Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự ở cấp sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 78 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu ................................................ 4
6. Những đóng góp của luận văn .................................................................... 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG
CỨ CỦA TÒA ÁN SƠ THẨM TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN DÂN SỰ ........................................................................................... 5
1.1

Chứng cứ, nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự ................................. 5

1.2 Lược sử các quy định về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng
Việt Nam ...................................................................................................... 11
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ................................................................... 15
2.1

Một số mơ hình trên thế giới về việc thu thập chững cứ của Tòa án . 15

2.2

Hoạt động thu thập chứng cứ theo pháp luật Việt Nam ..................... 16

2.2.1

Cơ sở lý luận và thực tiễn............................................................. 16


2.2.2

Căn cứ để Tòa án thu thập chứng cứ............................................ 17

2.2.3

Biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án ..................................... 24

2.2.4. Hệ quả pháp lý.............................................................................. 40
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TÒA ÁN TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN DÂN SỰ ......................................................................................... 43
3.1 Thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo quy quy định của BLTTDS 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2011) ........................................................................ 43


3.2 Thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo quy quy định của BLTTDS 2015
57
3.3

Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật .............................................. 64

PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 71
VĂN BẢN PHÁP LUẬT VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................... 73
DANH MỤC PHỤ LỤC ĐÍNH KÈM ......................................................... 76


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chứng cứ được coi là một bộ phận quan trọng trong pháp luật tố tụng
dân sự, có một vai trị vơ cùng quan trọng trong việc chứng minh để giải
quyết tốt được một vụ án dân sự. Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì
có thật được đương sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất
trình cho Tịa án trong q trình tố tụng hoặc do Tịa án thu thập được theo
trình tự, thủ tục do luật quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác
định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự
phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Hoạt động thu thập chứng cứ được diễn ra trong nhiều giai đoạn tố tụng
nhưng trong tiến trình tố tụng của cấp sơ thẩm là quan trọng nhất. Bởi lẽ nếu
cấp sơ thẩm thu thập đầy đủ, có cơ sở để phán quyết vụ án thì vụ án đã được
giải quyết khách quan và toàn diện giúp bảo vệ quyền và nghĩa vụ của đương
sự: “Trong bất kỳ vụ việc dân sự nào cũng ln có ba nội dung cần phải giải
quyết vấn đề pháp lý, chứng cứ và sự thật. Ba vấn đề tưởng như biệt lập
nhưng lại có liên hệ mật thiết với nhau. Pháp lý là những căn cứ luật định
gồm những điều khoản pháp luật cụ thể để làm cơ sở cho Tòa án ra phán
quyết. Chứng cứ là những gì chứa đựng các sự kiện của vụ án để dựa vào đó
làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của đương sự. Cuối cùng sự thật
của vụ án là mục đích mà Tịa án phải hướng tới để đưa ra quyết định cuối
cùng cho việc giải quyết vụ án được khách quan, công minh”.
Thực tiễn tiến hành thu thập chứng cứ trong thời gian qua của Tòa án
cho thấy, hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án cấp sơ thẩm đơi khi vẫn
chưa được chú trọng và đảm bảo khách quan nhất nên Tòa án mặc dù dựa trên
chứng chứ do các bên cung cấp nhưng không bị ràng buộc vào giá trị của từng
chứng cứ cụ thể đó mà có quyền tự quyết định giá trị của chứng cứ cụ thể đó



2

mà có quyền tự mình quyết định giá trị của các chứng cứ, tự mình tìm hiểu sự
thật vụ án dựa trên các kinh nghiệm, kiến thức cá nhân của Thẩm phán hay
bồi thẩm đoàn viên, phụ thẩm, Hội thẩm nhân dân. Nếu phụ thuộc vào chứng
cứ của các bên một cách máy móc thì mỗi bên đưa ra chứng cứ khác nhau và
bên nào cũng khẳng định những chứng cứ của mình là đúng thì Tịa án sẽ
khơng thể tìm ra sự thật khách quan.
Trong những năm qua, chúng tơi chưa thấy một cơng trình nào nghiên
cứu một cách tổng hợp về hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án sơ thẩm
trong q trình giải quyết vụ việc dân sự. Từ những lí do trên cho nên tơi xin
mạnh dạn chọn đề tài “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án sơ thẩm
trong q trình giải quyết vụ việc dân sự” làm luận văn thạc sĩ của mình để
góp phần nghiên cứu những quy định của tố tụng dân sự về hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án sơ thẩm, làm rõ những vướng mắc, những tồn tại
hạn chế, bất cập của pháp luật để từ đó kiến nghị hồn thiện quy định của
pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tịa án.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự (từ đây gọi tắt là BLTTDS) năm 2004
ra đời, mọi thủ tục tố tụng dân sự đều theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự năm 1989 đây chính là cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng vận dụng và nghiên cứu trong việc đánh giá, xác định
chứng cứ. Do đó, chỉ có rất ít bài viết nghiên cứu xoay quanh pháp lệnh đó
chứ chưa cụ thể về chứng cứ, chứng minh.
Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Minh Hằng (2007) về
“Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”, luận văn Thạc sĩ Luật
học của tác giả Vũ Trọng Hiếu (1998) về “Chứng cứ và hoạt động chứng
minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”. Hai cơng trình này, tác giả đã nghiên
cứu khái niệm chứng cứ và hoạt động chứng minh trong Tố tụng dân sự Việt
Nam.



