Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghệ thuật xây dựng trong trà thất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.64 KB, 7 trang )

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TRONG TRÀ THẤT
Nguyễn Thị Hồng Ánh, Trương Minh Khôi, Bùi Trần Thủy Tiên,
Dương Nguyễn Ngọc Tuyền*
Viện Công Nghệ Việt – Nhật, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
GVHD: ThS. Phạm Huỳnh Anh Việt, CN. Tiết Thụy Tường Vy

TÓM TẮT
Trà đạo là tinh hoa trong văn hóa truyền thống của xứ sở hoa anh đào, nét đẹp của trà đạo không chỉ nằm ở
cách thưởng trà và các loại trà mà còn ở lối thiết kế tinh tế của trà thất. Trà thất là căn phòng dành riêng cho
việc thực hiện nghi thức trà đạo và thưởng trà. Căn phòng thường được trải bằng những tấm chiếu Tatami, màu
vàng nhạt của chiếu Tatami có chút gì đó đượm buồn, tạo ra bầu khơng khí lặng lẽ, yên ả cho trà thất. Có điều
đặc biệt về chiếu Tatami mà ít ai biết đến đó là Kamon – được in trên mép chiếu, mang ý nghĩa riêng của gia
tộc được truyền từ đời này sang đời khác. Giẫm lên Kamon được coi là hành vi cực kì thiếu tơn trọng gia chủ,
vì vậy nên cần đặc biệt lưu ý. Không gian bên trong của trà thất luôn dành cho Tokonoma một vị trí trang trọng.
Tokonoma thường được bày trí bởi Kakemono và lọ hoa cắm theo phong cách Chabana. Kakemono thường
được viết theo hai phong cách: quanh năm và theo mùa, thể hiện tâm tư tình cảm của gia chủ hoặc ý nghĩa của
mỗi mùa trong năm. Chabana được ví như “vật sống” bởi nó thay đổi theo mùa, cách cắm hoa đơn giản, mộc
mạc nhưng mang lại những hàm ý sâu xa. Trà thất được ví như mảnh đất phì nhiêu trên sa mạc hiu quạnh buồn
tẻ của cõi đời mà khách lữ hành có thể gặp gỡ nhau ở đó để cùng nhau giải khát trong nguồn suối chung của
lòng ham chuộng thưởng thức nghệ thuật.
Từ khóa: trà đạo, trà thất, văn hóa, tinh thần, thiền
1. BỐN NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA TRÀ ĐẠO
Hòa – Kính – Thanh – Tịnh (和 – 敬 – 清 – 寂) là bốn nguyên tắc cơ bản của trà đạo. “Hòa” nghĩa là hài hòa,
hòa hợp giữa trà nhân và trà thất, con người, thiên nhiên, các dụng cụ pha trà. Qua ngưỡng cửa trà thất với diện
tích bằng 4 tấm rưỡi chiếu Tatami, trà nhân có thể nói chuyện với mọi giai cấp một cách bình đẳng. “Kính” là
lịng kính trọng của trà nhân với mọi sự vật và con người, là sự tri ân và biết ơn cuộc sống. Khi lịng tơn kính
với vạn vật đạt tới sự khơng phân biệt thì tấm lịng trở nên thanh thản, n tĩnh, thể hiện sự thanh tịnh, đó chính
là ý nghĩa của chữ “Thanh”. Mắt ngắm tranh treo (Kakemono) trong hốc phòng (Tokonoma) hay hoa tươi trong
lọ (Chabana), mũi ngửi làn hương thơm, nghe tiếng nước sôi trong ấm, miệng nhấp từng ngụm trà, vậy là tất
cả giác quan trở nên trong sạch, tâm lúc đó sẽ thanh tịnh bởi ngũ quan khơng cịn bị ơ uế. “Tịnh” là kết quả mà
1365




