Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

QUAN điểm và CHỦ TRƯƠNG của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM về xây DỰNG và PHÁT TRIỂN văn HOÁ TRONG THỜI kì đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.03 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


QUAN ĐIỂM VÀ CHỦ TRƯƠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG VÀ
PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI

GVHD: ThS. PHÙNG THẾ ANH
SVTH:

TRƯƠNG MINH HIẾU
NGUYỄN HỒNG LÂM KHƠI
NGUYỄN THỊ QUỲNH NHƯ
NGUYỄN TẤN PHÁT
CAO HỒI TÚ QUỲNH

20110481
201251061
20125092
20146381
20125101

- Tp.HCM, tháng 04/2022 MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU..................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài:.............................................................................................2
1


2. Mục đích nghiên cứu:......................................................................................2
3. Nội dung chính:................................................................................................2


PHẦN 2: NỘI DUNG..............................................................................................3
1. Khái niệm về văn hóa:......................................................................................3
2. Vai trị, tầm quan trọng của văn hóa đến xã hội lồi người.........................4
2.1Vai trị của văn hóa:........................................................................................4
2.2 Tầm quan trọng của văn hóa đến xã hội loài người:.................................5
3. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về văn hố trong thời kì đổi mới 6
3.1 Quá trình hình thành đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây
dựng và phát triển nền văn hoá..........................................................................6
3.2 Quan điểm và chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng và
phát triển văn hoá..............................................................................................11
3.2.1 Quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
động lực phát triển bền vững đất nước........................................................11
3.2.2 Quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.......................................................................................................12
3.2.3 Quan điểm phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người
và xây dựng con người để phát triển văn hóa..............................................14
3.2.4 Quan điểm xây dựng đồng bộ mơi trường văn hóa, trong đó chú
trọng vai trị của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hịa giữa kinh tế và
văn hóa.............................................................................................................19
3.2.5 Quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn
dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo,
đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.........................................................28
4. Vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa trong việc xây
dựng văn hóa của sinh viên ở Việt Nam hiện nay:.............................................30
PHẦN 3: KẾT LUẬN............................................................................................32
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................34

2



PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Cùng với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế,nền văn hóa cũng phát
triển mạnh mẽ làm cho xã hội ngày càng văn minh tiến bộ hơn,con người cũng mở
mang được tầm vóc của mình hơn. Trong giai đoạn hội nhập và phát triển của nền
kinh tế, các nền văn hóa khác sẽ theo chân tràn vào nước ta.Nền văn hóa Việt Nam
đang đứng trước cơ hội lớn đổi mới nền văn hóa để theo kịp với thời đại và tiến bộ
xã hội.Nhưng đó cũng là thách thức lớn đối với nền văn hóa nước ta.Vậy làm thế
nào để phát triển đồng thời nhưng vẫn phải giữ được những giá trị tinh hoa của dân
tộc. Hiện nay Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương chính sách gì để xây
dựng, bảo tồn và phát triển nền văn hóa. Đó cũng là một vấn đề lớn mang tính cấp
thiết mà chúng ta cần phải quan tâm và đưa ra những đề xuất và những giải pháp
nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta.
2. Mục đích nghiên cứu:
Khi khoa học ngày càng phát triển, đời sống vật chất ngày càng được nâng
cao thì đời sống đạo đức con người lại có xu hướng sa sút, những vấn nạn xã hội
ngày càng tăng, chính lúc này vấn đề văn hóa càng trở nên quan trọng nhất.Như
chúng ta đã biết, nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc,ở một tiểu vùng mà văn hóa của một vài nước lớn dễ chi phối,ảnh hưởng và có
xu thế đồng hóa,bộc lộ rõ qua các thời kỳ lịch sử nhưng văn hóa Việt Nam vẫn tồn
tại bền vững và có bản sắc riêng cho đến ngày nay.
3. Nội dung chính:
- Khái niệm về văn hố
- Vai trị, tầm quan trọng của văn hóa đến xã hội lồi người
- Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về văn hố trong thời kì đổi mới
-Vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa trong việc xây dựng văn
hóa của sinh viên ở Việt Nam hiện nay:

3



PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Khái niệm về văn hóa:
Từ “Văn hố” có nhiều nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái niệm có nội
hàm hết sức khác nhau. Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho
cùng, khái niệm “Văn hố” bao giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu chính: theo
nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng,
theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu
là những giá trị tinh hoa của nó gồm nếp sống văn hố, văn hoá nghệ thuật,...Giới
hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực
gồm văn hoá giao tiếp, văn hố kinh doanh,... Giới hạn theo khơng gian, văn
hố được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng như văn hoá Tây
Nguyên, văn hoá Nam Bộ,... Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ
những giá trị trong từng giai đoạn như văn hố Hồ Bình, văn hố Đơng Sơn,…
Theo nghĩa rộng, văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.
UNESCO đã đưa ra định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa là tổng tể các
hoạt động cũng như sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Trải qua các thể kỷ, những
hoạt động đó đã tạo nên một giá trị truyền thống riêng – đó là yếu tố xác định các
đặc tính của từng dân tộc.”
Theo chuẩn mực văn hóa theo Unesco là sự sáng tạo của con người ln gắn
liền với q trình lịch sử của mỗi dân tộc trong một thời gian dài. Điều này đã tạo
nên những giá trị nhân văn chung, tính đặc thù của mỗi nơi và bản sắc riêng của
dân tộc.
Theo Unesco, văn hóa là sự sáng tạo của con người gắn liền với quá trình
lịch sử của mỗi dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã viết rằng: “Vì lẽ sinh tồn, lồi người đã sáng
tạo ra ngơn ngữ, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, cách sống…
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó chính là văn hóa”.

4


Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt nhằm đáp ứng nhu
cầu của con người và đòi hỏi của sự sinh tồn. Định nghĩa về văn hóa của chủ tịch
Hồ Chí Minh giúp ta hiểu rõ hơn về khái niệm này. Suy cho cùng, mọi hoạt động
của con người, trước hết là vì lẽ sinh tồn.
Nhưng sau một thời gian dài lặp đi lặp lại, những thói quen đó đã được chắt
lọc thành chuẩn mực, tích lũy từ đời này qua đời khác. Cuối cùng thành một kho
tàng quý gia mỗi cộng đồng và góp phần lại thành di sản văn hóa.