3

Bài viết “Chế định chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân
sự” của Nguyễn Cơng Bình trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02 năm
2004, “Một vài suy nghĩ về chứng cứ trong Bộ luật Tố tụng dân sự” tác giả
Tưởng Duy Lượng, trên tạp chí Tịa án số 20, 21/2004, bài viết “Một số bất
cập và vướng mắc của Bộ luật Tố tụng dân sự chưa được hướng dẫn thi hành”
của tác giả Trần Văn Trung trên tạp chí Tịa án số 4/2011; bài viết “Bàn về
Điều 92 Bộ luật TTDS về định giá tài sản” trên tạp chí TỊA ÁN NHÂN DÂN
số 20/2012…. đã giải quyết một vài khía cạnh về chứng minh và chứng cứ,
chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện hệ thống.
Tất cả các công của các tác giả trên đã giúp tôi trong việc tiếp cận
những vấn đề về lý luận, thực tiễn liên quan đến việc thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ của Tòa án. Nhưng nhìn chung, các cơng trình này được
thực hiện chủ yếu trước khi BLTTDS ra đời và chỉ có một vài cơng trình sau
khi BLTTDS ra đời. Ngồi ra, năm 2015 là thời điểm BLDS mới có hiệu lực
vì vậy càng cần thiết phải nghiên cứu chuyên sâu và đề cập đến vấn đề này.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Thực hiện đề tài này, tác giả hướng đến ba mục tiêu chính:
Thứ nhất, Nghiên cứu về mặt lý luận về chứng cứ và vai trò của chứng
cứ trong tố tụng dân sự.
Thứ hai, căn cứ, điều kiện để Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ; ý
nghĩa, hệ quả pháp lý của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án. Nêu một
số thực trạng về việc thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm trong thời
gian qua.
Thứ ba, Khuyến nghị một số giải pháp để nâng cao vai trò của Tòa án
trong thu thập chứng cứ để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong giai đoạn
hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Quy định của pháp luật hiện
hành về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án cấp sơ thẩm.
Phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu các quy định
hiện hành về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự. Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, trong phần lý luận chung về
chứng cứ tác giả có so sánh với một vài nước trên thế giới như về các khái
niệm.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Với đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp là chủ
yếu. Trong mỗi chương, nhất là chương cơ sở lý luận. Dựa trên các cơng trình
nghiên cứu tác giả tổng hợp rút ra những nội dung mang tính khái quát cùng
với việc phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án. Về các vấn đề thực tiễn, tác giả đưa những dẫn
chứng cụ thể và từ đó nêu lên đánh giá, phân tích, kiến nghị nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật.
6. Những đóng góp của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Luận văn đã góp phần hệ thống hóa các lý luận, các
quan điểm về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm. Trên cơ
sở đó, tác giả cũng thấy được những thiếu sót cũng như hạn chế của các quy
định pháp luật về chứng cứ trước khi BLTTDS 2015 ra đời, từ đó phân tích
những quan điểm mới và đồng thời nêu lên những khó khăn, vướng mắc
nhằm góp phần hồn thiện các quy định hiện hành trong hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án ở nước ta.

Với sự nỗ lực nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, hy vọng đây sẽ là tài liệu tham
khảo cho sinh viên nếu muốn tìm hiểu về những vấn đề này.


5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG
CỨ CỦA TỊA ÁN SƠ THẨM TRONG Q TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ
ÁN DÂN SỰ
1.1 Chứng cứ, nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự
Khái niệm thu thập chứng cứ cũng được thể hiện theo nhiều cách khác
nhau. Các khái niệm về chứng cứ trong pháp luật Mỹ quy định “Chứng cứ là
những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất kỳ sự thật nào mà bản thân
sự hàm chứa đó ảnh hưởng tới việc xác định một hành động hơn hoặc kém”,
còn luật Nhật Bản lại quy định “Chứng cứ là một tư liệu thơng qua đó một
tình tiết được Tịa án cơng nhận và là một tư liệu, cơ sở thơng qua đó Tịa án
được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại hay khơng” (Bộ Tư pháp, Viện
nghiên cứu và đào tạo Luật Tố tụng dân sự Nhật Bản (1998), tr 453-454).
Trong luật Liên Bang Nga thì “Chứng cứ trong vụ án dân sự là những gì thu
thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà Tịa án căn cứ vào đó để
xác định có hay khơng các tình tiết làm cơ sở cho những yêu cầu hay sự phản
đối yêu cầu của các bên cũng như các tình tiết khác có ý nghĩa để giải quyết
đúng đắn vụ án”.
Bộ luật TTDS năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011), nguồn chứng cứ
được quy định tại Điều 82 bao gồm: “Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn
được; các vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết
luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán, kết quả định
giá tài sản, thẩm định giá tài sản và các nguồn khác mà pháp luật có quy
định”.



6

Nguồn chứng cứ chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ để những tài liệu, dữ
kiện thu thập được từ các nguồn chứng cứ được xem là chứng cứ và được sử
dụng vào việc giải quyết vụ án đó là chúng phải được thu thập phù hợp với
quy định của pháp luật dân sự nhưng không phải bất cứ tài liệu, dữ kiện nào
được thu thập từ các nguồn chứng cứ cũng đều được xem là chứng cứ và
được sử dụng vào việc giải quyết vụ án mà các tài liệu, dữ kiện này phải đảm
bảo được các thuộc tính cơ bản của chứng cứ. Đáp ứng yêu cầu này, Điều 83
BLTTDS năm 2004 đã quy định cụ thể về điều kiện xác định chứng cứ trong
các nguồn chứng cứ như sau :
“1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản
chính hoặc bản sao có cơng chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được
xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về
sự liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
3. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là
chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi
hình theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa;
5. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được
tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định;
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc
thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ
ký của các thành viên tham gia thẩm định;
7. Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán
đó thừa nhận;



