BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN:
HỢP ĐỒNG VÀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGỒI HỢP ĐỒNG
TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật dân sự
Việt Nam.
Người thực hiện: Trần Nguyễn Khánh Như
MSSV: 2053801011183
Lớp: 122-AUF45
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả đạt được trong bài Tiểu luận là sản phẩm của cá nhân tơi.
Trong tồn bộ nội dung của bài tiểu luận, những điều được trình bày là của cá nhân và được tổng
hợp từ nhiều nguồn tài liệu. Tất cả các tài liệu tham khảo đều có xuất xứ rõ ràng và được trích dẫn
hợp pháp.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung bài Tiểu luận của mình./.
Người thực hiện
Trần Nguyễn Khánh Như
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
NỘI DUNG....................................................................................................................................................... 2
I. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hợp đồng dân sự:........................................................... 2
1. Khái niệm của hợp đồng:................................................................................................................. 2
2. Bản chất của hợp đồng:.................................................................................................................... 2
2.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên:........................................................................... 2
2.2. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên:.................... 2
3. Đặc điểm của hợp đồng:................................................................................................................... 3
II. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:.............................................................................................. 3
1. Khái niệm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:...................................................................... 3
2. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:................................................................................... 4
2.1. Chủ thể tham gia hợp đồng có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân
sự:............................................................................................................................................................... 4
2.1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng là cá nhân:....................................................................... 4
2.1.2. Chủ thể tham gia hợp đồng là pháp nhân:.................................................................. 6
2.2. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện:............................................ 6
2.2.1. Hợp đồng được xác lập do giả tạo:............................................................................... 7
2.2.2. Hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn:..................................................................... 7
2.2.3. Hợp đồng được xác lập do bị lừa dối:.......................................................................... 8
2.2.4. Hợp đồng được xác lập do bị đe dọa:.......................................................................... 9
2.2.5. Hợp đồng được xác lập khi không nhận thức, điều khiển được hành vi:.......9
2.3. Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội:............................................................................................................... 9
2.4. Hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực nếu luật quy định:.................... 11
KẾT LUẬN.................................................................................................................................................... 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 13
1
LỜI MỞ ĐẦU
Hợp đồng mà một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để cá nhân, tổ chức trao đổi
lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cá nhân, xã hội của mình. Hợp đồng cũng đóng vai trị quan
trọng trong q trình vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ bản của sự
trao đổi hàng hóa trong xã hội. Tuy nhiên, các tranh chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày
một gia tăng và ngày càng phức tạp hơn do nhu cầu của con người ngày một đa dạng hóa.
Một trong những khó khăn chủ yếu của việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp
đồng dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Chính
vì vậy, những quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có vai trị quan trọng trong
việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự trong nền kinh tế thị trưởng hiện nay. Bởi,
chỉ khi có đầy đủ các điều kiện để có hiệu lực của hợp đồng thì quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể mới có thể phát sinh và được pháp luật bảo vệ. Căn cứ vào các quy định hiện
hành, để hợp đồng có hiệu lực cần được xác định tại nhiều thời điểm khác nhau, tùy
thuộc vào hình thức của hợp đồng, vào thỏa thuận của các bên, cũng như những quy định
khác của pháp luật chuyên ngành. Tuy nhiên, việc xác định điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng trên thực tế cũng như về mặt lý luận vẫn đang cịn gặp nhiều khó khăn và bất cập.
Đặc biệt là đối với những loại hợp đồng mà pháp luật buộc phải tuân thủ theo một hình
thức nhất định (buộc phải công chứng, hoặc buộc phải công chứng và đăng ký với cơ
quan có thẩm quyển). Đối với những loại hợp đồng đó, việc tn thủ hình thức là một yêu
cầu bắt buộc và là một trong những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực.
Do đó, để hiểu rõ hơn về vấn đề này, tôi xin chọn đề tài: “Điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam”.