trà nhân sẽ được nhận thấy cuối cùng, là khi tâm hoàn toàn an trú tại phút giây hiện tại, khơng cịn q khứ,
khơng cịn tương lai, khi lịng thanh thản và n tĩnh hồn tồn thì tồn bộ thế giới trở nên tĩnh lặng, con người
sẽ đạt tới một trạng thái cao về mặt tinh thần, một sự an lạc và hạnh phúc thực sự. Bốn nguyên tắc cơ bản này
hội tụ trong trà thất – nơi mà trà nhân thưởng thức trà và tìm thấy sự yên bình.
2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TRONG TRÀ THẤT
2.1 CHIẾU TATAMI (畳)
Tatami (畳) là một loại chiếu mỏng truyền thống của người Nhật được làm từ những sợi rơm khô đan và ép
chặt vào nhau có thể xếp lại được, dùng để trải sàn nhà. Tên của chiếu “Tatami” cũng có nguồn gốc từ động từ
“Tatamu” (畳む) với ý nghĩa là “gấp”, “xếp”, vì khi chiếu khơng được sử dụng sẽ được gấp lại và đặt ở góc
phịng. Khơng giống như các loại chiếu thông thường, chiếu Tatami gắn liền với quá trình hình thành các loại
hình nghệ thuật trà đạo. Kích thước tiêu chuẩn của chiếu là ngang 910mm, dài 1820mm, dày 55mm. Chiếu
Tatami khi được sử dụng trong trà thất sẽ được gọi bằng Jou (帖). Thơng thường, kích thước bên trong không
gian trà thất truyền thống được gọi là Kyouma (京間), thường được tính là 4 jou rưỡi, 6 jou hoặc 8 jou. Khi
tiếp khách tại phòng trà, gia chủ thường sẽ sử dụng chiếu Kyakudatami (客畳). Còn đối với những vị khách
quý, họ sẽ dùng loại chiếu Kijindatami (貴人畳).
Chiếu Tatami có ba phần: lõi chiếu, bao chiếu và mép chiếu. Phần lõi chiếu được nén lại thật chặt bằng rơm
khơ. Lớp bao chiếu bên ngồi được đan mỏng bằng các sợi cói từ một loại thực vật thân thảo có tên là cây Bấc
đèn hay Igusa (イグサ). Cịn mép chiếu dùng để nối hai bộ phận trên với nhau được làm từ tơ lụa, vải dệt nổi
vân. Trên phần mép chiếu này, người Nhật thường sẽ in hoa văn hoặc gia huy – Kamon (家紋). Biểu tượng
Kamon được in trên mép chiếu Tatami đều có ý nghĩa riêng, thể hiện sự đại diện của gia đình vì được truyền
từ đời này sang đời khác, góp phần tạo cho không gian trong trà thất trang nghiêm và quý tộc hơn. Chính vì
thế, khi đi vào trà thất phải đặc biệt lưu ý không được giẫm lên mép chiếu Tatami, vì điều này thể hiện hành vi
cực kỳ thiếu tơn trọng với gia chủ.

1366


Hình 1. Trà thất với 4 jou rưỡi

(Nguồn: />2.2 TOKONOMA (床の間)
Nghệ thuật Tokonoma là kiểu kiến trúc đậm chất truyền thống, nó là một góc nhỏ của căn phịng, được xây
thụt vào trong so với vách tường. Tokonoma có nguồn gốc từ kiểu kiến trúc Shoin zukuri (書院造). Đặc trưng
theo lối kiến trúc này là chiếu Tatami, cửa lùa Shoji, hốc tường Oshiita và đèn giấy. Trong đó, Oshiita (押板)
chính là tiền thân của Tokonoma – bắt đầu từ một gia đình Phật giáo, họ đặt các bức tượng Phật trên tấm ván
đẩy và kệ (押板と棚). Khu vực này được xem là một vị trí trang trọng, thế nên sàn của Tokonoma cũng được
nâng lên cao và còn được trang trí bởi những món đồ mang tính nghệ thuật như tranh thư pháp, tranh bonsai,
kiếm Nhật, hộp trầm hương, vài món đồ sành sứ q giá và bình hoa...
Tokonoma chỉ là một góc nhỏ nhưng khơng chỉ mang đến hảo cảm về phần nhìn mà cịn khiến tâm hồn trở nên
thư thái nhờ vào những vật trang trí mang tính thiên nhiên; Là nơi để gia chủ có thể thể hiện gu thẩm mỹ.
Tokonoma được thay “áo mới” theo từng mùa trong năm hoặc ngày lễ gần nhất. Sự giao lưu nhân tâm giữa chủ
và khách là yếu tố quan trọng nhất, đó là một biểu hiện của tinh thần trà đạo – Wakei Seijaku (和敬清寂).
Chính sự hiện hữu của Tokonoma đã mang đến ý nghĩa sâu sắc cho không gian trà thất nhỏ nhưng tạo ra sự
rộng mở vô hạn về mặt tinh thần.