7

8. Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được
tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về
giá cả cung cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này”.
Theo quan điểm và dựa trên một số khái niệm về chứng cứ của các tác
giả luật học Việt Nam thì chứng cứ trong vụ việc dân sự cịn được coi là
những gì có thật được đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp,
xuất trình cho Tịa án trong q trình tố tụng hoặc do Tịa án thu thập được
theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn
cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu
hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp. Để con người có thể
nhận thức được chứng cứ thì chúng phải được ghi lại và được phản ánh dưới
những hình thức cụ thể như bản hợp đồng, bản di chúc, băng ghi âm, ghi
hình....1. Nguồn chứng cứ được hiểu là nơi chứa đựng chứng cứ, nơi phát sinh,
nơi bắt đầu hoặc là nơi có thể cung cấp, rút ra chứng cứ2. Trong BLTTDS
không đưa ra khái niệm về nguồn chứng cứ mà chỉ liệt kê các nguồn chứng cứ
được sử dụng đó là: Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật
chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết luận giám
định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết quả định giá tài
sản, thẩm định giá tài sản3. Tịa án chỉ có thể tiến hành thu thập chứng cứ
trong tám loại nguồn chứng cứ kể trên4.
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy nguồn chứng cứ là vấn đề quan
trọng trong xác định chứng cứ. Nguồn, theo cách hiểu thông dụng là nơi bắt
Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Tư pháp Hà Nội,
tr.156.
2
Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Tư pháp Hà Nội,

tr.161.
3
Điều 82 BLTTDS.
4
Theo quy định tại Điều 82 BLTTDS có 9 loại nguồn chứng cứ, nhưng quy định tại khoản 9 điều này “các
nguồn chứng cứ khác mà pháp luật quy định” được hiểu đây là một quy định dự phịng của pháp luật chứ
khơng phải là một quy định mở để Tịa án áp dụng trong q trình thu thập chứng cứ, cho tới nay, luật tố tụng
dân sự nước ta chưa có bất cứ một quy định nào về nguồn chứng cứ khác tám nguồn chứng cứ ở Điều 82.
1


8

đầu, nơi phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp, từ đó để rút ra cái gì, điều gì.
Do đó, nhiều quan niệm và ý kiến của tác giả cũng đồng tình cho rằng nguồn
chứng cứ được hiểu là nơi rút ra các chứng cứ. Nguồn chứng cứ Điều 94 Bộ
luật TTDS năm 2015 quy định khá rõ chứng cứ được thu thập từ các nguồn,
gồm có: Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; vật chứng;
lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết luật giám định; biên
bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài
sản; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập;
văn bản công chứng, chứng thực; các nguồn khác mà pháp luật quy định.
Vấn đề xác định chứng cứ trên cơ sở kế thừa Bộ luật TTDS năm 2005,
sửa đổi bổ sung năm 2011, Bộ luật TTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy
định các tài liệu sau đây được coi là chứng cứ của vụ việc dân sự:
“ (1) Tài liệu đọc được nội dung là bản chính hoặc bản sao có cơng
chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyên cung
cấp, xác nhận;
(2) Tài liệu nghe được, nhìn được được xuất trình kèm theo văn bản
trình bày của người có tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác

nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó
hoặc văn bản của sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó;
(3) Thơng điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ
liệu điện tử, chứng cứ điện tử, thu điện tử, điện tín, điện báo, Fax và các hình
thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử;
(4) Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc;
(5) Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được ghi
bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị
khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định hoặc khai bằng lời tại phiên tòa;
(6) Kết luận giám định nếu việc giám định đó được tiến hành theo
đúng thủ tục do pháp luật quy định;


9

(7) Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được tiến hành theo đúng
thủ tục do pháp luật quy định;
(8) Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được tiến
hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định;
(9) Văn bản ghi nhận, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại
chỗ được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định như vi bằng của
Thừa phát lại;
(10) Văn bản công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục
do pháp luật quy định;
(11) Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng
cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.
Chứng cứ trong tố tụng dân sự phải bảo đảm 03 thuộc tính đó là tính
khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Chứng cứ có tính khách quan bởi
chứng cứ là cơ sở để nhận thức vụ án dân sự. Tính khách quan của chứng cứ
được thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là những gì có thật, tồn tại ngoài ý muốn

của con người, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.
Chính vì thuộc tính này nên trong q trình tố tụng, những người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng không thể tạo ra chứng cứ theo ý muốn
chủ quan của họ mà chỉ có thể thu thập, nghiên cứu đánh giá và sử dụng
chúng. Nếu đi ngược với thuộc tính này thì q trình giải quyết vụ án sẽ dẫn
đến kết quả sai lệch và khơng chính xác để nhận thức một vụ việc dân sự.
Chứng cứ có tính liên quan bởi chứng cứ là cơ sở mà Tòa án dựa vào để
giải quyết vụ án dân sự. Tính liên quan của chứng cứ được thể hiện ở chỗ giữa
chứng cứ và vụ án dân sự có mối quan hệ nhất định, dựa vào những chứng cứ
đó Tịa án có thể đưa ra những nhận định đúng đắn về tình tiết, sự kiện của vụ
án. Được thể hiện ở mối liên hệ khách quan của các thông tin, tài liệu với các
tình tiết của vụ án cần được hiểu là việc chứng cứ dùng làm căn cứ để giải
quyết thực chất của vụ án, đó là những cứ quan trọng và chủ yếu để xác định