2
NỘI DUNG
I. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hợp đồng dân sự:
1. Khái niệm của hợp đồng:
Điều 385 BLDS năm 2015 có quy định cụ thể về định nghĩa của hợp đồng như sau:
“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự.”
2. Bản chất của hợp đồng:
2.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên:
Khơng có hợp đồng nào được xác lập mà khơng dựa trên sự thỏa thuận và được tạo ra mà
thiểu yếu tố thỏa thuận. Có ý kiến cho rằng, “Yếu tố thỏa thuận của các chủ thể là tiền
đề của hợp đồng và được xem là tuyệt đối.”
Có thể hiểu, thỏa thuận là sự nhất trí chung được thể hiện ở chỗ khơng có một ý kiến đối
lập của bất cứ ai trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện
thông qua quá trình mọi quan điểm của các bên ấy đều phải được xem xét và dung hòa.
Bản chất của sự thỏa thuận là kết quả của sự thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí từ
mỗi bên chủ thể, tạo thành sự “đồng thuận” của các bên, nhằm đạt được một mục đích
xác định nào đó. Bởi thế, cũng có ý kiến cho rằng, “Thỏa thuận là sự trùng hợp ý muốn
của các bên về một điều gì đó mà các bên mong muốn đạt được.”
Tóm lại, thơng qua sự thỏa thuận của các bên mà làm nên hợp đồng, tức làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể trong hợp đồng đó. Vì vậy,
thỏa thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn tại của hợp
đồng.
2.2. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên:
Một sự thỏa thuận chưa thể xem là hợp đồng nếu không tạo nên hiệu lực ràng buộc giữa
các bên tham gia xác lập. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ mới, ngoài những quyền và nghĩa vụ mà luật đã định sẵn, hoặc
làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy.
Như vậy, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự thỏa
thuận nào của các bên cũng là hợp đồng. Chỉ những thỏa thuận tạo ra một sự ràng buộc
pháp lý mới được coi là hợp đồng. Cho nên, “sự thỏa thuận” và “sự tạo ra một ràng buộc
pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng. Nghiên cứu bản chất hợp
đồng là tiền lý luận để xác định các điều kiện có hiệu lực (hay tính hợp pháp) của hợp
đồng, nguyên tắc tự do hợp đồng, giá trị pháp lý của hợp đồng, trình tự giao kết hợp
3
đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và các vấn đề pháp lý quan trọng khác của chế
định hợp đồng, đặc biệt là hiệu lực của hợp đồng.
3. Đặc điểm của hợp đồng:
Hợp đồng là sự biểu lộ và thống nhất ý chí của ít nhất hai chủ thể đứng về các bên có
quyền và nghĩa vụ đối ứng nhau trong giao kết hợp đồng dân sự. Tuy các bên chủ thể có
sự khác biệt về lợi ích trong thỏa thuận, nhưng đều hướng tới mục tiêu cao nhất là hai bên
cùng có lợi. Để đạt được điều đó, các chủ thể phải bày tỏ ý chí của mình dưới một hình
thức nhất định.
Hợp đồng cịn là một sự kiện pháp lý tạo lập sự rằng buộc pháp lý giữa các bên nhằm
làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự dựa trên ý chí của
chính chủ thể giao kết hợp đồng. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng (bao
gồm cả trách nhiệm dân sự) do các bên thỏa thuận (trừ các quyền, nghĩa vụ được quy
định bởi pháp luật). Sự thỏa thuận giữa các chủ thể là điều kiện cần nhưng chưa đủ nếu
khơng có mục đích làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự. Bên
cạnh đó, mục đích của thỏa thuận khơng được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Thỏa thuận có hiệu lực là nguyên tắc bắt buộc đối với các bên trong hợp đồng, và
hiệu lực rằng buộc ấy là hiệu lực mang tính tương đối.
II. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:
1.
Khái niệm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là tổng hợp những yêu cầu pháp lý về năng lực chủ
thể, mục đích, nội dung của hợp đồng, sự tự nguyện của chủ thể tham gia giao kết và hình
thức của hợp đồng nhằm đảm bảo cho hợp đồng được lập ra có giá trị pháp lý và có hiệu
lực rằng buộc đối với các bên chủ thể liên quan.
