1
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 18/12/2015, Việt Nam chính thức tham gia Cơng ước Viên về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG). CISG có hiệu lực và ràng buộc tại
Việt Nam từ ngày 01/01/2017 đây được xem như một dấu mốc quan trọng
đánh dấu sự phát triển, hội nhập của Việt Nam mở ra nhiều thuận lợi cho các
thương nhân có thể tham gia vào giao dịch quốc tế với những điều khoản
thuận lợi và rõ ràng hơn, giúp cho các thương nhân trong và ngồi nước
khơng có nhiều lúng túng khi tham gia giao dịch với nhau. Tuy nhiên, điều
này đặt ra nhiều thách thức và cần có sự hiểu biết sâu rộng về công ước này
khi áp dụng trong thực tế để không tạo thế bất lợi cho các thương nhân Việt.
Nhằm tìm hiểu rõ hơn thực tế vận dụng Cơng ước viên và những án lệ có liên
quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, chúng em lựa chọn việc Bảo
vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của công ty BP (nước B) trong tình huống
mà đề bài đặt ra. Qua đó, tìm hiểu rõ hơn về chào hàng, vi phạm cơ bản, yêu
cầu bồi thường và nghĩa vụ của bên giao hàng.
NỘI DUNG
1. Tóm tắt thơng tin vụ kiện
a. Thơng tin các bên liên quan
Nguyên đơn: Công ty TNHH thương mại AQ - Nhập khẩu các sản
phẩm trái cây tươi lớn nhất nước A (từ đây xin gọi tắt là “AQ”).
Bị đơn: Công ty nông sản BP (nước B) (từ đây xin gọi tắt là “BP”).
Cơ quan giải quyết tranh chấp: Trung tâm trọng tài quốc tế (AIAC) 1
Theo giả sử của đề bài thì pháp luật nước A có nội dung tương tự như pháp luật của Việt
Nam và Bộ quy tắc trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế AIAC ở nước A tương tự như
Bộ quy tắc Trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, bên cạnh Phịng thương
mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VIAC) nên có thể coi như Cơ quan giải quyết tranh chấp
trong trường hợp này là Trung tâm trọng tài Thương mại quốc tế Việt Nam - VIAC.
1
2
b. Sự kiện pháp lý
Ngày 24/5/2017, AQ gửi email tới mail chính thức của phịng kinh
doanh BP đề nghị giao kết hợp đồng nhập khẩu táo từ BP với số lượng 10 tấn,
giá $5/kg (chưa bao gồm VAT); giao hàng theo FOB, cảng Z, nước B,
INCOTERMS 2010; giao hàng trong vịng 1 tháng kể từ ngày hợp đồng có
hiệu lực; Chuyên chở bằng tàu dưới 20 năm tuổi, Sử dụng container lạnh 20
feet.
Ngày 26/5/2017, Nhân viên K của phòng kinh doanh BP sau đó đã gửi
bằng email cá nhân thơng báo về việc mail của phòng kinh doanh BP đang bị
hỏng, và xác nhận BP đã nhận được email đề nghị giao kết hợp đồng của AQ,
yêu cầu AQ gửi hợp đồng và các điều kiện L/C cho BP.
Ngày 29/5/2017, AQ fax hợp đồng số 8989-HĐNK-AQBP, có chữ ký
của phó giám đốc cơng ty AQ và đóng dấu của cơng ty.
Ngày 30/5/2017, AQ nhận được bản fax từ chị K, chỉnh sửa một số nội
dung của hợp đồng 8989, có đóng dấu của tổng giám đốc BP và BP.
Ngày 31/5/2017, AQ gửi thư trả lời tới mail chị K với các nội dung
chỉnh sửa từ hợp đồng ngày 30/5/2017 mà BP đã gửi.
Ngày 04/07/2017, AQ không nhận được hàng, đã gửi thư tới địa chỉ
mail của BP đề nghị giao hàng đúng hợp đồng số 8989-HĐNK-AQBP và AQ
đồng ý gia hạn thời gian giao hàng cho BP tới ngày 25/07/2017.
26/07/2017, trưởng phịng kinh doanh BP trao đổi rằng BP khơng nhận
được mail của AQ sau ngày 30/5/2017. Chị K đã chính thức nghỉ việc tại BP
từ 01/06/2017, hiện nay BP không thể cung cấp lô hàng táo GALAXY cho
AQ như đề nghị vì cơng nhân của BP đang đình cơng.