10

đường lối vụ việc. Có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, mối quan hệ gián tiếp là
trong trường hợp thơng tin, tài liệu đó khơng thể làm căn cứ để giải quyết
thực chất vụ án, nhưng lại đóng góp một phần nhất định vào việc chứng minh.
Chứng cứ có tính hợp pháp bởi vì việc giải quyết vụ án dân sự khơng thể
tách rời q trình nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Tính hợp pháp sẽ
giúp bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, tránh sự tùy nghi của Hội đồng xét
xử, những chính cứ trong các bản án, quyết định sơ thẩm sẽ không có giá trị
nếu q trình thu thập có vi phạm pháp luật. Chính vì các lý do nên do đó
chứng cứ phải được giao nộp hoặc thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTDS
quy định, chính thuộc tính này yêu cầu chứng cứ phải được rút ra từ những
nguồn chứng cứ nhất định do pháp luật quy định5.
Ngoài ra, các nguồn chứng cứ còn là tập quán: Tập quán là thói quen đã
thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày,

được cộng đồng (tập thể những người cùng sống, có những điểm giống nhau,
gắn bó thành một khối trong xã hội) nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo
như một quy ước chung của cộng đồng. Tòa án chỉ chấp nhận tập quán không
trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đối với những vấn đề mà đương sự viện dẫn
tập quán nhưng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định thì Tịa án phải
áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không
áp dụng tập quán, dựa trên các quy định tại Điều 81, Điều 82 BLTTDS năm
2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) có thể thấy rằng nguồn chứng cứ là tập
quán. Tuy nhiên, hiện nay Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã khơng cịn coi
tập qn là nguồn chứng cứ nữa.
Ngoài ra, các loại chứng cứ khác như: Lời khai của đương sự, lời khai
của người làm chứng, kết luận giám định, biên bản ghi kết quả thẩm định tại

5

Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Tư pháp Hà Nội, tr.157 –
tr.159.


11

chỗ, kết quả định giá tài sản chỉ được coi là chứng cứ nếu được tiến hành theo
đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và đảm bảo ba thuộc tính của
chứng cứ được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
1.2 Lược sử các quy định về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố
tụng Việt Nam
Phải đến sau chiến tranh, với công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước,
kinh tế nước ta ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống của người dân
ngày càng được cải thiện. Trong đời sống giao lưu dân sự, quyền và nghĩa vụ
của công dân ngày càng được chú trọng. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của

các quan hệ xã hội, pháp luật nước ta cũng đang phát triển nhanh và ngày
càng hồn thiện. Mục đích chính của việc hoàn thiện pháp luật là đảm bảo
quyền lợi của mỗi người trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của người khác.
Tuy nhiên, trong xã hội không phải ai cũng biết dừng lại tại giới hạn tự do của
mình và sự vượt q giới hạn này chính là sự xâm phạm tới giới hạn tự do của
người khác. Chính vì vậy, pháp luật cần đưa ra những cơ chế hữu hiệu nhằm
ngăn ngừa tình trạng trên. Và một trong những cơ chế đó là cơ chế về tài
phán. Nhưng trước đó, chưa có các quy định pháp luật cụ thể về vấn đề này
thì sẽ như thế nào:
Dưới góc nhìn lịch sử, có thể nhận thấy rằng pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện kinh tế, xã hội và những biến
động trong dòng chảy lịch sử. Trước thời Pháp thuộc, pháp luật Việt Nam
dường như khơng có sự phân biệt rạch rịi giữa dân sự và hình sự, cơ quan tài
phán và cơ quan quản lý. Dưới thời Lê (1428 – 1788) các quy định này được
ghi nhận trong Quốc triều Hình luật (1483) và Quốc triều khám tụng điều lệ
(1777). Đến thời Nguyễn (1802 – 1858 và 1858 – 1945) các quy định này tiếp
tục được kế thừa trong bộ Hoàng Việt luật lệ (1812). Nhiều quy định về tố
tụng được xây dựng trong thời kỳ này đã thể hiện những triết lý về tố tụng
được trải nghiệm và đúc kết từ thực tế cuộc sống.


12

Việc nghiên cứu cho thấy các quy định về thủ tục tố tụng dân sự với tư
cách là một thủ tục tố tụng riêng biệt có lẽ chỉ chính thức được du nhập vào
miền Nam Việt Nam dưới thời Pháp thuộc bằng Nghị định 16/3/1910
[Nguyễn Huy Đẩu , Luật dân sự tố tụng Việt Nam , xuất bản tại Sài Gịn năm
1968, tr. 20]. Tiếp theo đó là Bộ dân sự tố tụng Bắc ban hành năm 1917 và Bộ
Hộ sự thương sự tố tụng Trung Việt năm 1942, áp dụng tại Bắc Kỳ và Trung
Kỳ. Có thể nhận xét rằng các quy định về tố tụng dân sự của Việt Nam dưới