Hợp đồng dân sự cũng là một loại giao dịch dân sự nên muốn có hiệu lực và giá trị
pháp lý thì hợp đồng dân sự phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự đã được Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cụ thể, rõ ràng tại Điều 117
BLDS như sau:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn tồn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
4
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định.”
2. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:
2.1. Chủ thể tham gia hợp đồng có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự:
2.1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng là cá nhân:
Tư cách chủ thể của cá nhân được xác định thông qua năng lực pháp luật dân sự và năng
lực hành vi dân sự của cá nhân đó. Trong khi năng lực pháp luật dân sự của mọi cá nhân
đều như nhau nên để xác định một cá nhân có đủ tư cách chủ thể để tham gia hợp đồng
dân sự hay không, chỉ cần xem xét mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân đó.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình để
xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự. Theo đó, yêu cầu về chủ thể tham gia
hợp đổng “có năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp
đồng có hiệu lực. Tuy vậy, khi cá nhân tham gia một hợp đồng dân sự, cần phải theo từng
trường hợp thể để xác định xem cá nhân đó có đủ năng lực hành vi để giao kết hợp đồng
đó hay khơng. Bởi năng lực hành vi dân sự để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng của
các chủ thể khác nhau là không giống nhau.
Trước hết, đối với người thành niên (người từ đủ 18 tuổi), BLDS năm 2015 có quy
định cụ thể và rõ ràng tại Điều 20 như sau:
“Người thành niên:
1.
Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên.
2. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại
các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này.”
Như vậy, người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người không bị mất năng lực hành
vi dân sự và không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ có toàn quyền tham gia vào mọi giao dịch dân sự và đồng thời phải gánh chịu mọi
trách nhiệm, nghĩa vụ phát sinh từ hành vi pháp lý mà họ thực hiện.
Theo quy định tại Điều 19 BLDS năm 2015, cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
thì được tự mình xác lập, thực hiện các hợp đồng dân sự. Cho nên, họ có tồn quyền tham
gia vào mọi giao dịch dân sự và đồng thời phải gánh chịu mọi trách nhiệm, nghĩa vụ phát
sinh từ hành vi pháp lý mà họ thực hiện. Nói cách khác, tư cách chủ thể của cá nhân khi
tham gia vào hợp đồng phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của họ.
Thứ hai, đối với nhóm người chưa thành niên, là những người chưa đủ 18 tuổi, BLDS
năm 2015 cũng có quy định cụ thể tại Điều 21 như sau:
5
“Người chưa thành niên:
1.
Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.
2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật
của người đó xác lập, thực hiện.
3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng
ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp
luật đồng ý.”
Có thể thấy, những người chưa thành niên là những người có năng lực hành vi dân sự bị
hạn chế, khi xác lập hợp đồng dân sự đòi hỏi phải được xác lập hoặc có sự đồng ý của
người đại diện hoặc người giám hộ, nếu khơng thi hợp đồng sẽ hồn tồn khơng có hiệu
lực. Cụ thể, đối với người chưa đủ 6 tuổi là người khơng có năng lực hành vi dân sự và
khơng có quyền tham gia xác lập và thực hiện mọi giao dịch dân sự, nên khi giao dịch
dân sự phải do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện (khoản 2
Điều 21). Đối với người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi (khoản 3 Điều 21). Còn đối với người từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự,
nhưng trừ các giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và
giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật
đồng ý (khoản 4 Điều 21).
Thứ ba, đối với người mất năng lực hành vi dân sự do mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi và được Tòa án ra quyết định tuyên
bố trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần thì giao dịch dân sự của họ phải do
người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện (Điều 22). Thêm vào đó, đối với người
hạn chế năng lực hành vi dân sự như người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích
khác và Tịa án ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự thì việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của họ phải có sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hằng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác (Điều 24). Như vậy, có thể nói khả năng
tham gia hợp đồng dân sự của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tương đương với
khả năng tham gia giao dịch dân sự của người có năng lực hành vi dân sự một phần. Nhìn
chung, để có thể xác lập, thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân phải có năng lực
hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hoặc loại hợp đồng mà chủ thể đó tham gia.