1367


Hình 2. Tokonoma
(Nguồn: />2.3 KAKEMONO ( 掛物 )
Để có thể trang trí góc phịng Tokonoma trở nên phù hợp với chủ đề của buổi tiệc trà, cùng với Chabana thì
gia chủ còn treo một cuộn tranh, trong trà đạo gọi là Kakemono. Đây là cuộn tranh thư pháp được trang trí ở
Tokonoma, được dùng để thể hiện cảm xúc của gia chủ hoặc thể hiện ý nghĩa theo mùa diễn ra buổi tiệc trà.
Để viết Kakemono, người ta sử dụng Zengo (禅語), là ngôn ngữ Thiền trong Phật giáo. Tranh cuộn Kakemono
thường được viết theo hai phong cách:
Một là, cuộn tranh treo quanh năm: Cuộn tranh này thường mang những nét nói về cuộc sống và cảm xúc của
gia chủ đối với khách trong buổi tiệc trà. Những câu có thể sử dụng để treo quanh năm như Nichinichi Korekichi
(日日是好日) nghĩa là mỗi ngày đều là ngày quan trọng. Wakei Seijaku thể hiện tinh thần Hịa-Kính-ThanhTịnh của trà đạo, thể hiện sự tôn trọng giữa gia chủ và khách trong buổi tiệc trà. Ichigo Ichie (一期一会) mang
nghĩa mỗi lần gặp gỡ đều rất quan trọng, vì thời điểm này chỉ diễn ra một lần trong đời nên bức tranh treo này
thể hiện sự quan tâm chu đáo của gia chủ đối với khách. Enso (円相) đây là một bức thư pháp đặc biệt, chỉ vẽ

một hình trịn ngay giữa tâm của bức tranh, hình trịn này thể hiện sự giác ngộ trong Thiền, thể hiện mối liên
hệ của Thiền và Trà Đạo, hình trịn này sẽ mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy thuộc vào góc nhìn khác nhau
của mỗi người khi tham dự buổi tiệc trà.
Hai là, cuộn tranh phân theo mùa: Cuộn tranh này thì Zengo sẽ mang những từ ngữ về màu sắc, cảnh vật liên
quan đến mùa đó. Mùa xn thì Zengo được viết trong Kakemono sẽ thường viết 「春光日々新」 nghĩa là
cảnh xuân thay đổi từng ngày, mỗi ngày là một ngày mới, thể hiện sự tươi mới như lời chúc phúc. Vào mùa hè,
những câu Zengo được sử dụng thường gợi lên sự mát mẻ trong khơng gian nóng bức, như câu 「山是山水是
1368


水」 nghĩa là núi là núi, nước là nước, thể hiện bản chất của chính những cảnh vật, hịa vào nhau tạo nên cảnh
sắc. Mùa thu thì Zengo thường gợi lên tinh thần của con người vào mùa thu thoải mái, nhẹ nhàng như câu「心
静即身涼」 nghĩa là nếu tinh thần ta thoải mái thì cơ thể cũng sẽ trở nên phấn chấn. Vào mùa đông, đây là
thời điểm sắp kết thúc một năm, những câu Zengo thường miêu tả sự chuyển mình sang năm mới, như câu
「 歳月不待人」có nghĩa là tháng năm không chờ đợi mỗi người, mang ý nghĩa nên trân trọng khoảnh khắc
hiện tại.

