1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá; tăng cường mở rộng, giao lưu, hội nhập ngày càng sâu hơn với nền kinh
tế thế giới. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nặng nề đó, địi hỏi phải huy
động sức lực, trí tuệ của tồn Đảng, tồn dân, xây dựng các nguồn lực mạnh
mẽ; trong đó, khâu quan trọng có tính quyết định là Đảng phải xây dựng được
một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực gánh vác nhiệm vụ được
giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc…
Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Nghị quyết hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khố VIII về chiến lược cán bộ
trong thời kỳ cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng khẳng định: Cán bộ
là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Muốn xây dựng được một đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt, cần phải
thực hiện nghiêm túc, bài bản, khoa học, tác động đồng bộ lên các khâu công
tác cán bộ, bao gồm: xác định đúng tiêu chuẩn cán bộ, đánh giá, quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, thực hiện
chính sách cán bộ, kiểm tra và quản lý cán bộ. Trong các khâu đó, cơng tác bổ
nhiệm cán bộ là cực kỳ quan trọng, quyết định trực tiếp đến hiệu quả, chất
lượng cơng việc và có tác động ảnh hưởng lớn đến các khâu khác của công
tác cán bộ. Nếu bổ nhiệm đúng cán bộ thì phát huy tốt năng lực, sở trường của
từng cán bộ, đồng thời phát huy được tiềm năng của cả đội ngũ cán bộ; ngược
lại bổ nhiệm không đúng sẽ dẫn đến hỏng việc, hỏng người.
Để bổ nhiệm đúng cán bộ phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tập
trung dân chủ. Trên cơ sở Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý công tác cán
bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong bổ nhiệm cán bộ phải bám sát qui
chế, quy trình, quy định của Đảng, của địa phương. Đồng thời phải phát huy
tốt vai trò, trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị,
2
các cơ quan đơn vị và người đứng đầu, tập thể cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân… trong tham gia, góp ý kiến thống nhất trước khi đi đến
quyết định đề bạt, bổ nhiệm cán bộ; trong công tác bổ nhiệm cán bộ nhất thiết
phải do cấp uỷ có thẩm quyền quyết định khi đã tuân thủ đầy đủ các quy
trình; phải gắn chế độ tập thể với trách nhiệm cá nhân trong bổ nhiệm cán bộ,
thực hiện tập trung dân chủ đầy đủ, khơng dân chủ hình thức. Có như vậy
cơng tác bổ nhiệm cán bộ mới đảm bảo được chất lượng, hiệu quả, bổ nhiệm
đúng người, đúng việc, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng
trước yêu cầu mới.
Trong thời gian qua, đối với Đảng bộ huyện Vĩnh Thuận tỉnh Kiên
Giang, các cấp uỷ đảng đã nhận thức tương đối đầy đủ về vị trí, tầm quan
trọng của cơng tác bổ nhiệm cán bộ. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong công tác cán bộ nói chung, bổ nhiệm cán bộ nói riêng đã được các
cấp uỷ đảng coi trọng. Các quan điểm chỉ đạo, các quy chế, quy định, hướng
dẫn của Trung ương, của Tỉnh về công tác cán bộ, bổ nhiệm cán bộ được quán
triệt và thực hiện nghiêm túc. Trong quá trình bổ nhiệm cán bộ, bước đầu đã
thực hiện dân chủ, công khai, chú trọng thực hiện đúng quy trình trước khi
quyết định đề bạt, bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ, nhất là cán bộ diện Ban
Thường vụ Huyện uỷ quản lý. Từ đó đã góp phần xây dựng được một đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý đồng đều, có trình độ, năng lực cơ bản đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Bên cạnh những ưu điểm cơ bản đó, cơng tác cán bộ nói chung, bổ
nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ nói riêng cịn bộc lộ những hạn chế, yếu kém.
Nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong cơng tác cán bộ có
lúc, có nơi chưa nghiêm túc, sâu sắc; thực hiện các quy trình, quy chế, quy
định vẫn cịn tình trạng bị bỏ sót. Việc đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ
nhiều khi còn chủ quan, chưa thật công tâm, chưa hợp lý, thiếu dân chủ hoặc
dân chủ hình thức; có nhiều trường hợp bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý
còn nặng nề về cơ cấu, lúng túng, bị động, có biểu hiện cục bộ, bản vị, hẹp
3
hịi, định kiến trong bổ nhiệm cán bộ. Có lúc, có nơi bổ nhiệm sai người, sai
việc, khơng phát huy được sở trường, năng lực cán bộ, dẫn đến công việc trì
trệ; có trường hợp cán bộ vi phạm kỷ luật nhưng khơng kịp thời thay thế.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện tại của huyện mặc dù đảm
đương được nhiệm vụ, nhưng so với yêu cầu, nhiệm vụ trước tình hình cách
mạng mới hiện nay là chưa đáp ứng.
Vì vậy, việc nhận thức đúng và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập
trung dân chủ trong cơng tác cán bộ nói chung và trong bổ nhiệm cán bộ diện
Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang quản lý giai đoạn
hiện nay là vấn đề cấp thiết; với kiến thức đã được học và qua nghiên cứu
thực tế, tôi chọn đề tài “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ
nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang
quản lý giai đoạn hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ, với hy vọng góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác cán bộ nói chung, cơng tác bổ nhiệm
cán bộ của Huyện uỷ Vĩnh Thuận trong giai đoạn mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về nguyên tắc tập trung
dân chủ trong sinh hoạt, hoạt động lãnh đạo của Đảng nói chung và thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ ở nhiều góc độ khác nhau.
Có thể nêu lên một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài như:
- TS. Nguyễn Tiến Phồn: Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và
thực tiễn, Nxb khoa học xã hội, Hà nội, 2001.
- TS. Phạm Hồng Chương: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nxb Lý
luận Chính trị, Hà Nội, 2004.
- PGS, TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS, TS. Trần Xuân Sầm (đồng chủ
biên): Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003.
4
- PGS, TS. Trương Thị Thông và TS. Lê Kim Việt (đồng chủ biên):
Bệnh quan liêu trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải
pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008.
- Đề tài khoa học cấp bộ năm 1999: Bảo đảm và phát huy dân chủ
trong chế độ một Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, PGS, TS. Mạch Quang
Thắng làm chủ nhiệm, Hà Nội, 2000.