thời Pháp thuộc được xây dựng trên cơ sở tham chiếu và giản lược các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự Pháp 1807 cho phù hợp với đời sống của
người dân bản địa. Do vậy, các quy định về tố tụng dân sự trong những bộ
luật này chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật tố tụng dân sự Pháp.
Sau cách mạng tháng 8/1945, trong giai đoạn này hoạt động xét xử của
ngành Tòa án được điều chỉnh chủ yếu bằng các văn bản dưới luật, trách
nhiệm xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án được ghi nhận khá rõ ràng.
Tại Công văn 06/NCPL ngày 8/02/1977 của TỊA ÁN NHÂN DÂNTC hướng
dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm có ghi nhận: “Khi đương sự khởi tố, Tịa án
nhân dân phải tích cực, chủ động việc điều tra, thu thập chứng cứ, chứ không
nên cho rằng đương sự đề xuất chứng cứ đến chừng nào thì Tòa án nhân dân
chỉ căn cứ vào những chứng cứ đó để xem xét”.
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 47 ngày
10/10/1945 cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ. Sau năm
1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam, Bắc. Ở miền Nam, nhà lập
pháp của chế độ Sài Gịn đã pháp điển hố các quy định về tố tụng dân sự và
xây dựng Bộ luật dân sự thương sự tố tụng năm 1972. Tuy nhiên, năm 1975
đất nước thống nhất, do vậy các quy định của Bộ luật này cũng không được
áp dụng nữa. Ở miền Bắc, do hoàn cảnh lịch sử để lại, cho nên trong một thời
gian tương đối dài (1954-1989) nên chưa có một văn bản chính thức về tố
tụng dân sự, các vấn đề liên quan đến thủ tục kiện tụng về dân sự chỉ được


13

quy định tản mạn trong các văn bản hướng dẫn của Tồ án nhân dân tối cao.
Có 03 văn bản về thủ tục tố tụng trong lĩnh vực tư pháp dân sự: Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp
lao động năm 1996. Nghĩa vụ thu thập chứng cứ các pháp lệnh này đã có đề

cập đến nghĩa vụ của đương sự, theo đó đương sự có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình [Điều 3, Pháp lệnh thủ tục giải quyết
vụ án dân sự, Điều 2 Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế, Điều 2 pháp
lệnh thủ tục giải quyết án lao động]. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự phân định
giữa nghĩa vụ và trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án và đương sự vì
“khi cần thiết Tịa án có thể xác minh, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án
được chính xác” Điều 3, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự, Điều 3
Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế, Điều 3 pháp lệnh thủ tục giải quyết
án lao động].
Các pháp lệnh đã ghi nhận các biện pháp để thu thập chứng cứ, bao
gồm lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; yêu cầu cơ quan, tổ chức,
công dân cung cấp chứng cứ; xem xét tại chỗ; trưng cầu giám định; yêu cầu
cơ quan chuyên môn định giá hoặc lập hội đồng định giá tài sản. Tuy nhiên,
chưa có thủ tục tiến hành thu thập chứng cứ đối với từng biện pháp cụ thể,
điều này dễ dẫn đến sự tùy tiện của các Thẩm phán trong quá trình tiến hành
thu thập chứng cứ.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển ba Pháp lệnh về thủ tục tố tụng trước
đó đồng thời tiếp thu những thành tựu lập pháp của nhiều nước trên thế giới
như Cộng hoà Pháp, Mỹ, Úc, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Thái Lan, Singapore… năm 2004, nhà lập pháp Việt Nam đã xây dựng
Bộ luật tố tụng dân sự chung thống nhất (BLTTDS). BLTTDS ra đời đã đánh
dấu một bước chuyển biến lớn trong lịch sử pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam. Bộ luật Tố tụng Dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 06 năm 2004


14

của Quốc hội khóa XI và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố
tụng Dân sự số 65/2011/QH12 ngày 29 tháng 3 năm 2011 của Quốc hội khóa
XII cũng đã dành hẳn chương VII với 20 điều luật (từ Điều 79 tới Điều 98)

quy định về chứng cứ và chứng minh. Các điều luật này đã quy định về hầu
hết các nội dung liên quan đến chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
như: nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự, những tình
tiết, sự kiện khơng phải chứng minh, khái niệm chứng cứ, nguồn chứng cứ và
việc xác định chứng cứ, điều kiện và các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa
án....6
Để đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự số
24/2004/QH11 ngày 15 tháng 06 năm 2004 của Quốc hội khóa XI đã trao
quyền và nghĩa vụ chứng minh trong các vụ án dân sự cho các đương sự.
Không những chỉ có người đưa ra yêu cầu phải chứng minh cho yêu cầu của
mình mà người phản đối yêu cầu của người khác cũng phải chứng minh, nếu
không chứng minh được sẽ phải nhận hậu quả bất lợi7. Vì vậy hoạt động
chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động rất quan trọng. Để thực hiện
quyền cung cấp chứng cứ, đương sự phải tiến hành thu thập chứng cứ.
Mặc dù Luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLTTDS được Quốc hội
thơng qua ngày 29/3/2011 có hiệu lực vào ngày 01/01/2012 đã được sửa đổi,
bổ sung nhằm hoàn thiện hơn các quy định của BLTTDS, trong đó có hoạt
động thu thập chứng cứ, phù hợp với các nhu cầu lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật nhưng do nhu cầu thực tế và quá trình hội nhập thì đã bộc lộ những
hạn chế nên một bước tiến mới là Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được
Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua vào ngày

6

Trần Văn Trung, Vấn đề chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS, Tạp chí kiểm sát số 11 -2004, tr.21

Xem thêm Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - bản án và bình
luận bản án, bản án số 04/2007/KDTM-ST ngày 05-09-2007 của TÒA ÁN NHÂN DÂN thành phố Pleiku,
tỉnh Gia Lai, tr34 – tr37.
7



15

25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, có những nội dung bao
gồm các quy định về những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự,
thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp dân
sự và những vấn đề mới cơ bản khác. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này,
tác giả đi sâu phân tích những nội dung cơ bản về chứng cứ, chứng minh
trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1 Một số mô hình trên thế giới về việc thu thập chững cứ của Tịa
án
Ở các nước theo theo mơ hình tranh tụng cho đến khi mở phiên
Tòa,Thẩm phán và các bồi thẩm đồn đều khơng biết về hồ sơ vụ án cho đến
khi mở phiên tòa, nghĩa vụ thu thập chứng cứ thuộc về đương sự và luật sư.
Đương sự được pháp luật đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu trực tiếp bất cứ cá
nhân, cơ quan, tổ chức nào chiếm hữu chứng cứ phải cung cấp chứng cứ đó
(Sđd nt, W.J. Habscheid và P.Schlosser, Improvement of Civil Litigation by
Lesons Derived from Arbitration, NXB Klwer Law and Taxation Punblishers,
1989, tr.159).