Hình 3. Enso
(Nguồn: o/SHOP/KT145800E.html)
2.4 CHABANA (茶花)
Những bơng hoa được cắm trong bình trong phịng trà Nhật Bản được gọi là Chabana. Trong thế giới trà đạo,
Chabana cùng với Kakemono là một trong những dụng cụ trà thể hiện cảm xúc của gia chủ. Những bình hoa
được cắm một cách mộc mạc, giản dị nhưng mang hàm ý sâu xa về tình cảm của gia chủ đối với khách đến
thưởng trà. Vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa được đề cao trong trà thất. Ngoài ra, Chabana còn được lựa chọn dựa
trên hương vị của trà và khơng khí của buổi thưởng trà, đồng thời thể hiện phong cảnh thiên nhiên và sự thay
đổi của bốn mùa.
Nguyên tắc thứ ba trong bảy nguyên tắc của Rikyu「花は野にあるように」 “Cắm hoa vào bình như hoa
đang sống trên cánh đồng” nghĩa là khơng nên trang trí hoa theo trạng thái mình muốn mà trang trí ở trạng thái
tự nhiên như thể trạng thái của hoa đang là như vậy. Vì thế, Chabana khơng cần phải được thay đổi hình dạng,
cũng khơng trang trí nhiều như Ikebana (生花). Nên để hoa sống trong trà thất với dáng vẻ còn đang (tiếp tục)

nở. Vậy, Chabana không chỉ đơn thuần là hoa cắm trong bình trong trà thất mà là hoa mọc lên giữa sàn của trà
thất, là vật sống duy nhất của trà thất. Vẻ đẹp của Chabana quá đỗi tự nhiên, vì thế đã khơi gợi lên trí tưởng
1369


tượng của người xem, khiến họ liên tưởng đến cuộc sống và thời gian trôi qua, đồng thời truyền tải khơng khí,
cảm giác giao mùa và vẻ đẹp tự nhiên cho trà thất.

Hình 4. Chabana vào tháng 1
(Nguồn: />KẾT LUẬN
Trà thất là yếu tố quan trọng góp phần giúp cho trà đạo trở thành môn nghệ thuật tinh tế của Nhật Bản. Trà đạo
có mối quan hệ chặt chẽ với Thiền, chủ yếu là trong quá trình quan sát nội tâm, từ đó đem lại sự thanh thản ở
chính giây phút hiện tại. Và trà thất là kết quả của tinh hoa trong tư tưởng thẩm mỹ ấy, là công cụ để tìm lại
bản ngã của mỗi người. Một khơng gian được bày biện đơn giản từ những thứ gẫn gũi quen thuộc, đó là hoa
cỏ, là cuộn tranh,... tất cả những chi tiết nhỏ nhặt và tự nhiên đó tạo nên căn phịng ngập tràn bình n và thư
giãn. Hiện diện và hịa hợp trong khơng khí thư thái, nhẹ nhàng ấy, tự do thả hồn vào hương vị của trà, có lẽ ta
sẽ thấy vị trà khơng cịn đắng nữa, bởi giá trị tinh thần ta nhận được đã xoa dịu phần nào vị đắng đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] 小早川護 (2013), 接客は利休に学べ, NXB WAVE, Nhật Bản
[2] Chado Urasenke (12/2018), “床の間”, trang web:
/>[3] CHAKATSU (21/10/2020), “お茶の世界を彩る【茶花(ちゃばな)】のいろいろ”, trang web:
/>[4] Astomo, “ お も て な し の 真 髄 「 利 休 七 則 」 茶 の 湯 の 心 得 と は ? ”, trang web:
/>
1370


[5] “お茶室の畳について”, trang web: />[6] りか (19/11/2020), “茶道の掛け軸にはどんな意味があるの?季節やお茶会によって変化も!”,
trang web: />[7] “禅語あれこれ”, trang web: />
1371




×