- Nguyễn Văn Biều: Nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Luận án phó tiến sĩ khoa học
lịch sử, Hà Nội, 1994.
- Phạm Văn Thắng: Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ
chức và hoạt động của Đảng bộ Quân đội hiện nay. Luận án phó tiến sĩ khoa
học lịch sử, Hà Nội, 1994.
- Nguyễn Thái Sơn: Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước. Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội, 2002.
- Lê Thu Hà: Công tác đào, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở Quãng Nam Đà Nẵng. Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội, 1993.
- Vũ Ngọc Thanh: Những giải pháp chủ yếu để đánh giá, lựa chọn, bố trí
cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Luận văn chuẩn hoá trình độ thạc sĩ, Hà Nội, 1995.
- Nguyễn Hồng Tân: Xây dựng đội ngũ cán lãnh đạo chủ chốt cấp
quận ở Thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố. Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội, 2000.
- Trần Văn Thuận: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp quận của
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2005.
- Nguyễn Thị Lan: Cơng tác quy hoạch tạo nguồn cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh - thực trạng và giải pháp. Luận văn thạc sĩ
khoa học chính trị, Hà Nội, 2005.
5
- Nguyễn Quang Huy: Xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ quận uỷ Tây Hồ, Thành phố Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện
nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2006.
- Tăng Nghĩa: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị
cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, Hà Nội, 2006.
- Nguyễn Thị Thắng: Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
quận, huyện thuộc diện Ban Thường vụ thành uỷ Hà Nội quản lý trong giai
đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2006.
- Nguyễn Văn Năng: Luân chuyển cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
Bắc Giang quản lý giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị,
Hà Nội, 2006.
- Trương Thị Bạch Yến: Chuẩn hoá đội ngũ cấp uỷ viên quận, huyện
của Thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, Hà Nội, 2006.
- Thu Thuỷ - Anh Dũng: Để nâng cao chất lượng cán bộ ngành Tổ
chức xây dựng Đảng, Tạp chí xây dựng Đảng, số 10, 2006 (trang 8-10, 18).
- Nguyễn Đức Hạt: Tiếp tục đổi mới cơng tác cán bộ, Tạp chí cộng sản,
số 776, tháng 6-2007 (trang 36-38).
- Bùi Đức Lại: Trách nhiệm người đứng đầu trong cơng tác cán bộ, Tạp
chí xây dựng Đảng, số 6, 2007 (trang 36-38).
- Trần Minh Tuấn: Về thí điểm bổ nhiệm, đề bạt cán bộ sau khi cán bộ
trình đề án, Tạp chí xây dựng Đảng, số 7, 2007 (trang 48-49).
- Nguyễn Thế Tư: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng cán bộ, Tạp chí
xây dựng Đảng, số 10, 2007 (trang 2-3).
- Hồ Đức Việt: Quán triệt sâu sắc, thực hiện đúng, thống nhất các quy chế,
quy định về cơng tác cán bộ, Tạp chí xây dựng Đảng, số 10, 2007 (trang 6-11).
- Nông Đức Mạnh: Đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ công tác tổ
chức xây dựng Đảng, Tạp chí xây dựng Đảng, số 11, 2007 (trang 3-8).
6
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đều đề cập đến nhiều góc
độ khác nhau về cơng tác cán bộ, trong đó có vấn đề thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ. Trong các cơng trình nghiên cứu đó, có
một số cơng trình cũng đã tập trung đề cập đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán
bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý. Tuy nhiên, đến nay chưa có
một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu có tính hệ thống dưới góc độ một luận
văn khoa học về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán
bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang quản lý giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát đánh giá đúng thực trạng việc
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ, luận văn đề
xuất những phương hướng, giải pháp nhằm góp phần thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ
Huyện uỷ Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang quản lý giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý.
+ Phân tích những ưu điểm và hạn chế trong thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh
Thuận, tỉnh Kiên Giang quản lý trong thời gian qua; tìm nguyên nhân những
ưu điểm, hạn chế của thực trạng trên và rút ra những kinh nghiệm bước đầu.
+ Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường
vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang quản lý trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: là việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên
Giang quản lý.
7
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn chỉ tập trung nghiên cứu việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ trên địa bàn huyện Vĩnh
Thuận, tỉnh Kiên Giang từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng về nguyên tắc
tập trung dân chủ nói chung, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
cơng tác cán bộ, bổ nhiệm cán bộ nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn vận dụng tổng hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học, chủ yếu là phương pháp khảo sát thực
tiễn, kết hợp với phân tích - tổng hợp, lơ gíc - lịch sử, quy nạp - diễn dịch,
thống kê…
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh
Thuận, tỉnh Kiên Giang quản lý.
- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm góp một phần vào việc thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ
Huyện uỷ Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang quản lý giai đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ
đảng, cơ quan tổ chức - cán bộ trong việc nâng cao chất lượng công tác bổ
nhiệm cán bộ giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn được kết cấu gồm 2 chương, 5 tiết.