16

Còn ở các nước theo hệ thống thẩm xét như Pháp thì pháp luật quy định
các đương sự phải có nghĩa vụ chứng minh và Tịa án tham gia tích cực vào
giai đoạn này, các đương sự có nghĩa vụ cung cấp tồn bộ chứng cứ cho Tịa án

ngay từ trong giai đoạn xét xử để Tòa án xây dựng hồ sơ vụ án.
Ở Nhật và Đức là điển hình thì vai trị thuộc về đương sự nhưng Tịa án
cũng tham gia một số hoạt động thu thập chứng cứ trong trường hợp đặc biệt.
2.2 Hoạt động thu thập chứng cứ theo pháp luật Việt Nam
2.2.1Cơ sở lý luận và thực tiễn
Việc thu thập chứng cứ là của Tòa án, tại sao Tòa án lại tiến hành thu
thập chứng cứ trong khi luật đã quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về các
đương sự. Quy định về trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tịa án xuất phát từ
mơ hình tố tụng và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể củaViệt Nam. nguyên tắc,
đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình.
Tịa án có trách nhiệm xem xét mọi tình tiết của vụ án, căn cứ vào pháp luật
để giải quyết yêu cầu của đương sự do ở nước ta, mô hình Tố tụng Dân sự
được xây dựng dựa trên mơ hình tố tụng xét hỏi, tức là Thẩm phán đóng vai
trò trung tâm trong việc giải quyết vụ án. Quá trình xác minh, thu thập chứng
cứ cũng chính là q trình xây dựng hồ sơ vụ án dân sự. Chính vì vậy, hồ sơ
vụ án dân sự là yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giải quyết vụ án.
Lý luận về chứng cứ cũng cho thấy, Tòa án là cơ quan có nhiệm vụ đánh giá
tồn bộ chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án. Việc đánh giá chứng cứ có
đúng đắn, khách quan và tồn diện hay không phụ thuộc vào việc cung cấp,
thu thập chứng cứ có đầy đủ, chính xác và đúng pháp luật hay không. Và ở
đây, trách nhiệm của Thẩm phán là phải đảm bảo trong hồ sơ vụ án có đầy đủ
chứng cứ làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án dân sự. Do đó, Tịa án có
nhiệm vụ phải thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án một cách toàn diện, đúng
đắn.


17

Bên cạnh đó, trước khi BLTTDS 2015 ra đời và kể cả cho đến thời gian
hiện nay ngoại trừ ở các vùng đơ thị thì trong điều kiện nước ta hiện nay, kinh

tế và trình độ dân trí phát triển chưa đồng đều. Nhất là những vùng nông thôn,
miền núi đương sự khơng có điều kiện tiếp xúc nhiều với kiến thức pháp luật
cũng như mời luật sư để bảo vệ quyền lợi cho mình nên cho dù nghĩa vụ
chứng minh thuộc về họ nhưng khi có tranh chấp dân sự xảy ra và được đưa
ra giải quyết tại Tòa án, phần đơng các đương sự khơng biết phải có các
chứng cứ, tài liệu gì để bảo vệ quyền lợi của mình, việc tìm kiếm các chứng
cứ đó ở đâu. Ngồi ra, cịn nhiều ngun nhân liên quan trực tiếp như việc
phổ cập các tài liệu, giấy tờ thuộc quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế;
việc quản lý hành chính cịn cồng kềnh, quan liêu. Nhiều trường hợp, việc thu
thập chứng cứ đang do cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý là rất khó khăn, mặc
dù đương sự đã mất nhiều công sức, thời gian đi lại yêu cầu cơ quan, tổ chức
cung cấp chứng cứ để họ giao nộp cho Tòa án, nhưng đều bị từ chối; hoặc các
cơ quan, tổ chức cung cấp không đầy đủ, khơng chính xác, khơng đúng thời
hạn. Nên đặt ra vấn đề để giải quyết toàn diện, đúng đắn vụ án, Tòa án đại
diện nhân danh Nhà nước cần phải thu thập chứng cứ. Chính vì vậy, quy định
Nhà nước (Tòa án) phải hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ trong
điều kiện nước ta hiện nay là hợp lý8.
2.2.2 Căn cứ để Tòa án thu thập chứng cứ
Trước đây trong quy định tại Khoản 2 Điều 85 BLTTDS 2004 quy
định: “Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ và có
u cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để
thu thập chứng cứ...”, thì khoản 2 Điều 85 Luật sửa đổi, bổ sung 2011 quy
định “trong các trường hợp do Bộ luật này quy định, Thẩm phán có thể tiến
Nguyễn Văn Lin - Nguyễn Thị Hạnh, Vai trò của Thẩm phán trong thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải
quyết vụ án dân sự, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/Tịa án nhân
dântc/Baiviet?p_page_id=&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=21316375.
8


