có 35 đồng chí; trong đo, có 23 đồng chí có trình độ cao
đẳng, đại học chun mơn và 20 đồng chí có trình độ, cử nhân và cao cấp lý
luận, có 5 đồng chí Huyện ủy viên có trình độ sau đại học (là một trong những
Huyện uỷ có só Huyện uỷ viên có trình độ sau đại học cao trong tỉnh) [26], [37].
Bốn là: Huyện ủy Tương Dương hoạt động trong môi trường tự nhiên
và xã hội khá phức tạp: địa bàn hoạt động rộng lớn và hiểm trở (Tương
Dương là huyện có diện tích tự nhiên lớn nhất tỉnh Nghệ An, gấp đơi diện tích

tỉnh Thái Bình), trình độ dân trí thấp, trình độ cán bộ, đảng viên không đồng
đều, nhiều dân tộc sinh sống với các phong tục tập quán khác nhau, trong đó,
có một số phong tục, tập quán lạc hậu ảnh hưởng nhất định đến cán bộ, đảng
viên. Với tư cách là các huện biên giới, tình hình đó càng trở nên phức tạp.
Năm là: Huyện ủy Tương Dương lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ
chính trị được giao rất nặng nề, phức tạp trong điều kiện điểm xuất phát thấp, cơ
sở hạ tầng thấp kém, đặc biệt là vấn đề giao thơng, các cơng trình phục vụ dân
sinh kinh tế. Bên cạnh đó, những năm gần đây có nhiều diễn biến phức tạp về
vấn đề di dân tự do và buôn bán vận chuyển các chất ma túy qua biên giới...
Sáu là: Đối tượng lãnh đạo của Huyện ủy rất đa dạng gồm nhiều dân
tộc, với các đặc điểm tâm, sinh lý, tính cách khác nhau. Các mối quan hệ
dịng họ, dịng tộc khá phức tạp. Một số ít bộc lộ tư tưởng gia trưởng, tự ti,
trông chờ, ỷ lại. Đồng bào sinh sống phân tán, số cán bộ nhất là cán bộ thơn
bản có năng lực trình độ đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chiếm tỷ lệ thấp, số
lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập trước yêu cầu của
nhiệm vụ trong thời kỳ mới, do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến sự lãnh đạo
của Huyện ủy.


22
Bảy là: Ngoài các nhiệm vụ chung, Huyện ủy Tương Dương còn phải
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân dân
các dân tộc, lãnh đạo thực hiện các chính sách miền núi và dân tộc, lãnh đạo bảo
tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc trhiểu số, lãnh đạo quan hệ ngoại giao
với nước bạn Lào, lãnh đạo chống các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan...
1.1.2. Lĩnh vực văn hoá - xã hội huyện Tương Dương - vị trí, vai trị
và tổng quan tình hình
1.1.2.1. Vị trí, vai trị
Văn hố, Xã hội là 2 khái niệm khoa học riêng biệt, tuy chúng có liên
quan mật thiết với nhau, vì cùng là những hiện tượng xã hội, do con người

sáng tạo ra, khác với các hiện tượng tự nhiên.
Văn hoá là tổng thể những kết quả lao động, là toàn bộ những giá trị
mà con người sáng tạo nên để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết:
Vì lẽ sinh tồn, cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người
mới phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá [39, tr.51].
Văn hoá do con người sáng tạo ra trong suốt quá trình tồn tại, phát triển
của gia đình, dân tộc và đất nước.
Xã hội là hình thức sinh hoạt chung có tổ chức của lồi người ở một trình
độ phát triển nhất định của lịch sử và được xây dựng trên cơ sở một phương thức
sản xuất nhất định. Xã hội chỉ đời sống xã hội của con người, thể hiện nhu cầu được
thỏa mãn để phát triển con người, từ cá nhân đến cộng đồng. Xã hội để chỉ các quan
hệ giữa con người với con người trong xã hội được xem như một cấu trúc vật chất
phức tạp nhất, một bản thể vật chất để tạo nên đời sống của con người.
Xã hội để chỉ một trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống được hình
thành bởi hoạt động của con người và do cách thức tổ chức đời sống xã hội


23
tạo ra. Đó chính là lĩnh vực xã hội trong tương quan với các lĩnh vực khác
như kinh tế, chính trị, văn hóa. Xã hội cịn để chỉ những hình thức tổ chức của
cộng đồng, của cơ cấu xã hội; chúng vận động và biến đổi trong những điều
kiện hiện thực của kinh tế, chính trị, văn hóa.
Xã hội cịn để chỉ trình độ phát triển mối quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng xã hội. Nhìn vào lịch sử phát triển của các xã hội, tiến bộ và văn minh
xã hội, mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng đã trải qua những hình thức
biến đổi, những trình độ khác nhau.

Trong trường hợp của đề tài luận văn "Huyện uỷ Tương Dương, tỉnh
Nghệ An lãnh đạo lĩnh vực văn hoá- xã hội trong giai đoạn hiện nay”, khái
niệm "Văn hoá - Xã hội" được hiểu như một khái niệm tổng hợp để chỉ chung
các lĩnh vực chăm lo thiết thực đời sống vật chất và tinh thần, sức khoẻ, mơi
trường sống... cho tồn bộ con người sống trong một xã hội như giáo dục, y
tế, khoa học công nghệ, văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao, dịch vụ cơng ích
vệ sinh mơi trường, nước sạch; dân số-gia đình-trẻ em, lao động-việc làm và
các chính sách xã hội cho mọi người ở Tương Dương. Vì vậy, trong cơng
trình nghiên cứu này khái niệm "Văn hoá - Xã hội" có khi được dùng như một
cụm liên từ tổng hợp để biểu thị các lĩnh vực xã hội nói trên, và cũng có khi
từng lĩnh vực xã hội được dùng riêng, nhưng đều biểu thị một phạm vi của
"văn hoá - xã hội" của địa bàn huyện Tương Dương.
Vai trò của lĩnh vực văn hoá - xã hội được thể hiện thông qua mối quan hệ
biện chứng giữa phát triển văn hoá với phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại
"Văn hoá là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội". Văn
hố góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Những
giá trị văn hoá tinh thần tiến bộ, lành mạnh ln ln có vai trị tác động tích
cực, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Văn hố và kinh tế ln có mối liên hệ biện chứng với nhau. Sự phát
triển kinh tế bao giờ cũng nhằm mục đích cuối cùng là phát triển vì con