8
Chương 1
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
TRONG BỔ NHIỆM CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN UỶ
VĨNH THUẬN, TỈNH KIÊN GIANG QUẢN LÝ - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CÁN BỘ VÀ BỔ NHIỆM CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ
HUYỆN UỶ VĨNH THUẬN, TỈNH KIÊN GIANG QUẢN LÝ – QUAN NIỆM,
VỊ TRÍ, VAI TRỊ
1.1.1. Ban Thường vụ Huyện uỷ và cán bộ diện Ban Thường vụ
Huyện uỷ Vĩnh Thuận quản lý
1.1.1.1. Quan niệm về Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận
Theo khoản 2, điều 9, chương II Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
(khoá X) ghi rõ: “Giữa hai nhiệm kỳ Đại hội, cơ quan lãnh đạo Đảng là Ban
Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là Ban Chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt
là cấp uỷ)” [23, tr.17]. Cấp uỷ là tên gọi tắt dùng để chỉ tập thể Ban Chấp
hành đảng bộ, chi bộ được Đại hội đảng bộ, chi bộ bầu ra, có vai trị là cơ
quan lãnh đạo cao nhất của đảng bộ, chi bộ đó giữa hai kỳ Đại hội. Đại hội
đại biểu, hoặc đại hội đảng viên của đảng bộ, chi bộ (phụ thuộc vào số lượng
đảng viên theo quy định) thảo luận, biểu quyết nhiều nội dung tại Đại hội,
trong đó có bầu cấp uỷ. Trong khoản 1, điều 19 của Điều lệ Đảng ghi: “Cấp
uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh uỷ, thành uỷ), cấp uỷ
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện uỷ, quận uỷ,
thị uỷ, thành uỷ) lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết,
chỉ thị của cấp trên” [23, tr.32] và điều 20 Điều lệ Đảng ghi tiếp: “Hội nghị
tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ bầu ban thường vụ; bầu bí thư và
phó bí thư trong số uỷ viên thường vụ” và “Ban Thường vụ lãnh đạo và kiểm
tra việc thực hiện nghị quyết của đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp
uỷ cùng cấp và cấp trên; quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức, cán
bộ” [23, tr.33]. Như vậy, theo Điều lệ Đảng, Ban Thường vụ vừa là cơ quan
9
lãnh đạo, vừa tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được Ban Chấp hành giao; là cơ
quan thường trực để giải quyết các công việc giữa 2 kỳ đại hội. Tuỳ theo phân
cấp quản lý cán bộ, Ban Thường vụ thay mặt cấp uỷ để thực hiện công tác cán
bộ của toàn đảng bộ.
Căn cứ quy định của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội đại
biểu Đảng bộ huyện Vĩnh Thuận lần thứ IX (nhiệm kỳ 2005 – 2010), đã bầu
ra Ban Chấp hành đảng bộ gồm 25 đồng chí là những người ưu tú và được sự
tín nhiệm cao của Đảng bộ. Ban Chấp hành đảng bộ bầu ra Ban Thường vụ
Huyện uỷ gồm 10 đồng chí từ những uỷ viên Ban Chấp hành Huyện uỷ và
bầu 01 Bí thư, 02 Phó bí thư trong số uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ. Ban
Thường vụ Huyện uỷ là những đồng chí tiêu biểu nhất, có đầy đủ phẩm chất
chính trị, có trình độ, năng lực, đạo đức lối sống và được sự tín nhiệm cao của
Đảng bộ nói chung và của Ban Chấp hành Huyện uỷ nói riêng.
Về trách nhiệm, quyền hạn của Ban Thường vụ Huyện uỷ được quy
định rõ trong Quy chế làm việc của Ban Chấp hành đảng bộ huyện (khoá IX)
như sau:
1. Căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Tỉnh uỷ,
nghị quyết Đại hội Đảng bộ, Ban Thường vụ có trách nhiệm nghiên
cứu, cụ thể hoá, đề xuất các biện pháp thực hiện để đưa ra Ban
Chấp hành thảo luận quyết định.
2. Giữa hai kỳ hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường
vụ có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo điều hành thực hiện và kiểm
tra, sơ, tổng kết việc thực hiện chủ trương, nghị quyết, chương
trình, kế hoạch chỉ đạo của Ban Chấp hành. Tuỳ tình hình và yêu
cầu cụ thể, Ban Thường vụ Huyện uỷ ban hành chỉ thị, thông tri,
quyết định, kết luận, hướng dẫn, công văn để chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ theo quyền hạn của mình.
3. Chuẩn bị nội dung và triệu tập các cuộc họp Ban Chấp hành.
Lãnh đạo chuẩn bị các đề án, chương trình, kế hoạch chỉ đạo thực
10
hiện có tính chất chun đề để đưa ra Ban Chấp hành thảo luận,
quyết định.
4. Quyết định các vấn đề về công tác cán bộ theo quyết định
phân cấp quản lý cán bộ của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, đảm bảo quy
trình, ngun tắc cơng tác cán bộ.
5. Chuẩn y kết quả bầu cử cấp uỷ, Uỷ ban Kiểm tra, Chủ
nhiệm, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra cơ sở đảng trực thuộc.
6. Xây dựng đề án, kế hoạch thực hiện nghị quyết, quyết định,
hướng dẫn của Trung ương và tỉnh về lập mới, sáp nhập, chia tách
tổ chức cơ sở đảng xã, ấp, ngành, đoàn thể cấp huyện; cho ý kiến
lãnh đạo kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan chính quyền, Mặt trận,
các đồn thể quần chúng nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội.
7. Thay mặt Ban Chấp hành báo cáo kết quả tình hình hoạt
động của Đảng bộ lên cấp trên và thơng tin tình hình cho các đồng
chí Huyện uỷ viên, các chi, đảng bộ trực thuộc; nêu những vấn đề
cần thiết để các cấp uỷ, cán bộ đảng viên và nhân dân trong huyện
nghiên cứu, thảo luận đóng góp ý kiến [4, tr.1-2].
Như vậy, theo quy chế làm việc thì trách nhiệm và quyền hạn của Ban
Thường vụ Huyện uỷ rất cao, đó là thay mặt Ban Chấp hành Huyện uỷ dự
thảo các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, tổ chức hội nghị Ban Chấp
hành Huyện uỷ để thảo luận và quyết định. Trên cơ sở văn bản lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp uỷ cấp trên và chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành
động, kế hoạch chung của Ban Chấp hành Huyện uỷ, Ban Thường vụ Huyện
uỷ theo trách nhiệm, quyền hạn của mình, được tổ chức theo nguyên tắc tập
trung dân chủ của Đảng, tức tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Mà lãnh đạo,
chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ và kiểm tra, sơ kết, tổng kết
quá trình thực hiện nhiệm vụ đó của cấp uỷ, nhằm thực hiện đạt được các mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định chính trị, văn hố, xã hội, giữ vững
quốc phịng, an ninh và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh… Trong các
nhiệm vụ đó có nhiệm vụ về cơng tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất
11
là cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện và cơ sở đáp đứng yêu cầu nhiệm vụ
chính trị đặt ra.
1.1.1.2. Quan niệm về cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh
Thuận quản lý
Cho đến nay vấn đề cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt
và cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý đang là vấn đề thực
tiễn đặt ra. Ở đây cần làm rõ một số khái niệm cơ bản về cán bộ và cán bộ
diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý.