6
2.1.2. Chủ thể tham gia hợp đồng là pháp nhân:
Pháp nhân là những tổ chức có đủ các điều kiện được quy định tại Điều 74 BLDS 2015.
Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luật dân sự, có năng lực chủ thể mang
tính chun biệt, được tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với mục đích và
phạm vi hoạt động của pháp nhân. Mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhận được
thể hiện trong điều lệ, hoặc quyết định thành lập pháp nhân (Điều 77).
Có thể nói, pháp nhân là những thực thể xã hội chứ không phải là một con người tự
nhiên, nên năng lực hành vi dân sự của các chủ thể này không biểu hiện trực tiếp bằng
hành vi và ý chí như một con người cụ thể nào đó, mà được thể hiện bởi ý chung của các
thành viên và được thực hiện thông qua hành vi của người đại diện hoặc đại diện theo ủy
quyền. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể là người đứng đầu pháp nhân,
đối với pháp nhân là cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp. Cịn đối với pháp
nhân là doanh nghiệp thì người đại diện theo pháp luật là Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ
tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc, Tổng Giám đốc, tùy theo điều lệ và trong giấy
phép đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp đó. Người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân tham gia giao kết các hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền đại diện được xác định
trong quyết định thành lập pháp nhân hoặc trong điều lệ, nội quy hoạt động của pháp
nhân. Người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân là người được đại diện theo pháp luật
của pháp nhân ủy quyền, người này đại diện cho pháp nhân để tham gia các hợp đồng
dân sự trong phạm vi được ủy quyền. Bên cạnh đó, pháp nhân xác lập, thực hiện hợp
đồng thông qua người đại diện hợp pháp, nhưng phải đúng phạm vi đại diện và phải phù
hợp với giới hạn về lĩnh vực hoạt động của các chủ thể.
2.2. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện:
Chủ thể của hợp đồng dân sự có thể là cá nhân, pháp nhân, nhưng người trực tiếp tham
gia hợp đồng bao giờ cũng là con người cụ thể. Dù với tư cách cá nhân hay với tư cách
đại diện cho pháp nhân thì người tham gia hợp đồng cũng phải hồn tồn tự nguyện và
dùng chính ý chí của mình đề xác lập hợp đồng. Chỉ có hồn toàn tự nguyện trong việc
thỏa thuận thiết lập nội dung của hợp đồng thì các chủ thể mới đạt được mục đích từ hợp
đồng đó. Tự nguyện được hiểu là sự phù hợp, thống nhất giữa mong muốn bên trong với
sự bày tỏ mong muốn đó ra bên ngồi bằng một hình thức nhất định. Vì vậy, tự nguyện
trong xác lập hợp đồng được hiểu là sự phù hợp giữa mong muốn của một người với việc
họ tham gia một hợp đồng nhất định.
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho nên tự
nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Khơng có tự do ý chí
và bày tỏ ý chí thì khơng thể có tự nguyện. Nếu một trong hai yếu tố này khơng có hoặc
khơng thống nhất với nhau cũng khơng thể có tự nguyện. Vì vậy, giao dịch khơng có sự
tự nguyện sẽ khơng làm phát sinh hậu quả pháp lý.
7
Pháp luật dân sự Việt Nam dựa trên cơ sở tuyên bố ý chí để đưa ra những trường hợp hợp
đồng dân sự vô hiệu do xác lập thiếu sự tự nguyên của một trong các chủ thể, bao gồm:
a) Hợp đồng được xác lập do giả tạo;
b) Hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn;
c) Hợp đồng được xác lập do bị lừa dối;
d) Hợp đồng được xác lập do bị đe dọa;
e) Hợp đồng được xác lập khi không nhận thức, điều khiển được hành vi.