18


hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:...”. Theo như
quy định mới này, Tòa án đã được chủ động hơn trong hoạt động thu thập
chứng cứ. Cụ thể là có một số biện pháp, luật cho phép Tòa án tự tiến hành để
thu thập chứng cứ mà không cần chờ yêu cầu của đương sự. Bên cạnh đó
cũng có một số biện pháp cần phải có u cầu của đương sự Tịa án mới được
phép thực hiện để thu thập chứng cứ.
Vậy căn cứ để Tòa án áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ là (1)
theo yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan; (2) Quy định của pháp luật cho phép Tòa án tự mình tiến hành thu thập
chứng cứ.
Và để phù hợp với mơ hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng “, Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định rõ ràng quyền thu thập chứng cứ
của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chuẩn bị nộp đơn khởi kiện, đơn u cầu
hoặc trong q trình Tịa án giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời quy định rõ
trách nhiệm, quyền hạn của người tiến hành tố tụng đối với việc xác minh, thu
thập chứng cứ nhằm bảo đảm có đủ căn cứ khi giải quyết vụ việc dân sự Thu
thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự
Chứng minh là nghĩa vụ của đương sự vì vậy họ phải thu thập chứng cứ
để chứng minh cho yêu cầu của mình. Tịa án là cơ quan xét xử đóng vai trị
trung gian khách quan, chỉ kiểm tra, đánh giá chứng cứ để giải quyết vụ án.
Vì vậy để Tịa án tiến hành thu thập chứng cứ phải có yêu cầu của đương sự.
Điều này còn là đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong việc yêu cầu
Tòa án thu thập chứng cứ, biện pháp thu thập chứng cứ, loại chứng cứ, phạm
vi tiến hành thu thập.
Việc tiến hành thu thập chứng cứ sẽ làm phát sinh chi phí để thực hiện.
Cho nên cùng với việc đương sự có yêu cầu, họ là chủ thể thực hiện việc trả
chi phí cho việc thực hiện yêu cầu của mình.



19

Về nguyên tắc tòa án chỉ thực hiện thu thập chứng cứ khi đương sự có
u cầu. Tuy nhiên, Tịa án vẫn có thể chủ động thực hiện thu thập chứng cứ
trong những trường hợp do pháp luật quy định. Điều này nhằm đảm bảo việc
thực hiện chức năng xét xử, tính đúng đắn của bản án, quyết định của Tịa án,
đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Điều kiện để Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ
Theo BLTTDS được sửa đổi năm 2011 quy định trong việc giải quyết
vụ án dân sự, quyền tự định đoạt của các đương sự luôn được đề cao, ngay cả
trong việc cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Cho nên
việc Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ phải hết sức hạn chế và được đặt
dưới sự kiểm sát đặt biệt. Một trong những quy định nhằm hạn chế sự tùy tiện
của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ đó là quy định về điều kiện để Tịa
án tiến hành thu thập chứng cứ. Cụ thể tại Điều 85 BLTTDS quy định:
“Trong trường hợp xét thấy tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự
chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ
sung tài liệu, chứng cứ. Trong trường hợp do Bộ luật này quy định, Thẩm
phán có thể tiến hành một hoặc một số các biện pháp sau đây để thu thập tài
liệu, chứng cứ...”. Theo đó, Thẩm phán chỉ có thể tiến hành thu thập chứng
cứ khi có đủ các điều kiện sau đây: (i) Hồ sơ vụ án còn thiếu những chứng cứ
cần thiết làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án; (ii) Trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự; (iii) Đã yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ
nhưng đương sự không cung cấp được; (iv) Đối với một số biện pháp thu thập
chứng cứ, khi Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ còn phải đáp ứng điều kiện
đương sự có văn bản u cầu Tịa án thu thập chứng cứ; (v) Nộp tiền tạm ứng
chi phí thu thập chứng cứ đối với những biện pháp phát sinh chi phí.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015quy định:
Thứ nhất, Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu,
chứng cứ (khơng dùng từ “đương sự” để cho phép họ có quyền thu thập tài



20

liệu, chứng cứ cho việc chuẩn bị hồ sơ gửi kèm theo đơn khởi kiện, đơn yêu
cầu và cả trong quá trình giải quyết vụ việc) bằng những biện pháp sau: (1)
Thu thập vật chứng; (2) Xác định người làm chứng và lấy xác định của người
làm chứng; (3) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp
những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức,
cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý; (4) Yêu cầu Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng
thực chữ ký của người làm chứng; Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ
nếu đương sự không thể thu thập tài liệu, chứng cứ; (5) Yêu cầu Tòa án ra
quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản; (6) Yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, theo quy định cụ thể của Bộ luật TTDS năm 2015, Tòa án có
thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng
cứ: (1) Lời khai của đương sự, người làm chứng; (2) Đối chất giữa các đương
sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng; (3) Trưng cầu giám định;
(4) Định giá tài sản (5) Xem xét, thẩm định tại chỗ; (6) Uỷ thác thu thập, xác
minh tài liệu, chứng cứ; (7) Yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc
được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết
vụ việc dân sự; (8) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi
cư trú; (9) Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này. Khi tiến hành
các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải ra quyết định, trong đó
nêu rõ lý do và u cầu của Tịa án. Trường hợp lấy lời khai của đương sự,
người làm chứng; đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với
người làm chứng thì khơng phải ra quyết định.
Việc quy định như trên nhằm thể hiện vai trò, trách nhiệm của Tòa án
trong xác minh thu thập chứng cứ trong trường hợp rất cần thiết cho việc giải
quyết vụ án, đồng thời cũng khẳng định rõ không phải mọi thu thập chứng cứ

đều do Tòa án chủ động thực hiện, như: “Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời


21

khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai
chưa đầy đủ, rõ ràng”.
Thứ ba, trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể
tiến hành các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ sau đây: (1) Lấy lời khai
của đương sự, người làm chứng; (2) Yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài
liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc
giải quyết vụ việc dân sự; (3) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương
sự tại nơi cư trú. Khi thẩm tra viên tiến hành yêu cầu cơ quan, tổ chức cung
cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến
việc giải quyết vụ việc dân sự thì Tịa án phải ra quyết, trong đó nêu rõ lý do
và u cầu Tịa án.
Thứ tư, trách nhiệm thông báo kết quả thu thập tài liệu, chứng cứ của
Tòa án: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày tòa án thu thập được tài
liệu, chứng cứ, Tịa án phải thơng báo về tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự
để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
Để có thể kết luận là hồ sơ còn thiếu chứng cứ làm cơ sở tiến hành thu
thập chứng cứ, Thẩm phán phải căn cứ vào những chứng cứ tài liệu mà đương
sự, bao gồm cả nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã
giao nộp. Khi xem xét chứng cứ, để xác định còn thiếu chứng cứ phải tùy
thuộc vào từng vụ việc cụ thể và giá trị của chứng cứ đó đối với việc giải
quyết vụ án dân sự. Việc nghiên cứu các chứng cứ là vấn đề rất quan trọng
trong việc xác định điểm mấu chốt của vụ việc, việc xác định được các chứng
cứ trong vụ án phải được thu thập và được lập theo đúng trình tự, thủ tục theo
quy định tại Điều 93 BLTTDS. Về việc xác định chứng cứ cần nghiên cứu kỹ
các tài liệu, chứng cứ, kết hợp với lời khai của các đương sự để đánh giá

chứng cứ, trong một số trường hợp, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tài liệu,
chứng cứ không đủ cơ sở để tiến hành giám định....


22

Tòa án chỉ đưa vụ án ra xét xử khi xét thấy đủ cơ sở để giải quyết vụ
án. Việc Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ là trên cơ sở xét thấy tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chưa đủ cơ sở giải quyết. Và người tiến hành
các biện pháp thu thập chứng cứ là Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ
án. Vì vậy, hoạt động thu thập chứng cứ được tiến hành trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Theo quy định pháp luật tố tụng, khi đương
sự khơng thu thập được chứng cứ và có đơn u cầu thì Tịa án phải thu thập
chứng cứ theo Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại khoản 4 Điều 96 BLTTDS
quy định “Thời hạn giao nộp tài liệu chứng cứ do Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị
xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy
định của Bộ luật này”.
Nếu chứng cứ mà đương sự giao nộp cịn thiếu, Thẩm phán được phân
cơng giải quyết vụ án có quyền yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ liên
quan đến các yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập để làm cơ
sở xem xét các yêu cầu đó. Trong thực tiễn xét xử, Tòa án thường yêu cầu
đương sự cung cấp chứng cứ thông qua biên bản làm việc hoặc quyết định
yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ. Nếu Tòa án đã yêu cầu đương sự cung
cấp chứng cứ nhưng đương sự khơng cung cấp được thì đây chính là một
trong bốn điều kiện để Tịa án có thể tiến hành thu thập chứng cứ. Việc đương
sự không cung cấp được chứng cứ được thể hiện thông qua biên bản làm việc
hoặc bản tương trình của đương sự về việc khơng cung cấp chứng cứ theo yêu
cầu của Tòa án.
BLTTDS năm 2004 không quy định phiên họp kiểm tra việc giao nộp,

tiếp cận, cơng khai chứng cứ vì thế đương sự có quyền cung cấp chứng cứ ở
bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nên chưa đảm bảo được quyền tiếp
cận yêu cầu của đương sự phía đối lập, có quyền trình bày ý kiến về những
vấn đề khác với yêu cầu của mình. BLTTDS năm 2015 đã bổ sung các Điều


23

208, 209, 210, 211 để khắc phục những hạn chế này là quy định về phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ. Theo đó, qua phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nếu các
đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì
Tịa án lập biên bản hịa giải thành và trên cơ sở đó Tịa án ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Đương sự yêu cầu Tòa án tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu
thập chứng cứ phải được thể hiện bằng văn bản, có thể là bản khai của đương
sự hoặc được thể hiện trong biên bản Tòa án ghi lời khai, biên bản đối chất
hoặc cũng có thể thể bằng văn bản có hình thức đơn u cầu, đơn đề nghị.
Trong trường hợp đương sự đến Tòa án yêu cầu, Tòa án phải lập biên bản ghi
rõ yêu cầu của đương sự. Đối với trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án thu
thập chứng cứ bằng biện pháp yêu cầu, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp
chứng cứ theo quy định tại Điều 94 BLTTDS, đương sự phải làm đơn yêu
cầu.9 Trong đơn đương sự phải ghi rõ vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cụ
thể cần thu thập; lý do vì sao tự mình khơng thể thu thập được chứng cứ đó;
họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý,
lưu trữ chứng cứ cần thu thập đó10.
BLTTDS năm 2015 quy định đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để
chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc khơng đưa ra đủ chứng cứ
thì Tịa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có
trong hồ sơ vụ việc.

Tuy nhiên, bên cạnh nghĩa vụ phải chứng minh thì Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 cũng quy định cụ thể những tình tiết, sự kiện khơng cần phải
chứng minh: (1) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết được

9

Đăng Thanh Hoa chủ biên (2012), Bình luận khoa học BLTTDS sửa đổi, NXB Lao động xã hội, tr.75.

10

Khoản 2 Điều 12 Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP.


×