* Khái niệm cán bộ:
Trong Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1993 thì cán bộ có 2 nghĩa: “1)
Người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan Nhà nước; 2)
người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với
người thường khơng có chức vụ” [26, tr.315].
Trong Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản năm
1999, cán bộ có nghĩa như sau:
Thứ nhất, cán bộ bao gồm những người làm cơng tác có nghiệp vụ
chuyên môn trong cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị, để phân biệt
với người khơng phải là công chức, viên chức nhà nước.
Thứ hai, là người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức và của cả hệ thống chính trị. Đây chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý, những người có chức vụ, phân biệt với người khơng có chức vụ. Bộ phận cán
bộ này được hình thành thơng qua việc bầu cử dân chủ hoặc đề bạt, bổ nhiệm.
Trong cuốn Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố do PGS,TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS,TS. Trần Xuân Sầm chủ biên quan
niệm rằng: “Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trị và
cương vị nịng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động
của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành góp
phần định hướng sự phát triển của tổ chức” [45, tr.18].
12
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cán
bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [37, tr.269].
Qua các khái niệm nêu trên, trong luận văn này quan niệm, cán bộ là
những người lãnh đạo, quản lý hoặc nhà chuyên môn, nhà khoa học hay công
chức, viên chức làm việc, hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước hoặc
từ các nguồn khác, họ được hình thành từ bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, đề
bạt và phân công.
Trong khái niệm cán bộ, cần phân biệt một số loại cán bộ:
Cán bộ lãnh đạo, theo Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xơ (trước
đây) có 2 nghĩa: thứ nhất, cán bộ lãnh đạo là chỉ người đứng đầu của một tổ
chức, một phong trào; thứ hai, cán bộ lãnh đạo là người làm thức tỉnh hành vi
của người khác.
Cán bộ quản lý, cũng là người đứng đầu một tổ chức, nhưng nhấn
mạnh việc điều hành hoạt động của tổ chức, việc sử dụng công cụ, phương
tiện để điều khiển một loại hoạt động nào đó.
Như vậy, cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý có những điểm giống nhau.
Người cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện một số chức năng quản lý và
người cán bộ quản lý cũng phải thực hiện một số chức năng lãnh đạo.
Sự khác nhau giữa cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý chỉ là tương đối;
nhưng ở nước ta việc phân biệt có ý nghĩa để tránh sự chồng chéo, trùng lặp
nhau giữa người cán bộ lãnh đạo và người cán bộ quản lý.
Cán bộ chủ chốt: theo Từ điển Tiếng việt, xuất bản năm 1993, "chủ
chốt" có nghĩa là quan trọng nhất, có tác dụng làm nịng cốt; cán bộ chủ chốt
của phong trào. Như vậy, cán bộ chủ chốt là người đứng đầu quan trọng nhất,
có tác dụng chi phối chính tồn bộ hoạt động của một tổ chức; là người chịu
trách nhiệm trước tập thể và cấp trên về hoạt động của tổ chức; là người đại
diện cho tổ chức.
* Cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận quản lý:
13
Thực hiện Quyết định số 1582-QĐ/HU ngày 29/11/2007 của Ban
Thường vụ Huyện uỷ về việc ban hành quy định phân cấp quản lý cán bộ;
Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận trực tiếp quản lý, quyết định các chức
danh cán bộ sau:
- Uỷ viên Ban Thường vụ (trừ Bí thư, Phó bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Hội
đồng Nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện), Uỷ viên Ban Chấp hành
đảng bộ huyện; Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm, Uỷ viên Uỷ ban kiểm tra Huyện uỷ;
Trưởng, phó các Ban đảng, Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng
chính trị huyện (đối với các chức danh Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ trước
khi quyết định phải báo cáo và được sự thống nhất của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ).
- Uỷ viên Thường trực, Phó chủ tịch, Trưởng phó các ban Hội đồng
Nhân dân và Phó chủ tịch Uỷ ban Nhân dân, Trưởng, phó phịng và tương
đương thuộc Uỷ ban Nhân dân huyện (đối với các chức danh Phó chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Phó chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện phải báo cáo xin ý kiến
Ban Chấp hành đảng bộ huyện trước khi quyết định).
- Chủ tịch, Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Liên đồn Lao động, Hội
Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Liên hiệp thanh niên, Hội Cựu chiến
binh, Hội Chữ thập đỏ huyện; Bí thư, Phó bí thư Huyện đồn; Giám đốc Nhà
Thiếu nhi huyện.
- Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Chủ tịch
Uỷ ban Nhân dân xã, thị trấn.
- Chuẩn y kết quả bầu cử hoặc chỉ định cấp uỷ, các chức danh cấp uỷ,
Uỷ ban kiểm tra, các chức danh Uỷ ban kiểm tra đối với các tổ chức cơ sở
đảng trực thuộc.
- Tham gia ý kiến với ban cán sự đảng, đảng đoàn và lãnh đạo các sở,
ngành tỉnh về bố trí, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ
luật, nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh đạo (Trưởng, Phó cơ quan Toà án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, Ngân hàng, Kho bạc, Chi cục thuế, Bệnh viện đa
khoa, Trung tâm y tế dự phịng, Trường phổ thơng trung học, Bưu điện.v.v.)
14
của ngành dọc đang công tác và sinh hoạt tại huyện. Tham gia ý kiến với
Đảng uỷ Quân sự tỉnh, Đảng uỷ Công an tỉnh về nhân sự Chỉ huy trưởng,
Chính trị viên, Phó chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Qn sự huyện và Trưởng
cơng an, Phó trưởng cơng an huyện.
Như vậy, cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên
Giang quản lý trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý của huyện, những người
đứng đầu quan trọng nhất trong hệ thống chính trị cấp huyện (trừ Bí thư, Phó
bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân
huyện), những người đứng đầu bộ máy Đảng, chính quyền cấp xã; chịu trách
nhiệm tổ chức thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị, điều hành cơng tác,
lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, cơng chức thuộc quyền quản lý thực hiện hồn
thành các nhiệm vụ chính trị của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chung của Đảng bộ huyện. Cán bộ diện Ban
Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận quản lý là những người được Ban Thường
vụ Huyện uỷ trực tiếp quyết định đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu bầu cử, bố trí,
sắp xếp, điều chuyển, thi hành kỷ luật và thực hiện các chính sách khác.