2.2.1. Hợp đồng được xác lập do giả tạo:
Theo Điều 124 BLDS năm 2015 quy định cụ thể như sau:
“Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:
1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch khác thì giao dịch dân sự giả tạo vơ hiệu, cịn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn
có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vơ hiệu theo quy định của Bộ luật này
hoặc luật khác có liên quan.
2. Trong trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ
với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vơ hiệu.”
Như vậy, có thể hiểu, hợp đồng giả tạo là hợp đồng được các bên giao kết một cách hình
thức, khơng nhằm làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên mà chỉ nhằm
che giấu một hợp đồng có thực khác hoặc hoặc che đậy một hành vi trái pháp luật của
một hay nhiều bên, cũng có thể nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Hợp đồng
xác lập do giả tạo không phản ánh đúng bản chất quan hệ đích thực giữa các bên trong
hợp đồng. Đó là loại hợp đồng mà việc thể hiện ý chí ra bên ngồi khác với ý chí nội tâm
và kết quả thực hiện của các bên tham gia. Có hai dạng hợp đồng giả tạo, đó là “hợp
đồng giả cách” và “hợp đồng tưởng tưởng”.
2.2.2. Hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn:
Theo Điều 126 BLDS năm 2015 có quy định cụ thể như sau:
“Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn:
1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc
các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có
quyền u cầu Tịa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này.
8
2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn khơng vơ hiệu trong trường hợp
mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc
phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn
đạt được.”
Như vậy, ta có thể hiểu, Hợp đồng được xác lập do nhầm lẫn là trường hợp một hoặc các
bên chủ thể khơng có sự thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí, những gì thể hiện ra
bên ngồi dưới dạng các cam kết, thỏa thuận không phản ánh đúng những điều mà chủ
thể đã biết và mong muốn đạt được khi xác lập hợp đồng. Hay nói cụ thể hơn, đó là việc
một hoặc các bên hình dung sai về sự việc, chủ thể, đối tượng hoặc các nội dung của hợp
đồng nên đã xác lập hợp đồng trái với ý nguyện đích thực của mình. Một số kiểu nhầm
lẫn thường thấy khi xác lập hợp đòng như: nhầm lẫn con số, nhầm lẫn đơn vị đo lường,
nhầm lẫn đối tượng giao dịch, nhầm lẫn về đối tác…
2.2.3. Hợp đồng được xác lập do bị lừa dối:
Theo đoạn 2 Điều 127 BLDS năm 2015 có quy định cụ thể như sau: “Lừa dối trong
giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên
kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự
nên đã xác lập giao dịch đó.”
Bên cạnh đó, biểu hiện của sự lừa dối là hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật khiến
cho bên kia tin vào các thơng tin đó mà xác lập hợp đồng bất lợi cho họ hoặc trái với
nguyện vọng đích thực của họ. Pháp luật Việt Nam quy định ba trường hợp lừa dối là lừa
dối về chủ thể, lừa dối về đối tượng và lừa dối về nội dung của hợp đồng. Khi xem xét
hành vi lừa dối, Tịa án thuờng khơng chỉ dựa vào tính chất cố ý cung cấp thông sai sự
thật của một bên mà cịn dựa vào hồn cảnh cụ thể và khả năng nhận thức, hiểu biết của
bên kia so với một người có năng lực nhận thức bình thường. Vấn đề có hay khơng có sự
cố ý cung cấp thơng tin sai sự thật cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét
xử. Một hành vi cung cấp thông tin sai sự thật được hiểu là một bên cố ý nói cho bên kia
biết những thơng tin về chủ thể, đối tượng, nội dung của hợp đồng mà những thông tin
ấy là không đúng với thực tế khách quan, nhưng mức độ sai lệch tới đâu là lừa dối, thì có
nhiều cách hiểu. Một sự im lặng thường cũng không bị coi là lừa dối. Nhưng nếu bên
cung cấp thơng tin có nghĩa vụ phải cung cấp thơng tin mà vẫn im lặng nhằm mục đích
bỏ qua sự thật thì cũng bị coi là có lừa dối, hoặc chí ít cũng có lỗi làm bên kia nhầm lẫn
mà giao kết hợp đồng.