2. Vai trị, tầm quan trọng của văn hóa đến xã hội lồi người
2.1. Vai trị của văn hóa:
Văn hóa góp phần ổn định xã hội, vì nó là cái đã có từ lâu đời, đi sâu vào
nhận thức của mỗi người dân nên mọi hành vi của con người đều phải chịu sự điều
chỉnh bởi một phong tục và khuôn khổ đạo đức của dân tộc.
Văn hóa đã góp phần cải thiện các mối quan hệ trong xã hội, mang lại cuộc
sống chất lượng hơn cho con người cả về vật chất và tinh thần.
Văn hóa được chia thành văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, mang lại lợi
ích tinh thần và vật chất cho con người, từ đó tạo nên những nét đẹp truyền thống
mang đậm dấu ấn của dân tộc.
Văn hóa là một trong những văn kiện minh chứng cho lịch sử vẻ vang và
hùng mạnh của dân tộc. Vì văn hóa được phát triển trong một q trình hình thành
lâu dài, chứa đựng bao thăng trầm của cả một đất nước nên thơng qua những nét
văn hóa đó, thế hệ sau mới cảm nhận được truyền thống văn hóa của ơng cha ta để
lại.
Văn hóa thực hiện chức năng giao tiếp, biểu đạt là nhịp cầu nối con người
với con người, nối thế hệ trước với thế hệ sau.
Văn hóa cịn có chức năng giáo dục, giúp thế hệ sau hiểu biết về lịch sử dân
tộc, đảm bảo cho sự bảo tồn và phát triển.


5


Văn hóa góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Bởi văn hóa thể
hiện vẻ đẹp độc đáo của một quốc gia, là một trong những yếu tố thu hút khách du
lịch quốc tế đến tham quan và khám phá văn hóa của quốc gia đó.
2.2 Tầm quan trọng của văn hóa đến xã hội lồi người:
Tính hệ thống
Tính hệ thống của văn hóa giúp tập hợp và khám phá các mối quan hệ giữa
các sự kiện, hiện tượng văn hóa, quy luật hình thành và phát triển và các đặc trưng
của nó. Với tính hệ thống của mình, văn hóa hiện diện trong mọi hoạt động của xã
hội, giúp tổ chức xã hội tốt hơn.
Tính giá trị
Giá trị của văn hóa căn cứ vào mục đích được chia thành giá trị vật chất
phục vụ nhu cầu vật chất của con người hoặc giá trị tinh thần phục vụ nhu cầu tinh
thần của con người. Nếu căn cứ vào ý nghĩa, văn hóa được chia thành giá trị đạo
đức, giá trị thẩm mỹ và giá trị sử dụng. Căn cứ vào thời gian, văn hóa được chia
thành giá trị tạm thời và giá trị vĩnh cửu.
Giá trị theo thời gian giúp con người đánh giá một cách khách quan và biện
chứng hơn về giá trị của văn hóa, tránh phủ nhận sạch sẽ hay khen ngợi một cách
phiến diện.
Một hiện tượng, sự vật có thể có nhiều giá trị khác nhau, nhiều hay ít tùy
thuộc vào việc chúng ta nhìn nhận ở những góc độ nào, dựa trên khía cạnh nào. Vì
vậy, một hiện tượng có được đánh giá là văn hóa hay khơng sẽ được coi là giá trị
và phi giá trị trong mối quan hệ của nó.
Một hiện tượng có giá trị hay khơng cịn tùy thuộc vào từng thời kỳ lịch sử
với những chuẩn mực văn hóa được lấy làm hệ quy chiếu.
Tính nhân loại
Văn hóa là tất cả những sản phẩm do con người sáng tạo ra và phục vụ lợi

ích của con người, vì vậy văn hóa là của con người. Từ lâu, con người đã biết điêu
khắc, chạm khắc gỗ là một hoạt động vật chất và thực hiện các hoạt động tinh thần
6


như đặt tên cho danh lam thắng cảnh, xây dựng truyền thuyết về cuộc sống xung
quanh.
Tính lịch sử
Thời gian giúp phân biệt các nền văn hóa là sản phẩm của quá trình nhân
tạo. Vì vậy, bản chất lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ văn hóa được tích lũy qua
nhiều thế hệ và có các giai đoạn phát triển khác nhau. Lịch sử văn hóa tạo ra chiều
sâu và bề dày cũng như giúp văn hóa điều chỉnh và phân loại lại các giá trị một
cách thường xuyên. Truyền thống văn hóa sẽ là cốt lõi của lịch sử phát triển của
lĩnh vực này.
Truyền thống văn hóa bao gồm những giá trị khá ổn định được cộng đồng
người tích lũy và phát triển theo thời gian, hun đúc thành khuôn mẫu xã hội, lưu
truyền dưới dạng ngôn ngữ, nghi lễ, phong tục, tập quán. tập quán và dư luận xã
hội, luật pháp…
3. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về văn hố trong thời kì đổi
mới
3.1 Q trình hình thành đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng
và phát triển nền văn hoá
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có
những bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa, về xây dựng và phát
triển nền văn hoá; quan niệm về phát triển, về mối quan hệ giữa văn hóa và phát
triển và vai trị của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngay từ những năm 1942-1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng: "Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh

ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp

7


của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Điểm mới trong tư duy về văn hóa của Đảng ta thời kỳ đổi mới là việc xác
định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa khơng phải là một hoạt
động riêng biệt có tính chất ngành nghề (ngành văn hố - thơng tin...), khơng phải
là một lĩnh vực hoạt động văn hóa cụ thể, không phải chỉ là học vấn, chỉ là văn
nghệ,... Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, biểu hiện sức sống, sức sáng tạo,
sức phát triển, sức mạnh tiềm tàng và bản lĩnh, cốt cách của dân tộc được thể hiện
qua truyền thống văn hóa dân tộc và hệ giá trị văn hóa. Các giá trị văn
hố và truyền thống văn hố được thấm nhuần trong mỗi con người và cả cộng
đồng, dân tộc, được lưu giữ, chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy qua các thế
hệ... trở thành nền tảng tinh thần của mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc và xã
hội. Các bộ phận cơ bản nhất cấu thành nền văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội
là: Tư tưởng, đạo đức, lối sống; học thuật; nghệ thuật; thông tin đại chúng, giao lưu
văn hóa; thể chế và thiết chế văn hoá,...
Đời sống của mỗi con người cũng như đời sống của xã hội có hai mặt vật
chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu vật
chất của con người và xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đáp ứng
nhu cầu tinh thần của con người và xã hội. Là nền tảng tinh thần của xã hội, văn
hóa biểu hiện sự hiểu biết, tài năng và trí tuệ, đạo đức, lối sống, tâm hồn, tình cảm,
thẩm mỹ... của con người và của cộng đồng dân tộc trong mối quan hệ hài hòa với
xã hội, với tự nhiên. Vì vậy khả năng phát triển của một dân tộc không chỉ dựa vào
nền tảng vật chất (kinh tế) của xã hội mà còn cần phải dựa vào nền tảng tinh thần