Những cán bộ này, Ban Thường vụ còn trực tiếp thực hiện và chỉ đạo thực
hiện chức năng kiểm tra, giám sát, quản lý, theo dõi, nắm tình hình.
1.1.1.3. Vai trò đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh
Thuận quản lý
Lịch sử đấu tranh giai cấp, nếu chính quyền được coi là vấn đề cơ bản
của mọi cuộc cách mạng, thì vấn đề cán bộ ở mọi thời kỳ luôn được các nhà
lãnh đạo quan tâm hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng. Cho nên trong bất kỳ
giai đoạn nào, thời điểm nào của sự nghiệp cách mạng, cán bộ và công tác cán
bộ cũng giữ vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng. Cán bộ là nhân tố cơ bản, quyết
định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, quyết định việc nâng cao năng
lực và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh.
Theo C.Mác: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn” [35, tr.181]. Kế thừa xuất sắc những tư tưởng của
Mác-Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp
nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ
15
của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng
tổ chức và lãnh đạo phong trào” [28, tr.473].
Vị trí, vai trị của cán bộ được V.I.Lênin khẳng định nhiều lần, có thể qua
những lời động viên khen ngợi hoặc qua những lần triển khai nhiệm vụ của
Đảng, của chính quyền, hoặc qua lời giáo huấn của mình, Người cho rằng:
Từ chỗ ra quyết nghị chung, từ chỗ ra những chỉ thị chung đến
việc biến những chỉ thị và quyết nghị đó trên thực tiễn thành hiện
thực thì thật xa biết bao; như thế có nghĩa là đó là một gánh nặng rất
lớn mà các cán bộ phải gánh vác để thực hành một cách có kết quả
những chỉ thị nguyên tắc đó, sao cho những chỉ thị ấy không phải
chỉ được ghi trên giấy tờ [33, tr.423].
Khi đã giành được chính quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, V.I.Lênin lại khẳng định: “Nghiên cứu con người, tìm những cán
bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu khơng thế thì tất cả mọi mệnh
lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [34, tr.449].
Hồ Chí Minh với tư cách là người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng
ta, Người rất xem trọng vai trò của cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc” [37, tr.269] và “Công việc thành công hoặc thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém” [37, tr.273].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam ln lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của mình. Đảng ta ln ý thức hết sức rõ về vai trò, tầm
quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương khoá VIII xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [22, tr.66]. Kinh
nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ, mức độ đúng đắn của đường lối và việc cụ thể hố
đường lối chính xác, kịp thời cũng như việc thực hiện đường lối, chính sách
thắng lợi đều tuỳ thuộc ở chất lượng đội ngũ cán bộ. Hơn thế, đối với cán bộ
16
lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị có vai trị và tầm
ảnh hưởng là lớn hơn hết. Vì vậy, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng nhấn mạnh: “Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức
các cấp, các ngành của hệ thống chính trị” [24, tr.293].
Đối với vai trò của đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh
Thuận quản lý trước hết xuất phát từ vai trị, tầm quan trọng của đội ngũ cán
bộ nói chung.
Đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận quản lý là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của huyện, gồm các đồng chí là Trưởng, Phó
các Ban, ngành, đồn thể, chính trị-xã hội cấp huyện và các đồng chí đứng
đầu chủ chốt cấp xã, thị trấn, cho nên đội ngũ này có vai trị đặc biệt quan
trọng đối với cấp huyện và cơ sở.
- Một là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý là
những người trực tiếp quán triệt, cụ thể hoá việc tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối, nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng
thời chấp hành thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các tổ chức trong hệ
thống chính trị cấp trên cho phù hợp với tình hình của địa phương và cơ sở. Đây
còn là lực lượng giữ vai trò nòng cốt, quyết định trong việc đề ra nhiệm vụ và
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ huyện và cơ sở.
- Hai là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý có vai
trị nịng cốt trong việc xây dựng hệ thống chính trị của huyện và cơ sở vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn.
Đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý có trách nhiệm
cao nhất, trực tiếp xây dựng, quản lý và điều hành hoạt động của các tổ chức
thuộc phạm vi mình lãnh đạo, quản lý. Các tổ chức đảng, chính quyền, đồn
thể chính trị-xã hội trong huyện có vững mạnh hay không phụ thuộc chủ yếu
vào phẩm chất, phong cách làm việc và năng lực lãnh đạo, tổ chức, điều hành
của những người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Họ là người đóng vai trị quyết
17
định trong việc kiện toàn tổ chức, định ra chương trình, kế hoạch hoạt động
của tổ chức và tổ chức thực hiện thắng lợi các kế hoạch và chương trình đó.
Đối với các tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị huyện và cơ sở, thì
cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý là những người đóng vai trị trụ
cột, là linh hồn, là trung tâm đồn kết, tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng. Họ
tác động, quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp uỷ, năng
lực quản lý, điều hành của chính quyền và các phong trào hành động cách mạng
của các tổ chức đồn thể chính trị-xã hội của huyện và cơ sở. Hệ thống chính trị
của huyện và cơ sở có vững mạnh, hoạt động có hiệu quả hay không trước hết
phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý.
- Ba là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý có vai
trị hàng đầu trong việc xây dựng và giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong nội
bộ Đảng và trong nhân dân.
Đây là lực lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện và là cán bộ chủ
chốt cơ sở; nếu như đội ngũ cán bộ này chấp hành tốt mọi nguyên tắc của
Đảng, pháp luật Nhà nước, gương mẫu trong mọi hoạt động, công tác, sinh
hoạt ở địa phương, cơ sở sẽ là tấm gương cho mọi cán bộ, công chức và quần
chúng nhân dân noi theo. Hơn thế, yêu cầu của sự nghiệp cách mạng mới, đòi
hỏi đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý phải có đầy đủ
phẩm chất chính trị, năng lực công tác, phong cách làm việc dân chủ, hết lịng
vì dân, vì nước và phải là trung tâm đồn kết nội bộ, giữ gìn sự đồn kết
thống nhất trong Đảng mới tạo được sự đồng thuận, phát huy mọi nguồn lực
trong nhân dân.