Hợp đồng giao kết do bị lừa dối có thể bị tịa án tun bố vơ hiệu khi sự lừa dối đó do
hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba gây ra và đó là nguyên nhân làm cho
bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng mà
giao kết hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực của họ.
9
2.2.4. Hợp đồng được xác lập do bị đe dọa:
Theo đoạn 3 Điều 127 BLDS năm 2015 có quy định cụ thể như sau: “Đe dọa, cưỡng ép
trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia
buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.”. Chẳng
hạn như, A dùng dao kề vào cổ B và buộc B phải ký hợp đồng bán cho A một tài sản nào
đó.
2.2.5. Hợp đồng được xác lập khi khơng nhận thức, điều khiển được hành vi:
Theo Điều 128 BLDS năm 2015 có quy định cụ thể như sau: “Người có năng lực hành
vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình thì có quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự đó là vơ
hiệu.”
Từ đó, ta có thể hiểu, người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào
đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền u
cầu Tồ án tun bố giao dịch dân sự đó là vơ hiệu. Một người bình thường, vào thời
điểm giao kết hợp đồng đã ở trong tình trạng khơng nhận thức, điều khiển được hành vi
của mình hoặc đang sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích khác dẫn đến việc mất
khả năng nhận thức tạm thời thì được xem là không tự nguyện xác lập, giao kết hợp
đồng. Vấn đề pháp lý đặt ra ở đây là người này phải chứng minh được vào lúc xác lập
hợp đồng, họ đang ở trong tình trạng khơng có khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi của mình.
Có thể nói rằng, tự nguyện giao kết hợp đồng là yếu tố cơ bản để các bên chủ thể xác lập
quan hệ hợp đồng, vì bản chất của hợp đồng vốn là sự thống nhất ý chí của các bên
thơng qua sự thỏa thuận tự do và tự nguyện. Do vậy, hợp đồng xác lập thiếu yếu tố tự
ngun thì đương nhiên vơ hiệu.
2.3. Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội:
Mặc dù pháp luật luôn thừa nhận nguyên tắc tự do trong cam kết, thỏa thuận, nhưng để
bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của con
người, thì BLDS năm 2015 cũng quy định một số trường hợp hạn chế quyền tự do của
các bên chủ thể trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, mục đích và nội dung của hợp
đồng “không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội” (Điểm c,
khoản 1 Điều 117). Hợp đồng có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội thì vơ hiệu (Điều 123).
Mục đích của hợp đồng là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập
hợp đồng (Điều 118 BLDS năm 2015). Nhưng để đạt được mong muốn đó, các bên phải
thỏa thuận về một nội dung tương ứng. Và nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều
10
khoản trong hợp đồng mà các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận và các
điều khoản này làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên (khoản 2 Điều 398 BLDS năm
2015). Mục đích và nội dung của hợp đồng dân sự là hai yếu tố ln có mối liên hệ chặt
chẽ, hữu cơ với nhau. Con người xác lập, thực hiện giao dịch dân sự ln nhằm đạt được
mục đích nhất định. Muốn đạt được mục đích đó, các bên chủ thể phải cam kết, thỏa
thuận về nội dung và ngược lại những cam kết, thỏa thuận về nội dụng của họ là để đạt
được mục đích giao dịch.