(văn hóa) của xã hội.
Với tính cách và vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển của quốc
gia, dân tộc không chỉ dựa vào nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, vốn... mà còn ở
khả năng phát huy tối đa nguồn lực con người, là làm cho văn hóa thấm sâu vào
trong các lĩnh vực và hoạt động xã hội, thấm sâu vào mọi lĩnh vực sinh hoạt của
con người biến thành "nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển".
Tư duy về phát triển của Đảng ta trong hơn hai thập niên qua cũng ngày
càng sáng tỏ và sâu sắc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu lên
một số kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội X là: “Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây
8


dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân
tộc(...) phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội(...) gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng
cố quốc phòng an ninh,...”.
Như vậy, theo quan điểm của Đảng ta, phát triển là một bước tiến toàn diện
và đồng bộ về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và mơi trường. Phát
triển bao hàm sự tăng trưởng về kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và cơng bằng
xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi
đôi với phát triển văn hố - giáo dục, phát triển tồn diện con người, bảo vệ môi
trường sinh thái, bảo đảm ổn định chính trị và giữ vững an ninh - quốc phịng của
Tổ quốc.
Coi nhẹ nhân tố văn hố, xã hội, con người và môi trường trong phát triển,
chạy theo tăng trưởng kinh tế thuần túy và mơ hình "xã hội tiêu thụ" là ngõ cụt của
phát triển. Vì vậy, Đảng ta và nhân loại tiến bộ mạnh mẽ phê phán việc coi nhẹ
nhân tố văn hoá trong phát triển. Trên đất nước ta và nhiều quốc gia khác trên thế
giới quan niệm về "những kích tấc văn hóa của phát triển" đã và đang được nhấn

mạnh trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia và vai trò của văn hóa đối với
phát triển đang trở thành một vấn đề trung tâm của dân tộc và của thời đại.
Như vậy tăng trưởng kinh tế là cơ sở và điều kiện của phát triển nhưng chưa
phải là toàn bộ sự phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải nhằm phục vụ mục tiêu phát
triển văn hóa, phát triển con người... Tăng trưởng kinh tế phải gắn với đảm bảo
tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hố bảo vệ mơi trường. Nếu chỉ chạy
theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần thì sự tăng trưởng kinh tế là vơ nghĩa, có hại và
thực chất là phản phát triển.
Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, F.Mayor cũng nhấn mạnh: “Kinh
nghiệm của hai thập kỷ qua cho thấy rằng trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở
trình độ phát triển kinh tế nào hoặc theo xu hướng chính trị nào, văn hóa và phát
triển là hai mặt gắn liền với nhau. Hễ nước nào tự đặt ra cho mình mục tiêu phát
triển kinh tế mà tách rời mơi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân
đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy
sẽ bị suy yếu rất nhiều. Một sự phát triển chân chính địi hỏi phải sử dụng một cách
tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy phân tích đến cùng, các trọng
tâm, các động lực và các mục đích của phát triển phải được tìm trong văn hóa. Từ
nay trở đi văn hóa cần coi mình là một nguồn bổ sung trực tiếp cho phát triển và
ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ một vị trí trung tâm, một vai trị
9


điều tiết xã hội...”. Như vậy, khái niệm phát triển phải bao gồm các nhân tố kinh tế
và xã hội, cũng như các giá trị đạo đức và văn hoá, quy định sự nảy nở và phẩm giá
con người trong xã hội. Nếu như con người là nguồn lực của phát triển, nếu như
con người vừa là tác nhân lại vừa là người được hưởng, thì con người phải được
coi chủ yếu như là sự biện minh và là mục đích của sự phát triển.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng ln
khẳng định vị trí và vai trị to lớn của văn hóa trong q trình đấu tranh giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo yêu cầu và nhiệm vụ

cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta chủ trương phát huy đến mức cao
nhất vai trị và tác dụng của văn hóa, của đội ngũ những người hoạt động văn hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh
chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật
có nhiệm vụ phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân".
Trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, cùng với sự đổi mới trong tư
duy kinh tế và chính trị, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy về
vai trị của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khố VI
(1987) về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và
văn hóa phát triển lên một bước mới đã xác định: "Văn hóa là bộ phận trọng yếu
của cách mạng tư tưởng và văn hóa, là một động lực mạnh mẽ, đồng thời là mục
tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
(1993) đã xác định: "Văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998)
tiếp tục khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế
phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội cơng bằng văn minh, con người phát triển
tồn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển
kinh tế các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội
trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương... biến thành
nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển".
Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban chấp hành Trung ương khoá IX (2004)
và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) đã xác lập vị trí của văn
hố là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền vững và toàn diện của đất
10



nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nhận thức sâu sắc của Đảng về
mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển, là bước phát triển mới trong quan điểm của
Đảng về vai trò to lớn, sâu sắc của văn hoá trong phát triển bền vững và toàn diện
của đất nước. Đây là sự năng động của nhận thức trong việc nắm bắt các vấn đề
thời đại, cũng là sự xác định chính xác định hướng phát triển văn hố, kinh tế,
chính trị và xã hội ở Việt Nam theo học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Theo đó, văn hóa khơng đứng ngồi phát triển. Văn hoá là nền tảng tinh thần
của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần
của xã hội gắn kết chặt chẽ, đồng bộ và tương xứng với nhiệm vụ phát triển kinh tế
(là trung tâm); xây dựng chỉnh đốn Đảng (là then chốt) chính là điều kiện quyết
định sự phát triển bền vững và tồn diện của đất nước vì “xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Để phát huy vai trị đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta cần phải tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư
tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là
trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng,
các đơn vị, tổ chức cơ sở, các gia đình, trong từng cán bộ đảng viên, cơng chức,
viên chức, hội viên, các bậc cha mẹ, các thầy cơ giáo. Văn hố là nền tảng tinh
thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh phải: “Tiếp tục xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại. Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân
lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức”. Chú trọng thực hiện tốt
chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người - nguồn lực q
báu nhất, có vai trị quyết định nhất, là sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam.
Cần coi đây là khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực
văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Phải thực sự coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. Tăng nhanh
mức đầu tư của Nhà nước và xã hội cho phát triển văn hóa, tương xứng với nhịp độ
tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hoá văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể
thao... đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực
này.
11


Phải gắn chặt nhiệm vụ phát triển văn hóa với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh
đốn Đảng, xây dựng văn hóa trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước, tiếp tục đẩy
mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" cho
cán bộ đảng viên, cơng chức, viên chức, hội viên và nhân dân. Xây dựng Đảng ta
thực sự trong sạch vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh” (Hồ Chí
Minh), từ đó mà phát huy mạnh mẽ nhất vai trị lãnh đạo “Tồn dân đồn kết xây
dựng đời sống văn hố”, tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới.
3.2 Quan điểm và chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng và
phát triển văn hoá
Từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã hình thành từng bước nhận thức
mới về đặc trưng của nền văn hoá mới mà chúng ta cần xây dựng; về chức năng,
vai trị, vị trí của văn hoá trong phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập quốc tế.
Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hố Việt Nam có đặc
trưng: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn
hoá mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung
nhân đạo, dân chủ, tiến bộ; kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt
đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa căn hoá của nhân
loại; chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa
xã hội.  
3.2.1 Quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động

lực phát triển bền vững đất nước
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Theo ý kiến của nguyên Tổng Giám đốc UNESCO:
Văn hoá phản ánh và thể hiện một tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống
(của mỗi cá nhân và các cộng đồng) diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra
trong hiện tại; qua hàng bao thế kỉ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị,
truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của
mình. Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế- xã hội. Biện pháp tích cực là
đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hố; đẩy mạnh
cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá, đơn vị văn hoá; nêu gương người tốt,
việc tốt.
12


Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển: Nguồn lực nội sinh của sự phát
triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hoá. Sự phát triển của một dân tộc phải
vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách khỏi
cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cuội nguồn, bằng cách phát huy cuội nguồn.
Cội nguồn đó của mỗi quốc gia, dân tộc là văn hoá. Văn hoá là một mục tiêu của
phát triển: Để làm cho văn hoá trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển,
chúng ta chủ chương phát triển văn hoá phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với
phát triển kinh tế- xã hội. Cụ thể là: Khi xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn
hoá phải căn cứ và hướng tới mục tiêu, giải pháp và phát triển kinh tế- xã hội, làm
cho phát triẻn văn hoá trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội; Khi
xác định mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn
hoá, hướng tới xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Phải có chính sách kinh tế
trong văn hoá để gắn văn hoá với hoạt kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài
chính hỗ trợ cho phát triển văn hố.
Văn hố có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân

tố con người và xây dựng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế- xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài
nguyên thiên nhiên, vốn… tuy nhiên những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị
khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vơ hạn, có khả năng
tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ khơng được sử
dụng có hiệu quả nếu khơng có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác
chúng.
3.2.2 Quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc
Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhằm mục tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến khơng chỉ về nội dung tư tưởng mà cả
trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hoá truyền thống bền vững của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã- Tổ
quốc; đó là lịng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, là đức tính cần cù,
sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản
13


sắc dân tộc cịn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc
đáo.
Có thể nói, bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách,
khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức mạnh sáng tạo, giúp cho
dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất qn so với bản
thân mình trong q trình phát triển. Sức mạnh và sức sáng tạo này có mối liên hệ
gốc rễ, lâu dài và bền vững với môi trường xã hội- tự nhiên và với quá trình lịch sử

mà dân tộc đó đã tồn tại.
Nói chung, bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình
dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình,
biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển. Bản sắc cũng có những thăng
trầm của nó. Nó chẳng hề là một cái gì đứng im để cho ta có thể khư khư giữ chặt.
Nó là một phạm trù lịch sử, được hình thành trong lịch sử, do những điều kiện
khác nhau của lịch sử, là hiện tượng động chứ khơng phải tĩnh. Nó là của con
người, tức là một cơ thể sống, và cũng như mọi cơ thể thật sự sống, nó chỉ có thể
sống bằng q trình “trao đổi chất” (métabolisme) với mơi trường chung quanh.
Nó khơng mâu thuẫn đối lập với hội nhập, thậm chí ngược lại chỉ có thể tồn tại và
phát triển bằng hội nhập. Nó sống bằng thường xuyên tiếp xúc, trao đổi với cái
khác mình. Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hoá,
khoa học, văn học, nghệ thuật…; nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá
trị của dân tộc, nó là cốt lõi của một nền văn hoá. Hệ giá trị là những gì nhân dân
quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi
được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự lựa chọn trong
hành động của cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho sự ổn định
của xã hội và sự vững vàng của chế độ. Hệ giá trị có tính ổn định rất lớn và có tính
bền vững tương đối, có sức mạnh gắn bó mọi thành viên trong cộng đồng. Trong
sự tiến bộ và phát triển của xã hội, các giá trị này thường khơng biến mất mà hố
thân vào các giá trị của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã
hội và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội
nhập kinh tế thế giới, q trình giao lưu văn hố với các quốc gia khác và sự tiếp
nhận tích cực văn hố, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng
và hoàn thiện các giá trị và nhân cách con người Việt Nam trong thời kì cơng
14



nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thấm đượm
trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học
công nghệ, giáo dục và đào tạo…, sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta
có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi
vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn luôn phát huy
những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta chủ
trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loai. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp
thu có chọn lọc những cái hay, cài tiến bộ trong văn hoá của các dân tộc khác để
bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hoá
với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của văn hoá Việt Nam đương đại.
Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hoá khu vực và quốc tế.  
Giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời
trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.
3.2.3 Quan điểm phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và
xây dựng con người để phát triển văn hóa
Ba là, phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng
con người để phát triển văn hóa. Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ cơ bản, cốt
lõi, trọng tâm của việc xây dựng nền văn hóa đó là xây dựng, hồn thiện nhân cách
con người bởi lẽ. Đồng thời, quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc,
vì nếu khơng xác định rõ mục tiêu hướng mọi hoạt động văn hóa vào hồn thiện
con người thì dẫn đến nguy cơ xa rời bản chất đích thực của văn hóa, là tha hóa
con người.
Con người là chủ thể sáng tạo nên giá trị văn hóa, là sản phẩm của mơi
trường văn hóa do mình tạo ra nên nhân cách con người có ý nghĩa quyết định đối
với việc tạo nên chất lượng văn hóa. Vì thế, xây dựng nhân cách con người đứng

vững trước những khó khăn, thách thức của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế,
dám xả thân vì sự nghiệp chung là vấn đề hệ trọng của văn hóa Việt Nam hiện nay.
Hội nghị Trung ương lần thứ chín, khóa XI của Đảng đã ra Nghị quyết về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
15


vững đất nước. Nghị quyết nhấn mạnh các quan điểm chỉ đạo về xây dựng, phát
triển văn hóa, con người Việt Nam.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thể hiện các đặc trưng Dân tộc - Nhân văn - Dân chủ và Khoa học. Xây dựng
và phát triển con người Việt Nam là trọng tâm, là cốt lõi và thực chất của xây
dựng, phát triển văn hóa. Hệ giá trị của con người Việt Nam thống nhất hữu cơ với
các đặc trưng của văn hóa, đồng thời, các giá trị của con người Việt Nam lại là sự
thể hiện sinh động, tiêu biểu nhất các giá trị, sức sống của văn hóa, của bản sắc
truyền thống dân tộc, của sự kết hợp hài hòa truyền thống với hiện đại, dân tộc với
thế giới và thời đại. Diện mạo tinh thần của dân tộc Việt Nam - một dân tộc giàu
truyền thống văn hóa và văn hiến được thể hiện tập trung và nổi bật ở trí tuệ và tâm
hồn, đạo đức, nhân cách và lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam. Đó là những
con người yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo như
Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra. Chỉ như vậy, văn hóa và con người mới thực sự là
mục tiêu và động lực của phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước, mới tạo ra
sức mạnh của nguồn lực nội sinh, sức mạnh tổng hợp của đất nước, dân tộc, con
người và văn hóa đưa sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế Việt Nam tới thành
cơng, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Nội sinh của văn hóa như nguồn trữ năng vật chất - tinh thần của cả xã hội,
kết hợp với ngoại sinh được tận dụng nhờ hội nhập quốc tế có hiệu quả, tạo ra nội
lực và ngoại lực thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam. Cả nội sinh
lẫn ngoại sinh, cả nội lực lẫn ngoại lực kết hợp lại thành ra nguồn lực tổng hợp như
vốn xã hội để phát triển. Khơng có nguồn lực nào quan trọng và quý giá bằng

nguồn lực con người, bằng nguồn nhân lực, từ nhân lực hiện hữu bằng sức lao
động đã trưởng thành, đang được sử dụng đến nhân lực tiềm tàng, tiềm năng đang
được nuôi dưỡng, đào tạo, nó như “của để dành”, như “vốn dự trữ” cho tương lai.
Do đó, vốn người, “tư bản” người là quan trọng bậc nhất, quyết định nhất vốn xã
hội, nhìn từ quan điểm phát triển, từ lăng kính quản lý xã hội, quản trị doanh
nghiệp và sâu xa hơn từ tầm nhìn văn hóa, từ triết lý nhân văn của phát triển văn
hóa, phát triển con người. Vì lẽ đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương chín, khóa XI
xác định rằng, “phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa”.
Quan điểm chỉ đạo này cho thấy, mối liên hệ bên trong mật thiết, gắn bó
chặt chẽ, khơng thể tách rời giữa văn hóa với con người, giữa con người với văn
hóa, về thực chất, phát triển văn hóa là phát triển con người, lấy phát triển con
16


người là trọng tâm. Phát triển con người không chỉ tạo ra chất lượng nguồn nhân
lực để phát triển văn hóa mà con người với năng lực sáng tạo, trình độ học vấn,
tiềm lực trí tuệ, phẩm giá đạo đức, lối sống của nó, tựu trung lại là sự phát triển và
hồn thiện nhân cách của con người là tính hướng đích, là mục đích, mục tiêu của
phát triển văn hóa. Xét theo quan điểm giá trị thì hệ giá trị Chân - Thiện - Mỹ của
văn hóa cũng chính là hệ giá trị phát triển con người, con người vừa với tư cách là
chủ thể mang nhân cách của chính mình, phản ánh những chuẩn mực, u cầu của
mẫu nhân cách xã hội vừa với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, sản xuất ra văn
hóa dưới dạng các sản phẩm, các giá trị đồng thời còn là chủ thể quản lý, cảm thụ,
tiêu dùng văn hóa, thực hiện các hoạt động quảng bá, giao lưu văn hóa, tiếp xúc và
tiếp biến văn hóa để phát triển xã hội, phát triển chính mình. Chỉ có con người mới
là chủ nhân đích thực của sáng tạo văn hóa, cả văn hóa vật chất (vật thể) lẫn văn
hóa tinh thần (phi vật thể), cũng chỉ có con người, từ cấp độ cá nhân - cá thể đến
cấp độ xã hội - cộng đồng, dân tộc, rộng nhất là nhân loại, mới tạo dựng nên mơi
trường văn hóa - xã hội để phát triển văn hóa và phát triển xã hội nói chung, để làm

cho hiệu ứng xã hội của văn hóa (nhất là văn hóa tinh thần), lan tỏa, mở rộng, thấm
sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhân lên sức sống, sức phát triển của con
người, của văn hóa, khơng chỉ những thế hệ người trong một dân tộc - quốc gia,
nền văn hóa của mỗi dân tộc mà còn là sự phát triển của các dân tộc, của các nền
văn hóa trong thế giới nhân loại. Dịng chảy của sáng tạo và phát triển văn hóa là
liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Con đường đi của phát triển, văn
minh, tiến bộ của dân tộc cũng như của thế giới và thời đại là con đường của sáng
tạo, phát triển văn hóa, của hội nhập văn hóa mà trong xu thế tồn cầu hóa hiện
nay, khơng một nước nào có thể ở bên ngồi tiến trình hội nhập để phát triển. Biện
chứng của mối quan hệ văn hóa với con người, con người với văn hóa là ở tương
tác nhân - quả giữa chủ thể và đối tượng. Con người sáng tạo ra văn hóa và chính
văn hóa lại tác động sâu xa, rộng lớn tới phát triển con người, hoàn thiện nhân
cách, nhân tính.
Có thể nói, con người là giá trị văn hóa cao nhất, giá trị của mọi giá trị.
Hồn thiện nhân cách, nhân tính của con người là sứ mệnh của văn hóa, là nỗ lực
cao nhất mà sáng tạo văn hóa cần đạt đến, mà mọi thành quả, thành tựu của văn
hóa đều góp phần vào sự bộc lộ các năng lực người, khẳng định sức mạnh bản chất
người của con người trong phát triển, từ cá thể người đến cộng đồng người trong
dân tộc và trong nhân loại. Giáo sư Vũ Khiêu đã từng nhấn mạnh, văn hóa là tất cả
những gì cho thấy nhân tính vượt lên trên thú tính. Hồn thiện nhân tính, nhân cách
17


con người rõ ràng là thước đo văn hóa. Đây là chỗ nói lên bản chất nhân văn đích
thực của văn hóa, cũng là chỗ phân biệt văn hóa với phản văn hóa, phát triển với
phản phát triển. Trong bản chất của nó, văn hóa chỉ biểu đạt cái tốt đẹp, sự lương
thiện và tử tế, sự chính trực và lẽ công bằng, trọng sự thật và lẽ phải, tôn trọng
chân lý khoa học, đạo lý và đạo nghĩa ở đời và làm người. Văn hóa có cốt lõi của
nó là đạo đức, mà đức là gốc của nhân cách. Tiềm lực tư tưởng và trí tuệ là xung
lực mạnh mẽ của văn hóa nên khoa học có mặt trong văn hóa như một hợp phần