24
người, vì cộng đồng. Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định rằng tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội, còn ý thức xã hội là sự phản ảnh tồn tại xã hội, phụ thuộc
vào tồn tại xã hội. Do đó, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự thay đổi và phát triển
của văn hoá là do thay đổi của nền kinh tế. Trong khi xây dựng các chiến
lược, kế hoạch phát triển văn hoá-xã hội như đặt vấn đề tăng cường đầu tư
cho sự phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học, cơng nghệ, văn hố
nghệ thuật, thể dục thể thao, môi trường đô thị, giải quyết việc làm và các vấn đề

dân số-gia đình và trẻ em v.v... đều phải tính đến khả năng kinh tế của kinh tế .
Tuy nhiên, cũng cần hiểu rõ rằng văn hố hồn tồn khơng phải là
cái bóng mờ, theo sau kinh tế. Văn hoá và các nội dung của nó vốn có tính
độc lập tương đối với kinh tế. Văn hoá và khoa học, giáo dục... (hiển văn
hoá theo nghĩa rộng) có vai trị khơng chỉ là thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội, mà còn mở đường cho sự phát triển kinh tế lên một trình độ phát triển
cao hơn. Thực tế cho thấy không phải lúc nào phát triển văn hóa cũng có tỷ
lệ thuận với phát triển kinh tế. Hiện nay, ở nước ta, bên cạnh những thành
tựu đã đạt về mặt văn hóa trong quá trình đổi mới, cũng cịn tồn tại nhiều
vấn đề nổi cộm như thiếu kỷ cương trong các hoạt động văn hóa và dịch vụ
văn hóa, những biểu hiện khơng lành mạnh trong giao lưu văn hóa và sự
lây lan các tệ nạn xã hội.
Từ nhận thức về văn hoá cho thấy cách nhìn nhận các giá trị xã hội, các
nhân tố trong phát triển không nên chỉ nhấn mạnh một chiều cơ sở và vai trị
của kinh tế, mà khơng thấy giá trị và vai trị của văn hố. Sự thật cho thấy,
trong quá trình phát triển của xã hội khơng thể thiếu văn hố và càng khơng
được coi nhẹ vai trị văn hố. Bởi vì một xã hội muốn phát triển một cách lành
mạnh, hài hoà, toàn diện và bền vững thì phải coi trọng cả bốn yếu tố: kinh tế,
chính trị, văn hố và xã hội.
Cần phải làm cho tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với phát triển văn
hóa theo hướng tiến bộ. Tăng trưởng kinh tế mà văn hóa suy đồi là điều vơ


25
nghĩa và trái với bản chất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa lấy sự phát triển
toàn diện con người làm mục tiêu trung tâm. Chỉ có một nền văn hóa tiên tiến,
thấm nhuần sâu sắc tính nhân văn và với bản sắc dân tộc đậm đà mới đủ sức
kiểm chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường.
Nói tới lĩnh vực văn hố- xã hội là nói tới sự chăm lo tới việc phát huy
các nguồn lực con người, yếu tố quan trọng hàng đầu để thúc đẩy các q

trình phát triển. Hồn tồn có lý khi nói rằng, sau thực phẩm, thì văn hố và
giáo dục là một trong những nhu cầu hàng đầu của mỗi dân tộc.Ý tưởng này trở
nên đặc biệt sâu sắc và có tính thời sự trong nội dung xã hội của triết lý phát
triển, nhất là ở nước ta đang bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội, “văn hố có
khả năng to lớn khơi dậy, nhân lên mọi tiềm năng, sức sáng tạo của con
người, tạo ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển của đời sống xã hội”
[5, tr.214]. Trong thời đại ngày nay, sự giàu có và phát triển tồn diện của
một đất nước khơng chỉ là tài ngun thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu ngày
càng trở nên quyết định chính là nguồn lực con người, là tiềm năng và năng
lực sáng tạo của con người. Mà những tiềm năng và năng lực đó “nằm ngay
trong văn hố và chính văn hố trực tiếp tạo nên trong trí tuệ, đạo đức, tâm
hồn, nhân cách, bản lĩnh, sự thành thạo, tài năng của mỗi cá nhân và cả cộng
đồng” [5, tr.214]. Mặt khác, văn hố cịn có khả năng điều tiết, điều chỉnh các
khuynh hướng, chiều hướng phát triển của xã hội và con người, hướng sự vận
động tới cái tích cực, tiến bộ, nhân văn và hạn chế những biểu hiện tiêu cực,
thoái hoá, biến chất,…dẫn đến sự kìm hãm và thậm chí cịn tàn phá, xuống
cấp của một xã hội, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Mục tiêu của sự phát triển là ở sự nâng cao chất lượng cuộc sống của
con người với việc đảm bảo sự hài hoà giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần, giữa mức sống cao với lối sống và nếp sống đẹp của mỗi con người và
cả cộng đồng người. Để đạt được mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự phát triển


×