Cịn về điều cấm của pháp luật, đó là những quy định của pháp luật khơng cho phép chủ
thể thực hiện một số hành vi nhất định. Và đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử
chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn
trọng. Để hợp đồng có hiệu lực thì mục đích của hợp đồng phải đáp ứng được hai điều
kiện, đó là khơng vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Hợp
đồng có mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật thì đương nhiên vơ hiệu. Ví dụ: hợp
đồng chuyển quyền sở hữu nhà ở có mục đích là bán nhà, nhưng thực tế hợp đồng lại ghi
là trao đổi nhà ở (nhằm mục đích trốn thuế thu nhập) thì bị pháp luật cấm, nên khơng có
hiệu lực từ thời điểm giao kết. Hợp đồng cũng không được trái với các chuẩn mực, đạo
đức xã hội. Trong mỗi một xã hội ln có những quan niệm của riêng về đạo đức, nên
khơng có đạo đức chung mà chỉ có đạo đức xã hội. Tuy thế, phạm trù “đạo đức” vẫn khá
trừu tượng và không phải là bất biến, đôi khi phụ thuộc rất lớn vào nhận thức chủ quan
của mỗi con người. Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, vấn đề như thế nào là hợp
đồng trái với “đạo đức xã hội” hiện vẫn còn nhiều tranh cãi. Có quan điểm cho rằng, quy
phạm đạo đức là loại quy phạm vừa mang tính chủ quan của mỗi con người, vừa mang
tính xã hội và tính giai cấp sâu sắc. Bên cạnh đó đạo đức cịn mang tính dân tộc và tính
hiện đại. Vì lẽ đó mà, một hợp đồng muốn được coi là hiệu lực pháp luật thì hợp đồng
đó chỉ lưu thơng trao đổi các tài sản được phép giao dịch hoặc thực hiện các công việc
không bị pháp luật cấm và không phạm vào sự ứng xử chung được cộng đồng thừa nhận
và tôn trọng.
Khái niệm nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất rộng. Khi xem xét về nội dung và
mục đích của hợp đồng dân sự cũng cần phải nhìn vào tính xác thực của nó có khả thi hay
khơng. Tính xác thực và tính khả thi của hợp đồng dân sự chính là tính xác thực và tính
khả thi của các điều khoản có trong hợp đồng dân sự. Chẳng hạn: đối tượng của hợp đồng
là tài sản hay công việc; số lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và phương thức thanh
tốn; thời hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng. Bất kỳ điều khoản nào trong số đó vi phạm
điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì cả hợp đồng cũng bị coi là vơ hiệu và
khơng có giá trị pháp lý.
Tóm lại, các yếu tố chủ thể, nội dung và mục đích, sự tự nguyện của các bên là những yếu
tố quan trọng góp phần vào q trình hình thành và có hiệu lực của hợp đồng. Năng lực
hành vi của chủ thể là yếu tố nhằm đảm bảo chủ thể có tư cách độc lập để tự mình
11
xác lập, thực hiện hợp đồng. Tự nguyện là yếu tố đảm bảm cho hợp đồng được tạo ra
đúng ý chí đích thực của các bên khi xác lập. Nội dung và mục đích là những điều khoản,
căn cứ để thực hiện hợp đồng. Bởi vậy, đây là ba yếu tố pháp lý quan trọng được pháp
luật quy định trong Bộ Luật dân sự và là điều kiện bắt buộc của mọi hợp đồng.
2.4. Hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực nếu luật quy định:
Điều kiện về hình thức của hợp đồng cũng là một yếu tố pháp lý quan trọng trong việc
làm cho hợp đồng phát sinh hiệu lực. Nó có quan hệ biện chứng với bản chất, nội dung,
giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và là phương tiện để diễn đạt ý chí
của các bên chủ thể, cũng như để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng. Người ta sẽ
không biết đến sự tồn tại của hợp đồng, nếu nó khơng được thể hiện dưới một hình thức
xác định.
Có thể nói, hình thức của hợp đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài nội dung của hợp đồng,
gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để thể hiện và cơng bố ý chí của các
bên, ghi nhận nội dung hợp đồng. Bộ Luật dân sự Việt Nam cũng có quy định rõ về hình
thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tại khoản 2 Điều 117 và Điều 119. Trong đó,
Điều 119 đã quy định cụ thể như sau:
“1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thơng điệp dữ liệu
theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có
cơng chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tn theo quy định đó.”