khơng thể thiếu, khơng thể yếu.
Lịch sử văn hóa bao giờ cũng gắn liền với lịch sử của khoa học. Nhân cách
trí thức khoa học cũng như nhân cách nhà văn hóa sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh
vực tinh thần - văn học nghệ thuật phải là những đại biểu xứng đáng và tiêu biểu
cho nhân cách của dân tộc mình, thời đại mình. Phát triển giáo dục - đào tạo và
khoa học - công nghệ ở tầm quốc sách hàng đầu không chỉ là đột phá để tháo gỡ
các điểm nghẽn trong phát triển mà sâu xa hơn, còn là lựa chọn một định hướng có
triển vọng nhất cho phát triển bền vững, từ hiện tại tới tương lai. Bởi lẽ, phát triển
bền vững của đất nước thực chất là phát triển bền vững con người mà muốn vậy,
phải đặc biệt chú trọng thực hiện chiến lược phát triển văn hóa. Chỉ có tạo dựng
mơi trường xã hội lành mạnh mới có thể tạo ra những con người mang nhân cách
văn hóa, mới sáng tạo, sản sinh ra văn hóa vì con người, vì phát triển. Đúng như
điều C.Mác nói, nếu con người là sản phẩm của hồn cảnh thì phải làm cho hồn
cảnh ngày càng có tính người nhiều hơn, và sự phong phú của mỗi cá nhân (nhân
cách) tùy thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Xây dựng
và phát triển văn hóa để hồn thiện nhân cách con người phải làm cho văn hóa
thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, mọi quan hệ xã hội của con người. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói rõ chủ kiến ấy của mình, văn hóa khơng ở bên ngồi mà ở
trong kinh tế và chính trị. Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Phải đem văn hóa
mà chữa thói phù hoa, xa xỉ, quan liêu, lãng phí, tham ơ, tham nhũng. Cũng phải
dùng thực hành văn hóa mà xây dựng đời sống mới, phát huy dân chủ và quyền
làm chủ của nhân dân. Trong kháng chiến cũng như trong kiến quốc, luôn luôn cần
đến nhân tài và phải có chính sách để bồi dưỡng, phát huy, phát triển nhân tài, biết
quý trọng, tin cậy hiền tài. Khơng có con người xã hội chủ nghĩa thì không thể xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội được.
Do đó, kiến thiết đất nước, xây dựng nền văn hóa mới phải đi liền với chiến
lược con người, Đảng phải coi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là công việc gốc của
Đảng. Những luận điểm như thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh thuộc về tầm nhìn
18



chiến lược của nhà tư tưởng và nhà văn hóa kiệt xuất, mà vào lúc này, Đảng ta
đang ra sức vận dụng, phát triển. Để phát triển văn hóa và hoàn thiện nhân cách
con người Việt Nam theo đúng quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp mà
Đảng đã xác định, trong tình hình hiện nay của nước ta và trước yêu cầu phát triển
mới của đất nước, cần phải tập trung triển khai thực hiện những công việc cụ thể,
thiết thực, có ích cho nước, có lợi cho dân, những việc làm thực tế, hợp với ý
nguyện của lòng dân. - Trước hết, phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất,
tinh thần từ công sức, mồ hơi nước mắt, sức sáng tạo của dân mà có được để phát
triển kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân, giải quyết nạn thất
nghiệp đang nhức nhối trong xã hội hiện nay, bởi tình trạng hàng vạn thanh niên
sinh viên tốt nghiệp, có học thức mà khơng có việc làm. An sinh là cái gốc của ổn
định và phát triển, là tiền đề cho phát triển con người và văn hóa. - Thực hành triệt
để tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy lùi tham nhũng để chăm lo cuộc sống cho
người dân, nâng cao chất lượng cuộc sống và trình độ của dân, từ chăm lo dân
sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền để đi tới dân chủ. Đó là một tổng hợp
chương trình, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, đó cịn là chính trị, là đường lối,
chính sách chính trị vì dân, cũng là văn hóa trọng dân trọng pháp rất cần trong lúc
này, khi lịng dân khơng n, do khơng ít cán bộ suy thối, hư hỏng. - Khơng có
văn hóa và văn hóa chính trị nào cao q hơn khi thực hiện cho được một nguyên
tắc, một phương châm hành động “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, có
an dân thì mới đo được kết quả của việc trị quốc. Có quốc thái thì sẽ có dân an. Từ
bài học của ơng cha ta trong lịch sử đến Di sản cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh
mà kế thừa, thực hiện và phát triển vào lúc này thì mọi việc lớn và nhỏ phải ln
ln vì dân, phải coi “dĩ cơng vi thượng” là văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị
hàng đầu trong giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên, trong chỉnh đốn Đảng, trong
cải cách thể chế, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Giáo dục
đạo đức, đặc biệt là giáo dục liêm sỉ, lương tâm, danh dự, giáo dục ý thức trách
nhiệm đi liền với thực hành đạo đức, lối sống liêm khiết phải được coi trọng trong
văn hóa của Đảng, của các tổ chức công quyền. - Cùng với giáo dục phải siết chặt

kỷ luật, kỷ cương, tính tơn nghiêm luật pháp, áp dụng chế tài mạnh mẽ để trừng
phạt tất cả những người, những việc gây hại tới dân. Đó là sức mạnh của văn hóa,
của chính trị bảo đảm “quang minh chính đại” theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh.
Những người tốt phải được tôn vinh, những kẻ xấu phải bị phê phán, lên án, sàng
lọc khỏi bộ máy để dân tin, dân tự mình bảo vệ Đảng và chế độ. Sức mạnh của văn
hóa và giá trị nhân cách con người, nhất là văn hóa trong Đảng và nhân cách văn
19


hóa của mỗi cán bộ đảng viên, ở các cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước và các đồn
thể ln là chỉ số quan trọng để thuyết phục dân, lấy lại niềm tin của dân đối với
Đảng, với chế độ. Tăng trưởng niềm tin của dân vào lúc này có tác dụng như một
động lực phát triển, nó minh chứng cho sự trong sạch, vững mạnh của Đảng từ tác
động của văn hóa. Tăng trưởng niềm tin của dân cịn quan trọng và khó khăn hơn
nhiều so với tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức từ gia đình đến nhà
trường và xã hội, giáo dục lý tưởng, lẽ sống và rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ
phải được chú trọng, góp phần quan trọng vào cơng cuộc chấn hưng đạo đức, phát
triển văn hóa ở nước ta.
3.2.4 Quan điểm xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng
vai trị của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa
Xây dựng mơi trường văn hóa
Về mặt khái niệm, mơi trường văn hóa là tổng hịa các loại điều kiện văn
hóa tinh thần tồn tại xung quanh con người và tác động tới hoạt động của con
người. Yếu tố chủ yếu tạo thành mơi trường văn hóa là giáo dục, khoa học, kinh tế,
văn nghệ, đạo đức, tôn giáo, triết học, tâm lý dân tộc và tập tục truyền thống.
Từ tầm nhìn vĩ mơ, mơi trường văn hóa là một bộ phận hợp thành của tồn
bộ mơi trường xã hội, vì thế, nó có vai trị to lớn đối với sự ổn định phát triển và
tiến bộ của toàn thể xã hội.
Thứ nhất, mơi trường văn hóa có ảnh hưởng đến sự hình thành quan điểm
giá trị và quan niệm phân phối xã hội một cách hợp lý, nhân văn, phù hợp với các

tầng lớp khác nhau trong xã hội nhằm bảo đảm sự ổn định.
Thứ hai, môi trường văn hóa ảnh hưởng tới ổn định xã hội thơng qua quan
hệ giữa con người với con người. Xã hội là do con người tổ chức hợp thành. Cá
nhân, gia đình là tế bào của xã hội. Con người sống trong xã hội tất nhiên sẽ phát
sinh nhiều loại quan hệ và những mối quan hệ này ở những mức độ khác nhau sẽ
ảnh hưởng đến ổn định xã hội. Phải tăng cường ý thức đạo đức bao gồm quan niệm
đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Thông qua dư luận xã hội và hoạt động
văn hóa làm cho các yêu cầu đạo đức trở thành một bộ phận hợp thành ý thức tư
tưởng của mọi công dân.
20


Thứ ba, phải thực hiện công bằng xã hội. Môi trường văn hóa tạo cơ hội, tạo
điều kiện hưởng thụ văn hóa, hưởng thụ giáo dục. Bên cạnh đó, việc hưởng thụ các
giá trị tinh thần khác thông qua sách báo, truyền hình, ca nhạc, triển lãm, du lịch
văn hóa và du lịch sinh thái cũng rất quan trọng. Vấn đề đặt ra với chúng ta hiện
nay là song song với việc mở rộng không gian và môi trường văn hóa, cần chú
trọng hơn nữa chất lượng hưởng thụ văn hóa, giảm dần sự cách biệt giữa nơng thơn
và thành thị, giữa vùng phát triển nhanh và vùng phát triển chậm, đặc biệt là vùng
sâu, vùng xa.
Mơi trường văn hóa và biến đổi xã hội: Xã hội ổn định không có nghĩa là xã
hội khơng có biến đổi. Trong hệ thống xã hội to lớn và phức tạp, giữa các tầng bậc,
các thành phần, các yếu tố có thể xảy ra tình trạng khơng thích ứng, khơng hài hịa.
Đây là cội nguồn khách quan của biến đổi xã hội. Với tư cách là một bộ phận hợp
thành môi trường xã hội, mơi trường văn hóa tất có liên quan đến sự biến đổi xã
hội, đặc biệt là liên quan đến văn minh chính trị của nhà cầm quyền và sự lựa chọn
hình thức phát triển đất nước của người dân.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển văn minh vật chất gắn liền với thành
tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại như kỹ thuật số, công nghệ tin học, công nghệ sinh
học... Như vậy, văn minh vật chất hiện đại chủ yếu dựa vào trí lực, khơng phải là

khai thác và lợi dụng tài nguyên theo kiểu tiêu hao mà khai thác tài nguyên song
song với việc bảo vệ và tái sinh tài nguyên.
Còn về văn minh tinh thần, trước hết, mơi trường văn hóa tốt đẹp sẽ tương
thích và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của đời sống văn hóa tinh thần vì thành
phần cơ bản của mơi trường văn hóa bao gồm tình trạng đời sống văn hóa của quần
chúng, tình trạng giáo dục khoa học - kỹ thuật, tình trạng đạo đức xã hội và tình
trạng tư tưởng lý luận. Thứ hai, nhìn từ góc độ khác sẽ thấy phạm vi mơi trường
văn hóa rộng hơn giá trị văn hóa tinh thần. Vì mơi trường văn hóa hiện thực bao
gồm loại hình văn hóa, hoạt động văn hóa, tâm lý văn hóa nên ở đó, tồn tại cả cái
tốt và cái xấu, tích cực và tiêu cực, tiến bộ và lạc hậu.... Còn phạm trù giá trị văn
hóa tinh thần là phạm trù chỉ những giá trị mang ý nghĩa kết tinh, ở đó khơng có
chỗ cho những sản phẩm văn hóa kém chất lượng.
Mơi trường văn hóa và sự phát triển kinh tế - xã hội: Mơi trường văn hóa có
tác dụng thúc đẩy tích cực đối với phát triển kinh tế. Thứ nhất, môi trường văn hóa
21


có tác dụng điều chỉnh hài hịa đối với vận hành bình thường của nền kinh tế. Các
loại giá trị văn hóa khơng những là cơ sở chỉ đạo động cơ tăng trưởng kinh tế mà
cịn quy định tính hợp lý của mục tiêu tăng trưởng. Thứ hai, môi trường văn hóa tốt
đẹp có thể điều hịa, sửa chữa, uốn nắn tính hẹp hịi của quan điểm giá trị vì lợi
nhuận của kinh tế thị trường. Đặc biệt phải coi trọng vai trị động lực của văn hóa;
phải khơng ngừng nâng cao tỷ trọng văn hóa tinh thần; làm trong sạch thị trường
văn hóa, chỉnh đốn và quy phạm trật tự thị trường văn hóa theo pháp luật; đặt phát
triển văn hóa vào vị trí chiến lược quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước.
Mơi trường văn hóa và sự phát triển tồn diện con người: Tăng cường xây
dựng mơi trường văn hóa tạo dựng nên một mơi trường văn hóa lành mạnh, tiến
lên, phát triển là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện phát triển toàn diện con
người.
Xây dựng văn hóa gia đình

“Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực khu biệt đặc thù
điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối quan hệ giữa gia
đình với xã hội, phản ánh bản chất của các hình thái gia đình đặc trưng cho các
cộng đồng các tộc người, các dân tộc và các khu vực khác nhau được hình thành và
phát triển lâu dài của đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển
kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội”.
Nhận thức được vai trò của gia đình trong việc giữ vững ổn định xã hội, phát
triển kinh tế, nuôi dưỡng giáo dục và cung cấp nguồn lực con người đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ phát triển kinh tế tri thức và hội nhập
quốc tế, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng văn hóa gia đình. Xây dựng mơi
trường văn hóa và văn hóa gia đình đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 5,
khóa VIII về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
của đất nước: “Xây dựng môi trường văn hóa với nội dung đầu tiên là xây dựng
văn hóa gia đình “tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, trường học, đơn vị
bộ đội), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi) đời sống văn hóa lành mạnh,
đáp ứng những nhu cầu đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân
dân”.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước xác định một trong
22


những nhiệm vụ xây dựng mơi trường văn hóa là thực hiện chiến lược phát triển
gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành ni dưỡng nhân
cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt
đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân
rộng các mơ hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp ơng bà, cha mẹ mẫu mực,
con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đồn kết, thương u nhau.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các đề án “Phát huy giá trị tốt đẹp của
mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững đến