- Bốn là, đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý còn là
nguồn để bổ sung vào các chức danh chủ chốt của huyện và của các cơ quan,
ban, ngành cấp tỉnh. Bởi vì, cán bộ có trưởng thành, phát triển, nâng cao năng
lực tồn diện được hay khơng phụ thuộc rất lớn từ sự được giáo dục, rèn
luyện, thử thách qua phong trào hành động cách mạng ở địa phương, cơ sở.
Từ sự lớn mạnh của tổ chức, của phong trào ở huyện và cơ sở là căn cứ để
18
chọn lựa nguồn cán bộ, nhất là cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý
để cung cấp, bổ sung nguồn cán bộ chủ chốt kế cận của huyện và cho các tổ
chức hệ thống chính trị cấp trên. Muốn vậy cấp uỷ huyện, nhất là Ban Thường
vụ Huyện uỷ phải làm tốt cơng tác cán bộ, để có được một đội ngũ cán bộ
chất lượng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng của địa phương và của tỉnh.
1.1.2. Bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận
quản lý
1.1.2.1. Quan niệm về bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện
uỷ Vĩnh Thuận quản lý
Bổ nhiệm thực chất là một từ ghép Hán-Việt giữa từ “Bổ” và từ
“Nhiệm”; “Bổ” nghĩa là bù vào chỗ thiếu, chỗ khuyết, sung người vào cơng
việc gì đó hoặc chia cho mọi người đóng góp, cịn “Nhiệm” là uỷ việc gì: uỷ
nhiệm, đảm nhiệm, nhiệm chức. Theo Từ điển Tiếng Việt thơng dụng do Nhà
xuất bản Thanh Hố ấn hành tháng 6/1998 thì “Bổ nhiệm là cử giữ một chức
vụ trong bộ máy Nhà nước” [42, tr.97]. Như vậy, bổ nhiệm cán bộ được hiểu
là việc cử cán bộ đảm nhận, đảm nhiệm chức vụ nào đó (hoặc uỷ thác cơng
việc, chức vụ đó cho cán bộ đảm nhiệm) trong một tổ chức, cơ quan, đơn vị
nhất định.
Khái niệm bổ nhiệm cán bộ tuy chưa được các nhà kinh điển đề cập
một cách hoàn chỉnh, cụ thể; nhưng những quan điểm, tư tưởng của các ông
về bổ nhiệm cán bộ là khá tồn diện, sâu sắc và cịn ngun giá trị, đặc biệt là
trong bố trí, sử dụng cán bộ. Theo quan điểm của V.I.Lênin, công tác cán bộ
cần phải bố trí, sử dụng đúng năng lực của từng cán bộ, phù hợp với vị trí,
tính chất của từng cơng việc, nhiệm vụ, nhất là những cán bộ giữ cương vị
lãnh đạo chủ chốt của Đảng Cộng sản (b) Nga và Chính quyền Xơ Viết. Với
kinh nghiệm, tính nhạy cảm chính trị sâu sắc của mình, V.I.Lênin hiểu rất rõ
trình độ, năng lực và phẩm chất của những cán bộ do mình đào tạo, bồi
dưỡng; vì vậy trong lựa chọn, bố trí cán bộ Người chỉ rõ:
19
Chú ý tìm cho ra và thử thách một cách hết sức nhẫn nại, hết
sức thận trọng những người thật sự có tài tổ chức, những người có
bộ óc sáng suốt và có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những người
vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội lại vừa có năng lực lặng lẽ
(bất chấp sự hỗn loạn và ồn ào)… Chỉ có những người như thế,
chúng ta mới đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo lao động của nhân
dân, lên những chức vụ lãnh đạo, quản lý [31, tr.236-237].
Theo V.I.Lênin công việc như vậy lúc này là hệ trọng nếu không “tất cả
mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”. Người chỉ ra, chúng ta chỉ
lựa chọn cán bộ phụ trách và ở đây khơng thể có vấn đề khơng tín nhiệm đối với
một người nào đó đã khơng được bầu mà chỉ có vấn đề xem xét việc đó có lợi
cho sự nghiệp khơng và người được lựa chọn có xứng đáng với chức vụ mà
người ấy đảm nhiệm không. Ở đây V.I.Lênin muốn chỉ rõ yêu cầu, mục đích, ý
nghĩa của việc lựa chọn, đề bạt, sử dụng cán bộ trước hết phải từ cơng việc mà
tìm người thích ứng, đủ phẩm chất, năng lực đảm bảo cho công việc ấy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về dùng người, về sử dụng cán
bộ. Người nói: “phải khéo dùng cán bộ”, tức là đặt người đúng việc, vì việc
mà đặt người, chứ khơng phải vì người mà đặt việc. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và
giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì
gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, đều tuỳ chỗ mà dùng được” [37, tr.72]. Còn thậm chí
nếu người có tài mà khơng biết dùng tài của họ thì cũng khơng được việc.
Trong q trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh rất
xem trọng việc bố trí, sử dụng cán bộ và đòi hỏi cần phải thực hiện đảm bảo
những yêu cầu cụ thể sau: 1) Phải hiểu rõ và đánh giá đúng cán bộ, có như
vậy mới bố trí và sử dụng đúng, tránh được những thiếu sót, sai lầm, mới phát
huy được mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của cán bộ. 2) Phải khéo dùng cán bộ,
phải đặt đúng người, đúng việc, vì việc mà đặt người; khéo dùng cán bộ thể
hiện ở chỗ biết kết hợp các thế hệ, các loại cán bộ một cách đúng đắn; khi
20
dùng cán bộ phải hết sức khách quan, công tâm, chống tư tưởng địa phương
chủ nghĩa, “óc bè phái, óc hẹp hịi”. 3) Phải “có gan cất nhắc cán bộ”, tức
mạnh dạn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ vào các cương vị cần thiết để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ cách mạng đặt ra. 4) Phải thương yêu cán bộ và tích cực giúp
đỡ cán bộ sửa chữa khuyết điểm, chớ nên thành kiến, xa lánh những cán bộ có
thiếu sót, khuyết điểm. Đây là những quan điểm, chỉ dẫn hết sức độc đáo và
đúng đắn trong cách dùng người, bố trí, sử dụng cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta có nhiều chủ trương, quan điểm đúng đắn, sáng tạo về công tác
cán bộ, tiếp tục lãnh đạo thực hiện công tác cán bộ đúng hướng và tiến chắc.