Trong thực tế, việc giao kết hợp đồng bằng lời nói được sử dụng khá phổ biến trong giao
dịch dân sự, bởi nó có ưu điểm là cách thức giao kết đơn giản, nhanh chóng, ít tốn kém
và tiết kiệm thời gian. Cũng vì sự tiện lợi của cách thức giao kết này mà trên thực tế, có
nhiều hợp đồng đáng lẽ phải được lập bằng văn bản hoặc bằng văn bản có công chứng
hoặc chứng thực (chẳng hạn như hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng thuê bất động sản),
nhưng để đơn giản, các bên cũng thường xác lập dưới hình thức lời nói. Điều này đã dẫn
đến những hệ lụy và tranh chấp khó giải quyết về sau. Chẳng hạn như các vụ án tranh
chấp về đòi tài sản, đất đai. Hơn nữa, có rất nhiều vụ tranh chấp liên quan đến hình thức
của hợp đồng. Điều đó cũng nói lên nhược điểm của loại hình thức này là khơng bảo đảm
sự an toàn pháp lý cho các bên, giá trị chứng minh khơng cao và dễ dẫn đến tình trạng
phủ nhận của các bên về sự tồn tại của hợp đồng nếu các bên khơng có bằng chứng để
chứng minh về sự tồn tại của hợp đồng đó.
Khác với hợp đồng bằng lời nói vốn khơng thể để lại bằng chứng, thì hợp đồng bằng văn
bản đảm bảo sự thể hiện rõ ràng ý chí các bên cũng như nội dung của từng điều khoản hợp
đồng mà các bên muốn cam kết. Ngoài ra, hợp đồng bằng văn bản cũng có thể trở
12
thành bằng chứng hữu hiệu khi các bên có sự tranh chấp, vì đây là hình thức có khả năng
lưu giữ được ở trạng thái gần như nguyên vẹn trong một thời gian dài. Bởi vậy mà các
hợp đồng quan trọng, hoặc có giá trị lớn, có nội dung phức tạp hoặc có thời hạn thực
hiện lâu dài... thì đều được các bên chọn làm hình thức để thể hiện.
KẾT LUẬN
Như vậy, ta khơng thể phủ nhận vai trị to lớn và quan trọng của pháp luật về giao dịch
dân sự nói chung, hợp đồng và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nói riêng trong việc
xem xét và điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự. Bên cạnh đó, cịn giúp bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia vào quan hệ này, góp phần đảm bảo an tồn, ổn
định trật tự, an ninh xã hội của đất nước.
Trên những cơ sở nghiên cứu và pháp luật Việt Nam, Tiểu luận đã phần nào phân tích
những vấn đề lý luận cơ bản về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật dân sự
Việt Nam. Theo đó, hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng nhằm làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia xác lập hợp đồng dân sự. Hiệu
lực rằng buộc mang tính cưỡng chế của hợp đồng nhằm buộc các bên phải tôn trọng và
phải thi hành nghiêm chỉnh các quyền và nghĩa vụ đó. Hiệu lực của hợp đồng cũng là
nội dung cốt lõi thể hiện bản chất của hợp đồng.
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng với tính chất là điều kiện để đảm bảo cho hợp
đồng mang tính hợp pháp và có giá trị pháp lý cao. Vấn đề về các điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng cũng được quy định rất cụ thể, rõ ràng trong Bộ Luật dân sự Việt Nam.
13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015.
2. Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần
thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Trường Đại học Luật TP.HCM, Nhà xuất bản Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, năm 2019.
3. Phan Tấn Pháp (2002), Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức, Tạp chí Tịa án nhân dân, (số 5).
4. Ngô Huy Cương, Khái niệm hiệu lực của nghĩa vụ và vấn đề thực hiện nghĩa vụ,
Nhà nước và Pháp luật, số 8/2008.
5. Nguyễn Văn Cường, Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch
dân
sự vô hiệu, Luận án Thạc sỹ Luật học, ĐH Luật Hà Hội, năm 2005.
6. Bùi Ngọc Cường, Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam, Nhà
nước và Pháp luật số 5 (205) tháng 5/2005.
7.
Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà Nội. Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long).