năm 2020” (Quyết định số 279/QĐ-TTg); phê duyệt “Chiến lược phát triển gia
đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030” (Quyết định số 629/QĐ-TTg); phê
duyệt “Chương trình hành động quốc gia về phịng chống bạo lực gia đình đến năm
2020” (Quyết định số 215/QĐ-TTg) nhằm thể chế Nghị quyết Trung ương 9 khóa
XI. Các chương trình và đề án đã khẳng định xã hội gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc là một trong những mục tiêu quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2011 - 2020, tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Vì vậy phát huy các giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình và hỗ
trợ xây dựng gia đình Việt Nam hạnh phúc, bền vững là trách nhiệm của toàn Đảng
và tồn dân.
Trên thực tế, xây dựng văn hóa gia đình hướng vào các mục tiêu cụ thể:
Nhận thức về vai trị, vị trí, trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong
việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hơn nhân và gia
đình, bình đẳng giới, phịng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội
thâm nhập vào gia đình. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức rất nhiều hoạt
động nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và nâng cao trách nhiệm của
các cấp, các ngành, gia đình, cộng đồng và tồn xã hội trong cơng tác phịng
chống, chống bạo lực gia đình, từng bước ngăn chặn và giảm bạo lực gia đình trên
phạm vi toàn quốc; cụ thể là các hoạt động viết về gương điển hình trong phịng,
chống bạo lực gia đình; cuộc thi Câu lạc bộ gia đình chủ đề: Gia đình hạnh phúc,
xây dựng kế hoạch mạng lưới quốc gia về phịng chống bạo lực gia đình giai đoạn
2010 - 2020. Trên thực tế, tình trạng ngoại tình, kết hơn bất hợp pháp, ly thân,
chung sống không kết hôn, không muốn sinh con, lối sống thử, sống độc thân, kết
hôn đồng tính là nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình. Theo số liệu thống kê hành
23


vi đánh đập ngược đãi dẫn đến ly hôn chiếm khoảng hơn 50% trong tất cả các
nguyên nhân dẫn đến ly hôn.
Tăng cường các giải pháp hữu hiệu nhằm kế thừa, phát huy các giá trị truyền

thống của gia đình Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình
trong xã hội phát triển, thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành
viên trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, ni
con nhỏ. Những hoạt động hưởng ứng Ngày quốc tế hạnh phúc 20-3 với chủ đề
Yêu thương và chia sẻ; các hoạt động kỷ niệm 15 năm ngày gia đình Việt Nam 286 với chủ đề Bữa cơm gia đình ấm áp yêu thương cùng với công tác truyền thông
về lĩnh vực tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dạng, nội dung phong
phú trên các phương tiện thông tin đại chúng đã tạo nên các mối quan hệ trong gia
đình ngày càng tốt đẹp, tiến bộ, văn minh. Đó là các quan hệ giữa vợ với chồng,
cha mẹ với con cái, quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu trưởng thành nhằm hỗ
trợ xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững.
Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; tính năng động, tích cực của các thành viên trong gia đình tăng lên theo
quá trình phát triển của đất nước. Năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế,
ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế ngày càng được nâng cao; việc làm
phong phú và đa dạng hơn đã tăng thu nhập và phúc lợi cho các hộ gia đình; đặc
biệt đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo.
Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam mà trọng tâm là xây
dựng mơi trường văn hóa phải bắt đầu từ xây dựng văn hóa gia đình. Vì chính gia
đình là nơi sinh ra, giáo dục và nuôi dưỡng thể lực và nhân cách của mỗi con
người, đó là nguồn lực tổng hợp như vốn xã hội để phát triển. Khơng có nguồn lực
nào quan trọng và quý giá bằng nguồn lực con người, bằng nguồn nhân lực, từ
nhân lực hiện hữu bằng sức lao động đã trưởng thành, đang được sử dụng đến nhân
lực tiềm tàng, tiềm năng đang được nuôi dưỡng, đào tạo, nó như “của để dành"
như” “vốn dự trữ” cho tương lai. Do đó, con người, “tư bản” người là quan trọng
bậc nhất, quyết định nhất vốn xã hội, nhìn từ quan điểm phát triển, từ lăng kính
quản lý xã hội, quản trị doanh nghiệp và sâu xa hơn từ tầm nhìn văn hóa, từ triết lý
nhân văn của phát triển văn hóa, phát triển con người. Để có được nguồn nhân lực
đó, đầu tiên và quan trọng nhất là từ nhiệm vụ xây dựng văn hóa gia đình.
24



Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI xác định rằng, “phát triển văn hóa vì sự
hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”.
Quan điểm chỉ đạo này cho thấy, mối liên hệ bên trong mật thiết, gắn bó
chặt chẽ, khơng thể tách rời giữa văn hóa với con người, giữa con người với văn
hóa, về thực chất, phát triển văn hóa là phát triển con người, lấy phát triển con
người là trọng tâm. Phát triển con người không chỉ tạo ra chất lượng nguồn nhân
lực để phát triển văn hóa mà con người với năng lực sáng tạo, trình độ học vấn,
tiềm lực trí tuệ, phẩm giá đạo đức, lối sống của nó, tựu trung lại là sự phát triển và
hồn thiện nhân cách của con người là tính hướng đích, là mục đích, mục tiêu của
phát triển văn hóa. Xét theo quan điểm giá trị thì hệ giá trị Chân - Thiện - Mỹ của
văn hóa cũng chính là hệ giá trị phát triển con người, con người vừa với tư cách
là chủ thể mang nhân cách của chính mình, phản ánh những chuẩn mực, yêu cầu
của mẫu nhân cách xã hội, vừa với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, sản xuất ra
văn hóa dưới dạng các sản phẩm, các giá trị, đồng thời còn là chủ thể quản lý, cảm
thụ, tiêu dùng văn hóa, thực hiện các hoạt động quảng bá, giao lưu văn hóa, tiếp
xúc và tiếp biến văn hóa để phát triển xã hội, phát triển chính mình. Chỉ có con
người mới là chủ nhân đích thực của sáng tạo văn hóa, cả văn hóa vật chất (vật thể)
lẫn văn hóa tinh thần (phi vật thể), cũng chỉ có con người, từ cấp độ cá nhân - cá
thể gia đình đến cấp độ xã hội - cộng đồng, dân tộc, rộng nhất là nhân loại, mới tạo
dựng nên môi trường văn hóa - xã hội để phát triển văn hóa và phát triển xã hội nói
chung, để làm cho hiệu ứng xã hội của văn hóa (nhất là văn hóa tinh thần), lan tỏa,
mở rộng, thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhân lên sức sống, sức phát
triển của con người, của văn hóa, khơng chỉ những thế hệ người trong mối quan hệ
gia đình, trong một dân tộc - quốc gia, nền văn hóa của mỗi dân tộc mà còn là sự
phát triển của các dân tộc, của các nền văn hóa trong thế giới nhân loại. Dịng chảy
của sáng tạo và phát triển văn hóa là liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai
bắt đầu từ gia đình vì gia đình Việt Nam là một thiết chế nền tảng của xã hội Việt
Nam truyền thống. Con đường đi của phát triển, văn minh, tiến bộ của dân tộc
cũng như của thế giới và thời đại là con đường của sáng tạo, phát triển văn hóa,

của hội nhập văn hóa mà trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, khơng một nước nào
có thể ở bên ngồi tiến trình hội nhập để phát triển.
Biện chứng của mối quan hệ văn hóa gia đình với con người, con người với
văn hóa gia đình là ở tương tác nhân - quả giữa chủ thể và đối tượng. Con người
25


×