Những yêu cầu, nội dung, nguyên tắc công tác cán bộ được Đảng ta quan tâm
xây dựng và ban hành thành hệ thống khá hồn chỉnh, trong đó có vấn đề về
bổ nhiệm cán bộ. Về khái niệm bổ nhiệm cán bộ, Đảng ta cho rằng: “Bổ
nhiệm cán bộ, là quyết định cử cán bộ giữ một chức vụ lãnh đạo trong bộ máy
tổ chức, thực chất là giao trách nhiệm quyền hạn cho cán bộ lãnh đạo một
ban, một bộ, một ngành, một cơ quan, đơn vị… Đây là khâu quyết định trong
công tác cán bộ” [27, tr.26].
Khái niệm nêu trên chỉ rõ ba đặc trưng quan trọng của khâu bổ nhiệm
cán bộ:
- Thứ nhất, bổ nhiệm là quyết định cử cán bộ giữ một chức vụ lãnh đạo,
quản lý trong cơ cấu tổ chức. Trong một cơ cấu tổ chức có nhiều chức danh
cần sử dụng cán bộ, những cán bộ được bổ nhiệm có nghĩa là được cất nhắc
từ vị trí người bị lãnh đạo, bị quản lý lên vị trí của người lãnh đạo, quản lý
hoặc từ vị trí người lãnh đạo, quản lý cấp thấp lên vị trí người lãnh đạo, quản
lý cấp cao hơn. Chính vì vậy, việc bổ nhiệm cán bộ ln là một động lực tích
cực khuyến khích cán bộ phấn đấu vươn lên.
- Thứ hai, những cán bộ được bổ nhiệm lên vị trí mới được trao trách
nhiệm và quyền hạn tương xứng. Bổ nhiệm cán bộ là quyết định trao cho cán
bộ đó một quyền hạn mới, cao hơn cương vị cơng tác hiện tại, đồng thời địi
21
hỏi cán bộ đó phải phát huy trách nhiệm cá nhân tương xứng với quyền hạn
được trao.
- Thứ ba, bổ nhiệm cán bộ giữ vai trị quan trọng có ý nghĩa quyết định
trong công tác cán bộ. Đây là cái đích của quản lý cán bộ, là cơng việc mang
tính khoa học về tổ chức, độ chính xác của việc bổ nhiệm cán bộ thể hiện chất
lượng, hiệu quả của công tác quản lý. Bổ nhiệm sai cán bộ sẽ làm cho tổ chức
trì trệ, rối loạn, nhiệm vụ bê trễ khó hồn thành.
- Những trường hợp cần bổ nhiệm cán bộ:
+ Khi có sự thay đổi tổ chức hoặc thay đổi các chức danh lãnh đạo,
quản lý trong tổ chức.
+ Những chức danh lãnh đạo, quản lý còn thiếu cần bổ nhiệm cho đủ.
+ Thực hiện quy hoạch sắp xếp cán bộ chủ trì, bảo đảm cho đội ngũ
phát triển liên tục, kế tiếp nhau theo hướng dự định.
+ Rà xét, phát hiện những cán bộ được sử dụng không phù hợp cần
điều chỉnh.
Gần đây, theo quy chế kèm theo quyết định số 68-QĐ/TW ngày
04/7/2007 của Bộ Chính trị (khố X) thì: bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán
bộ ứng cử (gọi chung là bổ nhiệm cán bộ), tức là cấp uỷ có thẩm quyền quyết
định cử cán bộ (bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử) vào các vị trí lãnh đạo, quản lý
của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Từ những tư tưởng, quan điểm, khái niệm nêu trên có thể hiểu bổ
nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận quản lý là việc tập
thể Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận quyết định cử cán bộ giữ các chức
vụ lãnh đạo, quản lý của các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp huyện và
chức danh chủ chốt cấp xã, thị trấn thuộc phạm vi phân cấp, nhằm mục đích
quản lý, sử dụng cán bộ có hiệu quả, đảm bảo việc thực hiện tốt các nhiệm vụ
chính trị của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị chung của tồn Đảng bộ huyện.
Qua khái niệm cho thấy:
22
- Chủ thể quyết định bổ nhiệm cán bộ là Ban Thường vụ Huyện uỷ.
Bên cạnh đó, cịn các tổ chức và cá nhân liên quan tham gia vào quá trình
thực hiện cơng tác bổ nhiệm cán bộ như: cơ quan tham mưu, người đứng đầu
và các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị huyện và cơ sở.
- Đối tượng xem xét bổ nhiệm là cán bộ có đủ phẩm chất chính trị, trình
độ, năng lực, có uy tín, sự tín nhiệm cao và phải đủ tiêu chuẩn.
- Vị trí được bổ nhiệm là những chức danh lãnh đạo, quản lý cần bổ
nhiệm trong các tổ chức của hệ thống chính trị huyện và cơ sở thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện uỷ quản lý theo phân cấp quản lý cán bộ.
- Yêu cầu phải bổ nhiệm đúng người, đúng việc, đáp ứng yêu cầu lãnh
đạo, quản lý, điều hành, tập hợp lực lượng, tổ chức thực hiện hoàn thành tốt
nhiệm vụ của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị đề ra và góp phần thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chung của tồn Đảng bộ.
1.1.2.2. Ngun tắc, qui trình, thủ tục bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán
bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận quản lý
Nguyên tắc, quy trình, thủ tục bổ nhiệm cán bộ phải thực hiện theo
đúng quan điểm, chủ trương, nghị quyết, điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước,
Điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội; đặc biệt là Quyết định số 68 của Bộ
Chính trị (khố X) và Quyết định số 2220 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Kiên
Giang (khoá VIII) về ban hành quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ
ứng cử. Trên cơ sở đó Ban Thường vụ Huyện uỷ thực hiện bổ nhiệm cán bộ
thuộc cấp mình quản lý phải đảm bảo nguyên tắc, quy trình, thủ tục sau:
* Về nguyên tắc chung.
Việc bổ nhiệm cán bộ phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Một là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, đi đôi với phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và các tổ
chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Đảng là người đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, tiêu chuẩn, quy
chế, quy định về công tác cán bộ và thông qua các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng
23
viên trong cả hệ thống chính trị để lãnh đạo, tổ chức thực hiện các quyết định
của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ.
Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các ngành, các cấp.
Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp uỷ và tổ chức
đảng, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các
ngành, các cấp.
Các tổ chức đảng theo phân cấp quản lý cán bộ, tiến hành bổ nhiệm, sử
dụng cán bộ cho hệ thống tổ chức của mình theo đúng quan điểm của Đảng,
theo đúng quy chế, quy định, tiêu chuẩn cán bộ do Đảng và Nhà nước quy định.
Hai là, cấp uỷ, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo cơ quan có thẩm
quyền xem xét, quyết định một cách dân chủ trên cơ sở phát huy đầy đủ trách
nhiệm và quyền hạn của từng thành viên, nhất là của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị, cơ sở.
Mọi vấn đề về công tác cán bộ phải do tập thể cấp uỷ và tổ chức đảng có
thẩm quyền (theo phân cấp quản lý) thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số.
Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm
phát hiện, đề xuất bổ nhiệm cán bộ và tổ chức thực hiện các quyết định của
tập thể về cán bộ trong lĩnh vực được phân công phụ trách.
Cá nhân đề xuất bổ nhiệm, cơ quan tham mưu thẩm định, tập thể cấp uỷ
đảng quyết định phải chịu trách nhiệm về đề xuất, thẩm định, quyết định của mình.
Ba là, phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, cơ sở,
phải căn cứ vào phẩm chất, đạo đức, năng lực và sở trường của cán bộ.
Phải xuất phát từ công việc, từ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức
và tiêu chuẩn từng chức danh, kết quả đánh giá cán bộ mà bổ nhiệm cán bộ
đúng chỗ, đúng lúc, đúng sở trường, thực hiện "vì việc đặt người", "có lên có
xuống", "có vào có ra". Tránh bổ nhiệm cán bộ vào vị trí mà bản thân cán bộ
chưa được học, chưa từng làm hoặc chưa am hiểu.
24
Nhất thiết không điều động những cán bộ bị kỷ luật, khơng hồn thành
nhiệm vụ ở đơn vị, cơ quan này sang nhận chức vụ tương đương hoặc cao hơn
ở nơi khác.
Ở những nơi trì trệ, yếu kém phải thay cán bộ chủ chốt. Mạnh dạn bổ
nhiệm cán bộ trẻ được rèn luyện, thử thách, được đào tạo và có đủ tiêu chuẩn
vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý thích hợp.
Bốn là, đảm bảo sự ổn định, kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ,
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan, đơn vị, cơ sở.
Cần đảm bảo tính đồng bộ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, hình
thành mối tương quan lực lượng đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài; trong
bổ nhiệm cán bộ cần chú ý đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát triển vững
chắc trong cả đội ngũ cán bộ; kết hợp hài hoà cán bộ lớn tuổi dày dạn kinh
nghiệm với cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản đã qua rèn luyện thực tiễn.
Trách nhiệm và thẩm quyền bổ nhiệm cán bộ:
- Người đứng đầu, các thành viên cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan,
đơn vị, cơ sở, đề xuất nhân sự và nhận xét, đánh giá cán bộ được đề xuất.
- Tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, cơ sở, thảo
luận, nhận xét, đánh giá cán bộ, quyết định hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền
quyết định bổ nhiệm cán bộ.
- Cá nhân, tập thể đề nghị bổ nhiệm cán bộ phải chịu trách nhiệm về đề
nghị của mình.
Thời hạn và điều kiện bổ nhiệm cán bộ:
- Thời hạn giữ chức vụ: Thời hạn mỗi nhiệm kỳ bổ nhiệm chức vụ là 5
năm đối với cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp trưởng, cấp phó ở cơ
quan, đơn vị trong bộ máy tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể, các đơn vị sự
nghiệp. Thời hạn dưới 5 năm mỗi nhiệm kỳ bổ nhiệm áp dụng đối với một số
chức vụ đặc thù theo quy định riêng.
- Điều kiện bổ nhiệm cán bộ:
25
Bảo đảm tiêu chuẩn của cán bộ được quy định tại Nghị quyết hội nghị
lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) và tiêu chuẩn cụ thể vào
các chức danh bổ nhiệm. Có hồ sơ, lý lịch cá nhân đầy đủ, rõ ràng; được cơ
quan chức năng có thẩm quyền xác minh.
Về tuổi bổ nhiệm cán bộ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý lần đầu nói
chung cần đủ tuổi để công tác được trọn một nhiệm kỳ. Có đủ sức khoẻ để
hồn thành nhiệm vụ được giao. Cán bộ bị kỷ luật từ khiển trách trở lên thì
khơng được bổ nhiệm vào các chức vụ cao hơn trong thời gian ít nhất một
năm, kể từ khi có quyết định kỷ luật.
* Quy trình, thủ tục bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ diện Ban Thường
vụ Huyện uỷ Vĩnh Thuận quản lý.
Căn cứ vào quy chế bổ nhiệm cán bộ do Bộ Chính trị quy định, trong
qúa trình bổ nhiệm cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý cần thực
hiện đảm bảo quy trình, thủ tục sau:
1) Tập thể cấp uỷ đảng và người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, đơn vị đề
xuất nhân sự dự kiến bổ nhiệm.
2) Tổ chức lấy ý kiến cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị và cấp
uỷ, quần chúng nhân dân nơi cư trú.
Căn cứ nhu cầu công tác và sự cần thiết bổ nhiệm cán bộ, lãnh đạo các
ban, ngành và cơ quan trực thuộc Huyện uỷ, Ban Thường vụ hoặc Ban Chấp
hành đảng bộ các xã, thị trấn, các cơ sở đảng trực thuộc (sau đây gọi là tập thể
lãnh đạo) thực hiện các bước sau:
Đối với nguồn nhân sự tại chỗ:
- Trên cơ sở nguồn cán bộ trong quy hoạch và nhận xét, đánh giá cán
bộ, tập thể lãnh đạo lựa chọn giới thiệu nhân sự bổ nhiệm, nhu cầu bổ nhiệm
một người có thể lựa chọn một người hoặc nhiều người.
- Tổ chức lấy ý kiến về nhân sự.
+ Thành phần tham gia lấy ý kiến: