1
NCS chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên là đúng sự thực.
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN .......................................................................................... 12
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ................. 12
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................................................ 24
1.3. KHÁI QUÁT VỀ TIỀN GIẤY NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM .................................................................................................................................... 40
CHƯƠNG 2. BIỂU TƯỢNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT
NAM .................................................................................................................................... 48
2.1. NHẬN DIỆN BIỂU TƯỢNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRÊN TIỀN GIẦY VIỆT
NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ........................................................................... 48
2.2. Ý NGHĨA VĂN HÓA CỦA BIỂU TƯỢNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRÊN TIỀN
GIẤY VIỆT NAM ............................................................................................................... 57
CHƯƠNG 3. BIỂU TƯỢNG CON NGƯỜI TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM ............ 76
3.1. NHẬN DIỆN BIỂU TƯỢNG CON NGƯỜI TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT NAM QUA
CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ............................................................................................... 76
3.2. Ý NGHĨA VĂN HÓA CỦA BIỂU TƯỢNG CON NGƯỜI TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT
NAM .................................................................................................................................... 82
CHƯƠNG 4. BIỂU TƯỢNG QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC TRÊN TIỀN GIẤY VIỆT
NAM .................................................................................................................................. 104
4.1. NHẬN DIỆN BIỂU TƯỢNG QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC TRÊN TIỀN GIẦY VIỆT
NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ......................................................................... 104
4.2. Ý NGHĨA VĂN HÓA CỦA BIỂU TƯỢNG QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC .............. 113
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 133
DANH MỤC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .................................... 139
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................... 139
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 140
PHỤ LỤC.............................................................ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BBPV
: biên bản phỏng vấn
CNXH
: chủ nghĩa xã hội
DCCH
: dân chủ cộng hòa
đ
: đồng
NCS
: Nghiên cứu sinh
NHQGVN
: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
Nxb
: Nhà xuất bản
Tiền giấy Việt Nam
: Tiền giấy nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
tr
: trang
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiền giấy không chỉ là phương tiện định giá giá trị vật chất trao đổi, thực
hiện các chức năng thanh tốn, lưu thơng…, mà cịn mang giá trị văn hóa - lịch
sử. Trong lịch sử tiền tệ thế giới, những sự thay đổi về thể chế chính trị, kinh
tế, xã hội và đặc trưng văn hóa của mỗi quốc gia đều được thể hiện trên các tờ
tiền. Nhìn vào hệ thống tiền giấy, chúng ta có thể thấy được đặc điểm chính trị,
văn hóa, kinh tế, xã hội của mỗi đất nước trong các giai đoạn phát triển.
Ở Việt Nam, tiền giấy cũng phản ánh rõ nét đặc trưng văn hoá dân tộc
và đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước trong các giai đoạn lịch sử
từ năm 1945 đến nay. Dù có sự thay đổi khá nhiều về hình thức, chất liệu, kỹ
thuật in, với nhiều mệnh giá và nhiều mẫu tiền, tính từ những tờ giấy bạc Việt
Nam đầu tiên đến bộ tiền hiện hành, nhưng hệ thống tiền giấy Việt Nam vẫn là
một dòng chảy liền mạch, thể hiện bản sắc văn hố dân tộc thơng qua các biểu
tượng văn hoá trên các tờ tiền. Mỗi tờ tiền được thiết kế theo những yêu cầu,
quy chuẩn riêng về chất lượng, kỹ thuật, đồng thời cũng gửi gắm những thơng
điệp văn hố, chính trị thơng qua những hình ảnh, biểu tượng văn hoá, cho nên
tiền giấy là một sản phẩm văn hố đặc biệt. Chính vì thế những hình ảnh, chủ
đề được thể hiện trên 2 mặt của tờ tiền đều được lựa chọn kỹ càng, là những
biểu tượng văn hố tiêu biểu, được hình thành trong tâm thức của cả cộng đồng
dân tộc và có sự liên kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau về nội dung, ý nghĩa nhằm
chuyển tải thơng điệp văn hóa, cũng như thể hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng,
Nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử.
Trên thực tế, tiền giấy Việt Nam còn đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử lớn lao,
vừa khẳng định chủ quyền về lĩnh vực tiền tệ, vừa khẳng định chủ quyền văn
hoá của một đất nước độc lập. Sau thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, giấy bạc Việt Nam chính thức được
phát hành. Từ đây, Việt Nam có đồng tiền riêng của mình với các hình ảnh tiêu
5
biểu về đất nước, con người Việt Nam, thể hiện những thơng điệp rõ ràng, cụ
thể về thể chế chính trị, về đặc trưng văn hoá và quyền độc lập, tự chủ trên các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội.
Trong lịch sử Việt Nam, tiền giấy là một thực thể lưu truyền văn hoá dân
tộc. Trên các tờ tiền đều thể hiện những hình ảnh tiêu biểu về đất nước, con
người Việt Nam được khái quát thành các biểu tượng, cùng với các hoa văn,
hoạ tiết trang trí,... đã thể hiện rõ nét đặc trưng văn hoá dân tộc và các giá trị
văn hóa tốt đẹp được đúc kết từ truyền thống đến hiện đại và gắn liền với những
biến động lịch sử. Mỗi biểu tượng văn hoá trên các tờ tiền đều hội tụ những giá
trị văn hoá Việt Nam và chứa đựng ý nghĩa vượt ra ngoài hình thức thực tế mà
chúng thể hiện. Bởi vậy, mỗi tờ tiền được coi như một “bản vẽ văn hoá thu
nhỏ” về đất nước và con người Việt Nam.
Nghiên cứu về đồng tiền Việt Nam là lĩnh vực thu hút nhiều sự quan tâm
và đã có nhiều tài liệu nghiên cứu, nhưng chủ yếu tiếp cận dưới góc độ lịch sử,
xã hội, kinh tế, kỹ thuật, mỹ thuật, chứ chưa có nhiều cơng trình tiếp cận từ góc
độ văn hóa, cụ thể hơn là biểu tượng văn hóa. Trên thực tế, tiền giấy cũng mới
được quan tâm chủ yếu ở giá trị vật chất, kinh tế, mà chưa được chú ý nhiều về
giá trị văn hóa. Một phần nguyên nhân cũng là do chưa có nhiều cơng trình
nghiên cứu về giá trị văn hoá của tiền giấy, một phần khác là do người dân chưa
được tiếp cận đầy đủ về các khía cạnh giá trị của tiền giấy.
Chính vì vậy, tìm hiểu và giải mã được các biểu tượng văn hố trên tiền
giấy sẽ góp phần luận giải được ý nghĩa của một số biểu tượng văn hóa quốc
gia trong giai đoạn cận - hiện đại, tìm hiểu được thơng điệp văn hóa trên hệ
thống tiền giấy Việt Nam và khẳng định được giá trị văn hoá của tiền giấy cũng
như bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện trên những tờ tiền.
Đó là lý do NCS chọn nghiên cứu đề tài “Biểu tượng văn hoá trên hệ
thống tiền giấy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, với các bộ tiền
giấy được phát hành từ năm 1945 đến nay.
6
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đưa ra những vấn đề lý luận, lý thuyết về biểu tượng văn hố;
thơng qua cách thức thể hiện hình ảnh chủ đề trên tiền giấy nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, tiền thân là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (sau
đây gọi tắt là tiền giấy Việt Nam), luận án sẽ nhận diện các biểu tượng văn hoá
trên tiền giấy, và phân tích, giải mã các biểu tượng để thấy được ý nghĩa của
biểu tượng và đặc trưng văn hóa Việt được thể hiện trên hệ thống tiền giấy.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về biểu tượng, biểu tượng văn hoá, tiền
giấy và các khái niệm liên quan. Khái quát lịch sử tiền giấy Việt Nam và bối
cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội của đất nước, làm cơ sở nhận diện thông điệp trên
các tờ tiền.
- Nhận diện 03 biểu tượng văn hố chính trên tiền giấy Việt Nam và cách
thức thể hiện 03 biểu tượng văn hoá này trên các mẫu tiền.
- So sánh, đối chiếu và luận giải ý nghĩa của 03 biểu tượng văn hoá trên
hệ thống tiền giấy Việt Nam từ năm 1945 đến nay, từ đó thấy được đặc trưng
văn hoá dân tộc thể hiện trên tiền giấy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Ba biểu tượng văn hóa tiêu biểu trên hệ thống tiền giấy nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: biểu tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu tượng con
người và biểu tượng quê hương, đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong hệ thống tiền giấy do nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiền thân là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
phát hành từ năm 1945 đến năm 2021, được lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam.
Không bao gồm những giấy tờ có giá được phát hành ở một số địa phương
trước năm 1975.
7
Về phạm vi biểu tượng nghiên cứu: Có thể thấy có nhiều hình ảnh chủ
đề được thể hiện trên 02 mặt của tờ tiền đều mang tính biểu tượng cho văn hóa
dân tộc như: Quốc huy, Quốc hiệu, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình ảnh
đất nước, con người Việt Nam, cùng với các hoa văn, hoạ tiết trang trí. Mỗi
biểu tượng đều có ý nghĩa và giá trị quan trọng, tuy nhiên NCS lựa chọn 03
biểu tượng văn hố chính để nghiên cứu là: biểu tượng chân dung Chủ tịch Hồ
Chí Minh, biểu tượng con người và biểu tượng q hương, đất nước vì 03 biểu
tượng văn hố này được thể hiện xuyên suốt trong hệ thống tiền giấy Việt Nam,
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về ý nghĩa văn hố, chính trị, đồng thời thể
hiện rất rõ bản sắc và tâm thức văn hoá dân tộc.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về văn hóa và vai trị của văn hố trong q trình phát triển xã
hội. Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
triết học Mác - Lênin, gắn với bối cảnh cụ thể và quan điểm, đường lối của
Đảng trong từng giai đoạn lịch sử, luận án phân tích, giải mã các biểu tượng
văn hóa với góc nhìn khách quan, tồn diện để xác định đặc điểm, cách thức
thể hiện biểu tượng và giải mã ý nghĩa văn hóa của 03 biểu tượng trên hệ thống
tiền giấy Việt Nam.
Bên cạnh đó, NCS sử dụng cách tiếp cận liên ngành văn hố, lịch sử,
chính trị, mỹ thuật để nghiên cứu biểu tượng văn hoá trên tiền giấy Việt Nam,
vì nghiên cứu biểu tượng văn hoá là lĩnh vực liên ngành. Cụ thể là nghiên cứu
biểu tượng trên tiền giấy gắn liền với bối cảnh lịch sử, chính trị của đất nước
và nghệ thuật thể hiện biểu tượng trên tiền giấy để thấy được tác động của tâm
thức văn hoá, tư duy thẩm mỹ và những yếu tố lịch sử, chính trị đến việc lựa
chọn, thể hiện biểu tượng trên tiền giấy, cùng với những thông điệp và ý nghĩa
của chúng.
8
- Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp: NCS sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp để phân tích các đặc điểm nghệ thuật, cách thức thể hiện 03 biểu
tượng văn hóa trên tiền giấy (đường nét, bố cục, màu sắc…), gắn với bối cảnh
chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước trong từng giai đoạn, từ đó tổng hợp
những đặc điểm nổi bật để giải mã ý nghĩa của các biểu tượng. Ngoài ra NCS
phân tích và tổng hợp các ý kiến chuyên gia và những tài liệu liên quan đến
biểu tượng văn hố trên tiền giấy..., từ đó đánh giá, phân loại tài liệu nhằm luận
giải các vấn liên quan đến biểu tượng văn hoá trên hệ thống tiền giấy Việt Nam.
+ Phương pháp khảo sát, thống kê, mô tả: NCS tiến hành khảo sát 104
bản mẫu tiền giấy Việt Nam từ năm 1945 đến nay để mô tả cụ thể các hình ảnh
chính trên tiền giấy (các hình ảnh nào xuất hiện trên mặt trước, mặt sau của
từng mẫu tiền, đặc điểm của từng hình ảnh trên tiền); thống kê tần suất xuất
hiện các biểu tượng trên các tờ tiền, vị trí thể hiện, góc độ thể hiện, cách thức
thể hiện các biểu tượng (màu sắc, không gian, bố cục), thống kê từng đặc điểm
riêng của mỗi biểu tượng (số lần xuất hiện các giai cấp, tầng lớp trên tiền giấy;
số lần xuất hiện các chủ đề về phong cảnh, về hoạt động lao động sản xuất,…)
để đánh giá được đặc điểm của các biểu tượng, gắn với bối cảnh xã hội để làm
nền tảng nhận diện ý nghĩa của các biểu tượng trên tiền giấy Việt Nam.
+ Phương pháp so sánh - đối chiếu: Để làm rõ giá trị, ý nghĩa các biểu
tượng văn hoá trên hệ thống tiền giấy Việt Nam, NCS sẽ sử dụng phương pháp
so sánh, đối chiếu sự giống nhau, khác nhau giữa các hình thức, cách thức, tần
suất xuất hiện các biểu tượng trong từng giai đoạn tiền giấy, từ đó thấy được sự
thay đổi, biến chuyển các biểu tượng văn hoá trên tiền giấy Việt Nam trong các
giai đoạn lịch sử. Tiến hành so sánh, đối chiếu cách thể hiện 03 biểu tượng văn
hóa (chân dung, con người, phong cảnh) trên tiền giấy Việt Nam với việc thể
hiện các biểu tượng văn hố đó trên tiền giấy của một số nước (châu Âu, châu
9
Á, châu Mỹ), tiền Đông Dương, tiền của chế độ Việt Nam Cộng hoà và trên
một số sản phẩm văn hố khác (tem thư, tranh vẽ). Từ đó phân tích, nhận diện
đặc điểm khác biệt và ý nghĩa của biểu tượng văn hoá trên tiền giấy Việt Nam
và sự thay đổi biểu tượng văn hoá trên hệ thống tiền giấy Việt Nam.
+ Phương pháp nghiên cứu định tính: NCS sử dụng các thao tác nghiên
cứu phỏng vấn sâu, hồi cố và tham vấn ý kiến chuyên gia. NCS phỏng vấn sâu
02 hoạ sĩ thiết kế tiền về: ý tưởng thiết kế tiền giấy, ý nghĩa các biểu tượng trên
tiền giấy…, 02 cán bộ làm cơng tác văn hóa để đưa ra đánh giá về các biểu
tượng trên tiền giấy; hồi cố và tham vấn ý kiến 09 họa sĩ và 03 cán bộ nguyên
lãnh đạo ngân hàng thông qua một số các tài liệu đã xuất bản (do có nhiều hoạ
sĩ đã mất). Từ đó có căn cứ làm rõ giá trị văn hoá của tiền giấy Việt Nam và
các ý nghĩa, thông điệp được thể hiện qua biểu tượng văn hoá trên tiền giấy.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Các biểu tượng văn hóa in trên tiền giấy Việt Nam từ năm 1945 đến
năm 2021 và sự chuyển biến của các biểu tượng này qua các thời kỳ được thể
hiện như thế nào?
- Ý nghĩa của các biểu tượng văn hóa in trên tiền giấy Việt Nam thể hiện
những giá trị, đặc trưng gì của văn hóa dân tộc Việt Nam?
7. Giả thuyết nghiên cứu
- 03 biểu tượng văn hoá trọng tâm trên tiền giấy Việt Nam từ năm 1945
đến nay có sự chuyển biến nhằm phản ánh mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của đất
nước trong các giai đoạn lịch sử, nhưng ln có tính thống nhất cao.
- Các biểu tượng văn hoá trên tiền giấy Việt Nam đều mang thông điệp,
ý nghĩa sâu sắc, thể hiện tâm thức và bản sắc văn hoá dân tộc.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
8.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án đóng góp một số nội dung về nghiên cứu biểu tượng văn hóa
trên tiền giấy Việt Nam như hệ thống hóa tư liệu về biểu tượng văn hóa trên
10
tiền giấy; xác định được 03 biểu tượng văn hóa chính được thể hiện xuyên suốt
và thống nhất trên tiền giấy Việt Nam.
- Luận giải ý nghĩa văn hóa của 03 biểu tượng trên tiền giấy, xác định
được đây là các yếu tố quan trọng của tiền giấy, có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau và thể hiện được đặc trưng văn hóa dân tộc.
- Nhận diện được sự chuyển biến của các biểu tượng văn hóa trên tiền
giấy Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử luôn gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ
chính trị của đất nước và có sự tiếp biến văn hóa trong giai đoạn cận hiện đại.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần nâng cao nhận thức chung của xã hội về giá trị văn hố của
tiền giấy Việt Nam.
- Có thể ứng dụng vào thực tiễn, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, giá trị
văn hoá của tiền giấy Việt Nam đến bạn bè quốc tế, nhằm nâng cao giá trị đồng
tiền Việt Nam.
- Có thể đóng góp nội dung, làm phong phú hơn các nghiên cứu về tiền
giấy Việt Nam.
9. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận án kết cấu làm 4 chương.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn
của luận án
Trong chương này, NCS tổng hợp cơ sở lý thuyết và một số khái niệm
liên quan đến biểu tượng, ký hiệu học và lịch sử tiền giấy Việt Nam; tổng quan
các cơng trình nghiên cứu đi trước của các học giả trên thế giới và ở Việt Nam
về lý thuyết, lý luận biểu tượng học, ký hiệu học và các nghiên cứu thực tiễn
về biểu tượng văn hoá và tiền giấy Việt Nam. Dựa trên cơ sở lý thuyết ký hiệu
học, NCS tiếp cận các biểu tượng văn hóa như là một yếu tố của ký hiệu để tìm
hiểu các tầng ý nghĩa của biểu tượng, đặc điểm về thể chế chính trị, truyền
11
thống và bản sắc văn hoá dân tộc gắn với lịch sử tiền giấy ở Việt Nam. Hệ
thống tiền giấy được phân kỳ căn cứ vào tình hình lịch sử, văn hố của từng
giai đoạn, từ đó có thể giải mã ý nghĩa, giá trị của các biểu tượng văn hoá trọng
tâm trên tiền giấy Việt Nam.
Chương 2. Biểu tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy Việt Nam
Trong Chương 2, NCS phân tích, giải mã biểu tượng Chủ tịch Hồ Chí
Minh trên tiền giấy trong 03 giai đoạn lịch sử thể hiện trên tất cả các mẫu tiền
từ năm 1945 đến nay. Thông qua việc thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá
các yếu tố: tần suất xuất hiện, nghệ thuật thể hiện, vị trí, góc độ và cách thức
thể hiện chân dung Bác trên tiền giấy Việt Nam, từ đó nhận diện và nêu ý
nghĩa, giá trị văn hóa của biểu tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên tiền giấy Việt
Nam.
Chương 3. Biểu tượng con người trên tiền giấy Việt Nam
NCS khảo sát, nhận diện biểu tượng con người trên hệ thống tiền giấy
Việt Nam thông qua nghệ thuật, cách thức thể hiện con người Việt Nam trên
104 mẫu tiền từ năm 1945 đến nay, đồng thời gắn với bối cảnh lịch sử để thấy
được ý nghĩa của biểu tượng con người trên tiền giấy. Trong mỗi giai đoạn lịch
sử, hình ảnh con người mới trên tiền giấy được thể hiện có sự khác nhau rõ nét,
phản ánh mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn, cũng thể hiện tư duy
thẩm mỹ, đặc trưng văn hoá của dân tộc.
Chương 4. Biểu tượng quê hương, đất nước trên tiền giấy Việt Nam
Qua khảo sát, phân tích tần suất xuất hiện, nghệ thuật và cách thức thể
hiện hình ảnh quê hương, đất nước trên tiền giấy Việt Nam, NCS nhận diện,
phân tích và tìm hiểu ý nghĩa của các hình ảnh quê hương, đất nước Việt Nam
được biểu tượng hóa trên tiền giấy. Đây là một trong 03 biểu tượng chính trên
tiền giấy Việt Nam đươc thể hiện phong phú, đa dạng về chủ đề, cách thức song
vẫn có sự thống nhất cao, thể hiện xuyên suốt hệ tư tưởng, tư duy thẩm mỹ và
đặc trưng văn hoá dân tộc.
12
Chương 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu liên quan đến biểu tượng
văn hoá trên tiền giấy Việt Nam, để thuận lợi trong việc đánh giá, phân tích các
nội dung của luận án, NCS chia thành 02 nhóm là những cơng trình nghiên cứu
về lý thuyết, lý luận về biểu tượng học, ký hiệu học và những cơng trình nghiên
cứu về thực tiễn về biểu tượng văn hóa và tiền giấy Việt Nam.
1.1.1. Những nghiên cứu lý thuyết, lý luận về biểu tượng học, ký hiệu học
Trên thế giới, nghiên cứu biểu tượng dù đã xuất hiện từ trước Công
nguyên, nhưng đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nghiên cứu biểu tượng
mới được coi như một ngành khoa học độc lập. Còn ở Việt Nam, khoa học
nghiên cứu biểu tượng đã du nhập vào trong nước từ hơn 100 năm trước, tuy
nhiên các cơng trình nghiên cứu chun biệt về biểu tượng và biểu tượng văn
hóa thì mới xuất hiện trong mấy thập kỷ gần đây. Vì đây là một khoa học liên
ngành, nên các nghiên cứu về biểu tượng rất phong phú, dưới nhiều góc độ, mà
ở phạm vi luận án khó có thể đề cập đầy đủ được. Vì vậy, NCS lựa chọn giới
thiệu một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu về lý thuyết, lý luận về biểu tượng
học, ký hiệu học của các học giả nước ngồi và ở Việt Nam.
Các cơng trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài trước hết phải kể
đến tác phẩm “Mỹ học” của nhà triết học Georg W. F. Hegel [103]. Ngoài
những kiến thức đồ sộ về mỹ học, về ý niệm cái đẹp, nghệ thuật…, ông đã đề
cập đến biểu tượng và coi biểu tượng là một trong những thành tố quan trọng
tạo nên những giá trị thẩm mỹ của các xã hội tiền giai cấp. Tác phẩm “Kinh
nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thủy” (1922) của nhà triết học
Pháp Lucien Lévy Bruhl [95] đã lý giải về các kinh nghiệm thần bí và biểu
tượng liên quan đến tâm tính, khuynh hướng tâm lý và đời sống của người
13
nguyên thủy; phân tích được bản chất và những chức năng của biểu tượng, gắn
với những đặc điểm tư duy của người nguyên thủy, đặc biệt là định luật "sự
tham dự"…; đồng thời tập hợp được khối tư liệu rất phong phú. Cơng trình này
cũng đưa ra một số diễn giải về lý thuyết biểu tượng và luận giải những hành
động có tính biểu tượng của người ngun thủy.
Nghiên cứu biểu tượng trên cơ sở lý thuyết ký hiệu học phải kể đến nhà
ngôn ngữ học Ferdinand de Sausure. Những cơng trình nghiên cứu của ơng
trong đó có tác phẩm “Giáo trình ngơn ngữ học đại cương” [116] là cơ sở quan
trọng để ra đời hệ thống lý thuyết nghiên cứu biểu tượng dưới góc độ ký hiệu
học với mơ hình cấu trúc ban đầu là: Ngơn ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi
ký hiệu gồm “cái biểu đạt” và “cái được biểu đạt”. Ngoài ra phải kể đến Iuri
Lotman, học giả người Nga với rất nhiều cơng trình nghiên cứu mang tính hệ
thống về nền tảng tri thức ký hiệu học, về biểu tượng văn hóa. Cuốn “Ký hiệu
học văn hóa” là tổng hợp nhiều chun luận, trình bày những ý kiến độc đáo
của ông về những khái niệm phức tạp như ký hiệu, biểu tượng, huyền thoại,
văn bản, ngôn ngữ nghệ thuật… Trong chuyên luận “Biểu tượng trong hệ thống
văn hóa”, ơng cho rằng biểu tượng xuất hiện như là một máy tích điện của tất
cả các nguyên tắc của tính ký hiệu và đồng thời vượt ra ngồi giới hạn của tính
ký hiệu, đồng thời khẳng định biểu tượng ở bình diện biểu hiện cũng như nội
dung, bao giờ cũng là một văn bản [108, tr.218-231]. Mặc dù lý thuyết của Iuri
Lotman về biểu tượng văn hóa chủ yếu lấy văn bản làm trung tâm, song đây là
nền tảng rất quan trọng để NCS áp dụng vào luận án nhằm xây dựng cơ sở lý
luận về biểu tượng văn hố.
Ngồi ra cịn có những cơng trình nghiên cứu biểu tượng với các quan
điểm khác như: “Phân tâm học và văn hóa tâm linh” (Sigmund Freud và cộng
sự) [102] giới thiệu một số bài viết về tục tôtem, biện chứng của cái tôi và vô
thức,…; “Man and his symbol” [107] của nhà tâm lý học Carl Gustav Jung tiếp
cận biểu tượng trong mối liên quan chặt chẽ đến các giác quan của con người;
14
nhà xã hội học Émile Durkheim, Talcote Parsons, hay nhà nhân học văn hoá
Franz Boas, Margaret Mead... nghiên cứu biểu tượng trong sự gắn kết chặt chẽ
với sự phát triển tư duy, nhận thức xã hội và thế giới quan, cũng là nghiên cứu
nền tảng tinh thần của các dân tộc; nhà nhân chủng học Claude Levi-Strauss thi
cho rằng tất cả các sản phẩm xã hội là các hệ thống biểu tượng; mọi nền văn
hố có thể được xem như là 1 tổng thể các hệ thống biểu tượng [dẫn theo 32,
tr.143].
Ngồi ra cịn có cuốn “Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới” [96] của
Jean Chevalier và Alain Gheerbran, bàn luận về lý thuyết biểu tượng và giải
mã các biểu tượng của nhiều nền văn hóa khác nhau. Cuốn từ điển đã đề cập
khái quát về đặc trưng của biểu tượng, phân biệt thuật ngữ “biểu tượng” với
các thuật ngữ gần nghĩa như: biểu hiệu, vật hiệu, phúng dụ, ẩn dụ,…, đồng thời
đề cập đến một số lý thuyết biểu tượng của các học giả trên thế giới. Bên cạnh
đó, với các phụ đề: huyền thoại, chiêm mộng, phong tục, cử chỉ, dạng thể, các
hình,… cuốn từ điển đã bao quát được nhiều nền vǎn hoá trên thế giới liên quan
đến các phương diện dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, thần thoại học...; và
có những luận giải sâu sắc, độc đáo, với lượng thông tin phong phú để giải mã
các biểu tượng (các mục từ) của các nền văn hoá trên thế giới, từ biểu tượng
các con vật, các tục lệ, vật dụng, các màu sắc,... đến biểu tượng các vị thần.
Hay cuốn sách “Dấu hiệu, biểu tượng và thần thoại” của Luc Benoist (năm
1975) khái quát về dấu hiệu, thuyết cử chỉ và thế giới biểu trưng, trong đó luận
giải ý nghĩa các biểu tượng, dấu hiệu trên thế giới từ lửa, khơng khí, nước, con
số và màu sắc; đồng thời cũng đề cập tới nghi lễ và thần thoại; tóm tắt về những
vấn đề của biểu tượng và bước đầu phân biệt khái niệm "biểu tượng" với “biểu
trưng”, “dấu hiệu”…
Các cơng trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam: cũng có nhiều
cơng trình nghiên cứu lý thuyết, lý luận về biểu tượng học, ký hiệu học. Nhà
nghiên cứu Phan Ngọc trong một số tác phẩm: “Văn hóa Việt Nam và cách tiếp
15
cận mới” (1994), “Bản sắc văn hoá Việt Nam” (1998), “Một thức nhận về văn
hóa Việt Nam” (2007)… đều đề cập đến biểu tượng. Tác giả cho rằng biểu
tượng thuộc về thế giới đầu óc con người, do đó nó trở thành nguồn cội của các
sản phẩm văn hoá: “con người lao động, tức là tạo ra một vật mới theo cái mơ
hình có sẵn trong đầu óc anh ta, do đó anh ta cùng một lúc sống hai thế giới,
thế giới thực tế và thế giới các biểu tượng” [60, tr.15]. Nhà nghiên cứu Phạm
Đức Dương trong cuốn “Từ văn hóa đến văn hóa học” cho rằng quan hệ tương
tác của văn hoá là “Quan hệ giữa Con (tự nhiên) và Người (văn hoá) và thế giới
biểu tượng mà con người đã sáng tạo nên. Đó là tâm điểm của sự tương tác giữa
3 thế giới (thực tại - ý niệm - biểu tượng) và tính hợp trội hay tính đặc trưng
của văn hố sẽ được giải mã từ thế giới biểu tượng” [18, tr.307]. Một số luận
giải về biểu tượng cũng được thể hiện trong tác phẩm "Văn hố học" và “Những
bài giảng văn hóa” của nhà nghiên cứu Đồn Văn Chúc, “30 thuật ngữ nghiên
cứu văn hố” của tác giả Bùi Quang Thắng chủ biên. Các tác giả đã dành những
chương, mục cụ thể trình bày nghiên cứu khái qt về biểu tượng, trong đó giải
thích một cách hệ thống về thuật ngữ, nguồn gốc và những đặc trưng cơ bản
của biểu tượng. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm đưa ra quan niệm về biểu
tượng văn hóa trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” (1995), “Tìm về bản sắc
văn hóa Việt Nam: cái nhìn hệ thống - loại hình” (1996),... và nhiều bài viết
khác. Theo tác giả, văn hóa như một hệ biểu tượng, tính biểu trưng là một đặc
điểm quan trọng của văn hoá và biểu tượng là sản phẩm của hoạt động biểu
trưng. Nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng trong cuốn “Văn hoá Việt Nam, tìm
tịi và suy ngẫm” (2000) cho rằng, con người khơng chỉ có một thế giới thực
mà cịn sáng tạo ra một thế giới các biểu tượng mô phỏng rồi dẫn dắt trở lại
hiện thực [88, tr.47]. Trong cuốn "Từ điển thuật ngữ văn học" [68] của tác giả
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi có mục từ "biểu tượng" được
giải nghĩa với các góc nhìn triết học, tâm lý học, mỹ học, văn học,... Theo các
tác giả, q trình tạo nghĩa của biểu tượng thường có lịch sử lâu đời hàng vạn
16
năm và ý nghĩa của biểu tượng không ngừng được bổ sung, đồng thời xuất hiện
thêm nhiều biểu tượng mới.
Bên cạnh đó có những cơng trình nghiên cứu chun biệt về lý thuyết
biểu tượng, ký hiệu học như "Từ ký hiệu đến biểu tượng" (2018) [22] - tác giả
Trịnh Bá Đĩnh chủ biên. Phần 1 cuốn sách là các vấn đề lý luận về ký hiệu, biểu
tượng, biểu tượng nghệ thuật, biểu tượng trong tác phẩm văn học; tổng hợp một
số xu hướng nghiên cứu biểu tượng trên thế giới (nhân - triết học, ký hiệu học
văn hóa, phân tâm học…); và dịch cơng trình của Todorov về lịch sử các quan
niệm về biểu tượng. Phần 2 là thực hành phân tích một số biểu tượng trong các
tác phẩm văn học. Cuốn sách trình bày bài bản, đưa ra các quan điểm trên thế
giới và quan điểm của nhóm tác giả về biểu tượng, tuy nhiên tác giả chủ yếu đi
sâu vào phân tích biểu tượng nghệ thuật trong các tác phẩm văn học.
Nhà nghiên cứu Đinh Hồng Hải cũng có cơng trình nghiên cứu chun
biệt về biểu tượng là “Nghiên cứu biểu tượng: Một số hướng tiếp cận lý thuyết”
[32]. Đây là cơng trình bao qt về lý thuyết nghiên cứu biểu tượng với 4 phần
chính, trong đó có 3 phần bàn về lý thuyết biểu tượng gồm: các phân tích, đánh
giá khái quát về nghiên cứu biểu tượng trên thế giới và Việt Nam; giới thiệu
một số quan điểm về nghiên cứu biểu tượng của các nhà khoa học danh tiếng
trên thế giới với các hướng tiếp cận khác nhau. Tác giả cũng đưa ra quan điểm
và hướng nghiên cứu của mình là với góc nhìn nhân học biểu tượng, trên nền
tảng ký hiệu học, đồng thời khuyến nghị lựa chọn khung lý thuyết và hướng
tiếp cận phù hợp căn cứ vào thực tế Việt Nam. Cuốn sách là cơng trình có giá
trị về biểu tượng, có tính khái qt cao, phân tích rõ ràng, có hệ thống, giúp
người đọc tiếp cận bước đầu với lý thuyết về biểu tượng.
Từ các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu về lý thuyết, lý luận liên quan đến
biểu tượng học, ký hiệu học, NCS có một số nhận xét sau: Các cơng trình
nghiên cứu về lý thuyết biểu tượng có nội dung phong phú, trình bày có hệ
thống về các hướng nghiên cứu biểu tượng, từ nhân học, xã hội học, phân tâm
17
học, mỹ học… đến văn hóa học. Các nghiên cứu cũng đề cập cụ thể đến các
khái niệm, quan niệm, đặc điểm, chức năng, tính chất... của biểu tượng và phân
biệt với các thuật ngữ gần giống với biểu tượng. Trên thế giới đã hình thành
các hệ thống lý thuyết rõ ràng về nghiên cứu biểu tượng, ở Việt Nam cũng bước
đầu hình thành hệ thống lý thuyết tổng thể và chủ yếu nghiên cứu theo lý thuyết
ký hiệu học. Những cơng trình nghiên cứu về lý thuyết biểu tượng nêu trên là
cơ sở rất quan trọng, làm nền tảng để NCS xác định hướng nghiên cứu luận án.
Tuy nhiên, trong các nghiên cứu trên, thuật ngữ “biểu tượng văn hoá”
đang được hiểu và sử dụng giống như thuật ngữ “biểu tượng”, mà chưa có khái
niệm cụ thể hoặc sự phân biệt thực sự rõ ràng, trong khi đã có các quan niệm
riêng về “biểu tượng nghệ thuật”, “biểu tượng văn học” hay “biểu tượng tơn
giáo”. Đây chính là nội dung mà NCS có thể tiếp cận cụ thể hơn về khía cạnh
lý thuyết trong luận án này.
1.1.2. Những nghiên cứu thực tiễn về biểu tượng văn hóa và tiền giấy Việt
Nam
Trong phần này, để có cái nhìn tổng thể về các cơng trình nghiên cứu
thực tiễn về biểu tượng văn hóa và tiền giấy Việt Nam của các học giả nước
ngồi và trong nước, NCS chia thành 03 nhóm các cơng trình nghiên cứu.
Các cơng trình nghiên cứu về biểu tượng văn hoá trên tiền giấy của các
học giả nước ngoài, phải kể đến Unwin & Hewitt (người Anh) với chuyên luận
“Banknotes and National Identity in Central and Eastern Europe” (2001) [115]
đã cung cấp cái nhìn tổng quan về hình ảnh trên tiền giấy được lưu hành cuối
những năm 1990 ở 17 quốc gia Trung và Đông Âu, khẳng định tiền giấy là biểu
hiện quan trọng của bản sắc dân tộc và có sự thay đổi về biểu tượng trên tiền
giấy do tác động về chính trị và sự chuyển dịch văn hóa. Tác giả Jacques
E.C.Hymans (Đại học Nam California) trong chuyên luận “East is East, and
West is West? Currency iconography as nation-branding in the wider Europe”
(2010) [105] khẳng định tiền tệ khơng chỉ có giá trị vật chất mà còn là phương
18
tiện tuyên truyền của nhà nước và là sản phẩm văn hóa; những hình ảnh trên
tiền giấy thể hiện “diễn ngôn về bản sắc dân tộc” và quảng bá thương hiệu quốc
gia; tác giả cũng nhận định sự thay đổi của các “xu hướng biểu tượng” trên tiền
giấy ở châu Âu như: thể hiện đa dạng hình ảnh nhân vật trên tiền giấy hơn,
thiên về thể hiện hạnh phúc của con người, hay xu hướng “chủ nghĩa hậu hiện
đại” với những cánh cửa tưởng tượng và những cây cầu bắc qua những cảnh
quan mang tính biểu trưng trên tờ Euro…
Các tác giả Anat First và Na'ana Sheffi (người Israel) trong chuyên luận
“Border and banknotes: The national perspective” (2015) [91] khẳng định tiền
giấy đại diện cho “chủ quyền biên giới văn hóa” của mỗi quốc gia, qua nghiên
cứu trường hợp tiền giấy Israel. Theo tác giả, phân tích các địa điểm, cảnh quan
và nhân vật lịch sử trên tiền giấy có thể giải mã được “bản sắc lãnh thổ” của
tiền giấy; tiền giấy cũng thể hiện nỗ lực tạo dựng văn hóa chung Châu Âu trong
thời đại tồn cầu thể hiện qua những hình ảnh trên đồng tiền Euro... Trong
chuyên luận "The power of Hegemony: human figures on Israeli banknotes"
[92] (2019) cũng của 02 tác giả này đã bàn luận, phân tích, giải mã ý nghĩa biểu
tượng con người, thơng qua 33 nhân vật trên tiền giấy Israel, biểu trưng cho
sức mạnh/quyền lực của những người lãnh đạo.
Ngồi ra cịn nhiều tác giả khác cũng tìm hiểu về tính bản sắc dân tộc
qua các biểu tượng trên tiền giấy của một số nước như Anders Ravn Sorensen
(Đại học Copenhagen) đề cập đến tiền tệ và bản sắc dân tộc trong chuyên luận
“Monetary organization and national identity: a review and considerations”
(2015); Matthias Kaelberer (Đại học Memphis) đánh giá mối quan hệ giữa tiền
tệ, bản sắc tập thể và hội nhập châu Âu trong chuyên luận "The euro and
european identity: symbols, power and the politics of european monetary
union" (2004); Simon Hawkins (Đại học Franklin & Marshall) xem xét các
hình ảnh trên tiền giấy Tunisia và vai trị của nó trong việc xây dựng và duy trì
19
bản sắc dân tộc Tunisia trong chuyên luận "National Symbols and National
Identity: Currency and Constructing Cosmopolitans in Tunisia" (2010)…
Các công trình nghiên cứu thực tiễn về biểu tượng văn hóa ở Việt Nam
rất đa dạng, thể hiện ở nhiều loại hình và nhiều lĩnh vực khác nhau, NCS chỉ
đề cập đến một số cơng trình tiêu biểu. Trước hết là các nghiên cứu của nhà
dân tộc học Nguyễn Từ Chi, nổi bật là "Hoa văn Mường - Nhận xét đầu tay"
(năm 1978) đã nghiên cứu rất kỹ càng các hoa văn, họa tiết trên cạp váy Mường
và ý nghĩa biểu trưng của chúng, từ đó khẳng định các giá trị văn hóa của người
Mường có mối quan hệ cội nguồn với văn hố của người Việt trong văn hố
Đơng Sơn. Ngồi ra ơng cịn nhiều nghiên cứu về văn hóa dân tộc Việt Nam,
trong đó nghiên cứu các biểu tượng văn hóa riêng của mỗi tộc người như “Góp
phần nghiên cứu văn hóa và tộc người” (1996), "Hoa văn các dân tộc DjaraiBhana" (1986), “Người Mường ở Hịa Bình” (hồn chỉnh năm 1995)...
Trong lĩnh vực mỹ thuật có các cơng trình tiêu biểu như: “Thế giới biểu
tượng trong di sản văn hóa” của tác giả Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh nghiên cứu
về biểu tượng văn hóa trong nghệ thuật tạo hình ở các di sản cổ truyền của
người Việt trong không gian Hà Nội thời tiền sử, sơ sử và thời quân chủ dân
tộc. Qua việc khảo cứu, giải mã các biểu tượng văn hố trên các di sản (cơng
cụ lao động, vật thiêng, trang sức, trống đồng...) hay trên các cơng trình kiến
trúc, tượng, đồ thờ, phù điêu..., tác giả đánh giá trong tạo hình của người Việt,
yếu tố biểu tượng đã phát triển rất cao và gắn bó chặt chẽ với sự phát triển lịch
sử văn hóa dân tộc. Trong cuốn sách “Nguồn gốc và sự phát triển của biểu
tượng, kiến trúc và ngôn ngữ Đông Sơn” (1999) của tác giả Tạ Đức cũng nghiên
cứu các biểu tượng văn hoá trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam - Đông Nam
Á; nguồn gốc sự phát triển của các biểu tượng lớn trong văn hóa và kiến trúc
Đơng Sơn. Tuy cơng trình cịn có những ý kiến khác nhau về phương pháp giải
mã, nhưng có thể coi đây là cơng trình nghiên cứu kỹ lưỡng về biểu tượng trong
văn hố - kiến trúc truyền thống của Việt Nam.
20
Các nghiên cứu ứng dụng biểu tượng trong văn hoá dân gian, văn học
nghệ thuật cũng rất phong phú, như cơng trình nghiên cứu của tác giả Đinh
Hồng Hải “Những biểu tượng đặc trưng trong văn hoá truyền thống Việt Nam”
(3 tập) gồm: Các bộ trang trí điển hình (2012), Các vị thần (2015), Các con vật
linh (2016). Tác giả phân tích chi tiết những biểu tượng đặc trưng trong văn
hố truyền thống Việt Nam; tìm hiểu nguồn gốc, vai trị, vị trí và sự phát triển
của chúng thơng qua các bộ trang trí điển hình ở lâu đài, cung điện của vua
chúa đến nhà thờ, nơi ở và vật dụng của người dân, hay hình ảnh các vị thần
được biểu hiện qua các hành vi tơn giáo và tín ngưỡng, hoặc góc nhìn mới đối
với các linh vật, vật linh trong văn hóa truyền thống Việt Nam… Ngồi ra, tác
giả cịn có nhiều chun luận nghiên cứu các biểu tượng trong đời sống văn
hóa như: “Sáng tạo truyền thống qua biểu tượng Mẫu Liễu trong văn hóa Việt
Nam”, “Symbolism in the New Era of Buddhism”, “The symbol of Saint
Giong: From Myth to the Historical Text”...
Những biểu tượng văn hóa quen thuộc trong đời sống của người Việt
như gà, chùa, đình, cây tre,… cũng được đề cập trong các cuốn sách “Thần,
người và đất Việt” của tác giả Tạ Chí Đại Trường (1989); “Về nguồn văn hoá
cổ truyền Việt Nam” của tác giả Đông Phong (1998); luận án tiến sĩ Văn học
về “Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam” (2017) của Nguyễn
Thị Quỳnh Hương... Tác giả Trịnh Bá Đĩnh nghiên cứu, phân tích các biểu
tượng Hà Nội, đạo Mẫu, cây, nước, lửa, các nhân vật trong thơ, nghệ thuật và
phim ảnh... trong cuốn “Từ ký hiệu đến biểu tượng” (tái bản 2017). Tác giả
Nguyễn Duy Bắc thì nhận diện, miêu tả và phân tích các biểu trưng, biểu tượng,
mơ típ, hình ảnh… trong thơ ca cách mạng Việt Nam trong cuốn sách “Bản sắc
dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại (1945 - 1975)”, từ đó đưa ra những luận
giải về truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện qua những hình tượng nghệ thuật,
những biểu trưng cơ bản trong thơ ca cách mạng Việt Nam như: biểu trưng về
Tổ quốc, biểu trưng về người anh hùng, biểu trưng về kẻ thù. Ngồi ra, cịn
21
nhiều bài viết, chuyên luận của các tác giả khác nghiên cứu về các biểu tượng
văn hóa trong đời sống văn hoá - xã hội ở Việt Nam.
Qua các nghiên cứu nêu trên, NCS có một số nhận xét sau: Các cơng
trình nghiên cứu thực tiễn về biểu tượng văn hoá trên thế giới và ở Việt Nam
rất phong phú, đa dạng, nghiên cứu thực tiễn về biểu tượng ở nhiều lĩnh vực.
Các cơng trình nghiên cứu đó đã luận giải được sự đa nghĩa, ẩn nghĩa của các
biểu tượng văn hố gắn liền với q trình hình thành xã hội, gắn với đặc điểm,
nhận thức và bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Trong những nghiên cứu thực
tiễn đó có những chun luận đề cập đến tính biểu tượng trên tiền giấy, đã
khẳng định tiền giấy là sản phẩm văn hóa đặc biệt, là “biên giới văn hóa quốc
gia”, và các biểu tượng hay xu hướng biểu tượng trên tiền giấy được quy định
bởi các yếu tố chính trị, xã hội, văn hóa. Đây là những tham khảo quan trọng
về cách thức, hướng triển khai nghiên cứu để NCS có phương pháp phù hợp
nghiên cứu biểu tượng văn hóa trên tiền giấy Việt Nam.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về tính biểu tượng trên tiền giấy của các
tác giả trên thế giới mới đề cập đến đặc điểm và ý nghĩa của biểu tượng trên
tiền giấy nói chung và tiền của một số nước, mà chưa đề cập đến tiền giấy Việt
Nam. Một số nghiên cứu cũng mới phân tích sơ lược về tính biểu tượng của
những hình ảnh trên tiền mà chưa luận giải cụ thể, kỹ càng về góc độ văn hóa.
Đó là “khoảng trống” để NCS có thể triển khai trong luận án này.
Các cơng trình nghiên cứu về tiền giấy Việt Nam: Có khá nhiều nghiên
cứu của các tác giả nước ngoài về tiền Việt Nam, nhưng chủ yếu là nghiên cứu
về tiền kim loại. Cịn các nghiên cứu về tiền giấy thì rất ít và hầu hết đều dưới
góc độ lịch sử, kinh tế, xã hội. Cuốn đầu tiên đề cập đến tiền giấy là
"Numismatique Annamite” (Tiền cổ Annam) của Desire De Lacroix, xuất bản
năm 1900. Tuy nhiên nội dung chính của cuốn sách là nói đến các loại tiền kim
loại từ thời Đinh đến thời Nguyễn, chỉ có một phần rất ngắn (2 trang) viết về
tiền giấy trong giai đoạn vua Thuận Tông (1391 - 1398) và Hồ Quý Ly phát
22
hành tiền (năm 1396). Năm 1996, có cuốn “Les Billets de la Banque de
l’Indochine” (Tiền giấy của ngân hàng Đông Dương) của Maurice Kolsky và
Maurice Muszynsky khảo sát khá kỹ lưỡng về hơn 250 loại tiền giấy (mơ tả
kích thước, hình vẽ, tên hoạ sĩ sáng tác, nhà in) do Ngân hàng Đơng Dương
phát hành. Năm 2016 có cuốn “Lịch sử tiền giấy Việt Nam - những câu chuyện
chưa kể” của Thng Tien Tat (United Overseas Bank tại Việt Nam) đề cập riêng
đến tiền giấy Việt Nam từ 1945 đến nay, giới thiệu hơn 180 tiêu bản tiền giấy,
trong đó có những tiêu bản thuộc loại hiếm. Cuốn sách được trình bày khá cơng
phu, kèm theo những chú dẫn về diễn biến đời sống của các đồng bạc Việt Nam
theo lịch đại, đồng thời đưa ra một số nhận xét, đánh giá về kỹ thuật in tiền,
thiết kế hoa văn trên tiền giấy Việt Nam. Mặc dù các mẫu tiền chưa đầy đủ,
cách phân loại chưa thực sự khoa học, nhưng đây là cơng trình có sự đầu tư
nghiêm túc của tác giả về tiền giấy Việt Nam.
Các tác giả trong nước có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về tiền giấy
Việt Nam, nhưng chủ yếu dưới góc độ lịch sử, kinh tế hoặc mơ tả hình thức,
mỹ thuật của tiền. Trong các bộ sử lớn của Việt Nam như “Đại Việt sử ký tồn
thư” (1679) của Ngơ Sĩ Liên, “Phủ biên tạp lục” (1776) của Lê Quý Đôn, “Lịch
triều Hiến chương loại chí” (1809 - 1819) của Phan Huy Chú (phần “Quốc
Dụng chí”),... có viết về tiền tệ nhưng cũng khơng nhiều. Thời gian gần đây,
có nhiều cơng trình nghiên cứu về tiền giấy hơn, trong đó có cuốn "Paper
Money of South Vietnam (1955-1975)" của Nguyễn Văn Phụng xuất bản năm
1988 tại New York, tập hợp những loại tiền giấy được sử dụng ở Việt Nam từ
năm 1955 - 1975. Cuốn "Tiền tệ Việt Nam theo dòng lịch sử" của Phạm Thăng
xuất bản tại Đức năm 1990 viết về tiền kim loại và tiền giấy từ thời vua Đinh
Tiên Hồng đến năm 1975, song có nhiều thơng tin chưa chính xác. Năm 2009
có cuốn “Sưu tập tiền giấy tiêu biểu Việt Nam và quốc tế” của Thiên Kim giới
thiệu nhiều mẫu tiền của Việt Nam và các nước. Cuốn sách “Sổ tay tiền cổ Việt
Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp lưu hành tại Việt Nam từ đầu Công nguyên
23
đến năm 1975” (năm 2010) của tác giả Hoàng Văn Khốn và Nguyễn Quốc
Hùng chủ biên, có nhiều hình ảnh phong phú, bảng biểu đề cập đến các đồng
tiền lưu hành tại Việt Nam đến 1975. Cuốn sách “Lịch sử tiền tệ Việt Nam, sơ
truy và lược khảo” của Nguyễn Anh Huy (2013) được trình bày khá logic về
tiền kim loại, tuy nhiên phần nội dung ngắn đề cập đến tiền giấy thì cịn sơ sài.
Ngồi ra cịn một số cuốn sách khác về tiền giấy Việt Nam như "1000 năm tiền
tệ Thăng Long - Hà Nội" của Nguyễn Thanh Châu (2010), "Lưu thông tiền tệ
ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà" (1960) của Trần Dương, Phạm Thọ…
nhưng cũng chưa đầy đủ.
Các cơng trình nghiên cứu về lịch sử tiền giấy Việt Nam đầy đủ và có
hệ thống nhất là của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: cuốn "40 mùa sen nở"
(1991), "45 năm mùa sen nở" (1996), "Tiền Việt Nam" (2011), "Lịch sử Ngân
hàng Việt Nam 1951 - 2016" (2016) đã diễn giải có cụ thể lịch sử tiền Việt
Nam và những chia sẻ của các hoạ sĩ vẽ tiền về quá trình thiết kế, in ấn tiền
giấy. Cuốn “Tiền Việt Nam - một số mẫu hình” của Lê Sơn Hải (năm 1991)
giới thiệu cụ thể hình ảnh các đồng tiền từ tiền Thái Bình Hưng Bảo đến nay.
Gần đây nhất là cuốn "Lịch sử đồng tiền Việt Nam" (2021) do tác giả Đào
Minh Tú chủ biên, có sự tham góp của nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia bảo
tàng, các nhà sưu tầm tiền ở Việt Nam. Cuốn sách giới thiệu có hệ thống và
đầy đủ về các loại tiền của Việt Nam, từ đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo đến
bộ tiền hiện hành, với hình ảnh, đặc điểm nhận diện, tình hình kinh tế, xã hội
trong các giai đoạn thiết kế, in ấn, phát hành tiền.
Bên cạnh những nghiên cứu về lịch sử tiền giấy, cịn có những nghiên
cứu về mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam - là nội dung khá gần gũi với đề tài
luận án này. Đó là Luận án tiến sĩ Nghệ thuật năm 2018 của tác giả Hồ Trọng
Minh về “Mỹ thuật trên tiền giấy Việt Nam giai đoạn 1946 - 2006” [53]. Đây
là cơng trình nghiên cứu khá kỹ lưỡng và đầy đủ về tiền giấy Việt Nam phát
hành sau năm 1945 đến nay về đặc trưng yếu tố mỹ thuật, giá trị và đóng góp