Sau đó AQ đã tìm đến nhà cung cấp khác là công ty F (nước B), cùng
số lượng nhưng giá là $8/kg và bị đối tác phạt vi phạm hợp đồng $8000 do
giao hàng chậm.
3
Ngày 18/9/2017, AQ gửi tơi BP văn bản có nội dung:
(1) Khẳng định BP đã vi phạm cơ bản hợp đồng số 8989-HĐNKAQBP;
(2) Yêu cầu BP bồi thường cho AQ
(3) Đề nghị BP thương lượng với AQ về các ván đề trên
BP đã gửi văn bản từ chối thương lượng. Sau đó, AQ đã khởi kiện BP
ra Trung tâm trọng tài quốc tế (AIAC) ở nước A. AIAC thụ lý đơn kiện và
tiến hành xét xử.
c. Vấn đề pháp lý
- Liệu Chào hàng mua của AQ về việc mua táo từ BP đã được BP chấp
nhận chưa?
- Công ty BP có cần phải bồi thường thiệt hại cho AQ hay không?
d. Luật áp dụng
Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế CISG.
2. Luận điểm bảo vệ quyền và lợi ích cho BP
2.1. Việc chấp nhận chào hàng của BP.
Thứ nhất, về chào hàng giữa AQ và BP. Việc gửi đề nghị giao kết hợp
đồng qua email của công ty AQ tới BP được xem là một chào hàng mua theo
quy định tại khoản 1 điều 14, CISG bởi trong hợp đồng mà AQ gửi cho BP –
một công ty nông sản đã quy định rõ ràng về việc giao kết hợp đồng yêu cầu
về số lượng, giá cả, thời gian, phương thức, điều kiện và cả địa điểm giao
hàng cùng những nghĩa vụ thanh toán mà AQ sẽ thực hiện, đều là những tiêu
chí để bày tỏ thiện chí của AQ sẵn sàng bị ràng buộc khi chào hàng được
nhận.
Sau đó, chị K đã gửi email xác nhận việc BP đã nhận được chào hàng,
tuy nhiên, BP cũng thực hiện một hành vi được xem như việc hoàn giá chào
4
đối với chào hàng ban đầu của AQ với những thay đổi cơ bản so với hợp đồng
ban đầu mà AQ gửi, do đó, BP xem như đã đưa ra lời chào hàng mới với AQ.
Tuy vậy, việc chào hàng mới này AQ đã nhận và cũng có đàm phán thay đổi
lại một số nội dung của chào hàng nhưng việc chỉnh sửa lần này lại không
được thông báo tới BP do chị K đã nghỉ việc xuất phát từ ý chí chủ quan của
chị K, một hành động nằm ngồi dự liệu của BP, do đó khơng thể coi như BP
đã chấp nhận chào hàng của AQ bởi lẽ “Một lời tuyên bố hay một hành vi
khác của người được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng cấu thành
chấp nhận chào hàng. Sự im lặng không mặc nhiên có giá trị như một sự chấp
nhận” – theo quy định tại điều 18 CISG.
Thứ hai, về thông báo chấp nhận chào hàng, AQ đã phạm sai lầm cơ
bản trong quá trình giao kết hợp đồng khi tự mình định đoạt mọi thứ, khơng
tơn trọng ý chí của BP khi không gửi mail hay fax vào địa chỉ liên hệ chính
thức của BP mà khi BP đã gửi fax chính thức cho AQ thì AQ gửi lại vào mail
cá nhân của nhân viên công ty BP- người không có đủ thẩm quyền đại diện
giao kết hay đàm phán hợp đồng với AQ tại thời điểm sau ngày 30/5/2017 về
chỉnh sửa một vài nội dung trong hợp đồng khiến cho BP đã không nhận được
lời chào hàng mới từ AQ và không nhận được thông báo đã nhận được lời
chào hàng từ AQ về chào hàng ngày 30/5. Sau đó, AQ cũng khơng đợi phản
hồi hay thơng báo xác nhận từ BP mà tự định đoạt và cố tình tin rằng BP đã
chấp nhận chào hàng và đồng ý giao kết hợp đồng với mình mà khơng có bất
kỳ căn cứ hay bằng chứng về “sự chờ đợi hợp lý trên cơ sở hợp đồng” vi
phạm nội dung quy định tại điều 15 về chào hàng “Chào hàng có hiệu lực khi
nó đến tay người được chào hàng”, thực tế thì chào hàng ngày 31/5 của AQ
chưa tới được với BP.
5
Do đó, chào hàng cuối cùng của BP ngày 30/5 và chào hàng ngày 31/5
của AQ bị hủy bỏ, hợp đồng giữa AQ và BP là hợp đồng số 8989 không đủ
căn cứ để xác lập thực hiện.
2.2. Việc thực hiện đơn hàng theo hợp đồng 8989-HĐNK-AQBP của BP
Thứ nhất, do chị K nghỉ việc nên BP đã gián đoạn liên lạc với AQ
khiến cho BP không nhận được lời chào hàng cuối cùng cũng như nhận được
thông báo về việc AQ đã nhận được lời chào hàng. Đây là sự việc phát sinh
trong quá trình AQ và BP tiến hành giao kết hợp đồng và nằm ngoài khả năng
kiểm sốt của BP.
Thứ hai, nhân viên BP đang đình cơng do khơng đồng ý với chính sách
lương và đãi ngộ của cơng ty, những chính sách đã tồn tại khá lâu trước đây
của A do đó việc nhân viên đình cơng này hồn tồn là những tác động nằm
ngồi tầm kiểm sốt của BP và BP hồn tồn đã khơng có căn cứ phải tiên
liệu trước về sự đình cơng này của nhân viên khi đang giao kết hợp đồng với
AQ, do đó, BP hồn tồn khơng thể thực hiện được hợp đồng 8989-HĐNK –
AQBP, trường hợp của BP được xem như một trong những trường hợp miễn
trách được quy định tại khoản 1 điều 79: “Một bên kết ước không chịu trách
nhiệm về việc không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của họ nếu chứng
minh được rằng việc không thực hiện ấy là do một trở ngoại nằm ngồi sự
kiểm sốt của họ và người ta không thể chờ đợi một cách hợp lý rằng họ phải
tính tới trở ngại đó vào lúc ký hợp đồng hoặc là tránh được hay khắc phục
được hậu quả của nó”. BP hồn tồn có cơ sở và đủ bằng chứng chứng minh
việc không thực hiện hợp đồng do trở ngại là nhân viên đình cơng nằm ngồi
sự kiểm sốt của BP.
Thứ ba, những lập luận tại phần 2.1 về những chào hàng cuối cùng ngày
30/5 và 31/5 đều bị hủy bởi hai bên đều khơng có phản hồi về chào hàng của
6
nhau, riêng chào hàng ngày 30/5 AQ có phản hồi nhưng BP khơng nhận được.
Do vậy, BP khơng có nghĩa vụ phải thực hiện hợp đồng 8989-HĐNK-AQBP.
Từ ba lý do trên, việc không thực hiện nghĩa vụ giao hàng của BP hồn
tồn có căn cứ và hợp lý, khơng thể coi BP không thực hiện hợp đồng 8989
bởi trên thực tế, BP cũng chưa hề giao kết hợp đồng này với AQ
3. Luận điểm phản đối của BP đối với những yêu cầu của AQ
3.1. Về khẳng định BP vi phạm cơ bản hợp đồng số 8989-HĐNK-AQBP
Điều 25, CISG quy định về vi phạm cơ bản “Một sự vi phạm hợp đồng
do một bên gây thiệt hại là vi phạm cơ bản, nếu sự vi phạm đó làm cho bên
kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái
mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng trù phi bên vi phạm khơng tiên
liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ khơng tiên liệu
được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự”. Từ điều khoản này có thể thấy,
hồn tồn khơng có căn cứ cho rằng BP vi phạm cơ bản hợp đồng, bởi lẽ hợp
đồng của AQ và BP trên thực tế chưa hoàn toàn được xác lập (theo như lập
luận tại phần 2.1).
Thực tế rằng AQ khơng hồn tồn có cơ sở để chờ đợi điều gì từ BP bởi
đây là lần đầu tiên hai bên hợp tác và chưa chắc đã hiểu hết tình hình của
nhau (bằng chứng là AQ khơng hề biết việc nhân viên BP đình cơng), ngồi
ra cũng khơng có cơ sở để tin rằng việc im lặng của BP có nghĩa là đồng ý bởi
lẽ, sau khi đưa ra lời chào hàng ngày 31/5/2017, AQ đã ghi “sau ngày
2/6/2017, nếu cơng ty BP khơng có ý kiến gì khác thì đề nghị cơng ty BP giao
hàng chậm nhất là ngày 02/7/2017”, tuy nhiên toàn bộ nội dung liên quan này
lại gửi vào email cá nhân của chị K – một nhân viên kinh doanh đã nghỉ việc
và không thông báo nội dung mail tới công ty BP sau ngày 30/5/2017. Do đó,
nếu như BP gửi email xác nhận “khơng có ý kiến gì thêm” hoặc đại diện chính
thức từ BP xác nhận đã nhận được lời chào hàng ngày 31/5 và chấp nhận việc
7
thực hiện hợp đồng thì hợp đồng mới được cho là đã giao kết, bởi theo quy
định tại khoản 1 điều 18 CISG thì “Sự im lặng khơng mặc nhiên có giá trị như
một sự chấp nhận” BP im lặng không phải là sự chấp nhận, mà im lặng là bởi
không nhận biết được phản hồi của AQ về chào hàng mới mà BP đã đưa ra,
BP cũng không thể chắc chắn và càng khơng có cơ sở để tin rằng AQ sẽ thực
hiện các nghĩa vụ của mình sau khi có chào hàng mới do AQ là một cơng ty
nước ngồi, BP và AQ chưa có đủ lịng tin dành cho nhau.
Do đó, việc BP khơng thực hiện hợp đồng là một điều hoàn toàn phù
hợp với quy định của pháp luật và hợp lý theo lý trí thơng thường điều này
không cấu thành vi phạm cơ bản, phù hợp hoàn toàn với mục tiêu và tinh thân
mà CISG đã đặt ra.
3.2. Yêu cầu bồi thường của AQ
Do BP không vi phạm cơ bản hợp đồng 8989-HĐNK- AQBP2 và hợp
đồng này thực tế chưa được giao kết thành công nên BP khơng có trách nhiệm
phải bồi thường bất kỳ thiệt hại nào đối với AQ, ta có thể xét trên các khía
cạnh sau:
Một là, hợp đồng của AQ và BP chưa được giao kết thành công bởi các
lý do như lập luận tại phần 2 và phần 3.1 do đó mọi khoản thiệt hại phát sinh
từ việc khơng thực hiện hợp đồng số 8989 không thuộc nghĩa vụ và trách
nhiệm của BP.
Hai là, liên quan đến khoản tiền chênh lệch của AQ do phải mua hàng
thay thế. BP thực tế đã khơng hề có phản hồi, hay bày tỏ ý định sẽ thực hiện
hợp đồng số 8989, do vậy AQ khơng có đủ cơ sở để có sự “chờ đợi hợp lý”
rằng BP sẽ thực hiện hợp đồng số 8989 của mình nên việc tin tưởng và chờ
đợi của AQ hồn tồn vơ căn cứ, khơng hợp lý vì trên thực tế BP không gây
2
Sau đây xin gọi là “Hợp đồng số 8989”
8
ra bất kỳ thiệt hại nào cho AQ nên BP hồn tồn khơng có trách nhiệm phải
bồi thường thiệt hại với khoản tiền chênh lệch này của AQ.
Ba là, thực tế hợp đồng của BP và AQ chưa hoàn toàn được giao kết
nên BP khơng có nghĩa vụ và trách nhiệm với các điều khoản của hợp đồng
kể cả điều khoản phạt vi phạm liên quan đến 15% tổng giá trị hợp đồng như
nội dung quy định trong hợp đồng 8989. Do đó, BP khơng có nghĩa vụ liên
quan hay trách nhiệm phải trả khoản tiền này cho AQ.
Bốn là liên quan đến khoản tiền AQ bị đối tác phạt vi phạm hợp đồng
do không giao hàng đúng thời điểm. Trong hợp đồng số 8989 khơng có nội
dung nói về mục đích của AQ mà chỉ dừng lại ở việc AQ sẽ nhập khẩu số táo
từ BP, do đó đây là khoản tiền liên quan đến một hợp đồng khác, nằm ngồi
phạm vi giao kết và khơng liên quan đến hợp đồng số 8989 mà hai bên đang
tranh chấp nên BP hồn tồn khơng có trách nhiệm với khoản thiệt hại này
của AQ. AQ đã hoàn toàn sai lầm khi tính khoản tiền thiệt hại từ hợp đồng
khác sang cho hợp đồng 8989.
Do đó, bởi những lý do trên đây cùng một lý do chính là trên thực tế
hợp đồng số 8989 chưa hề được giao kết hợp pháp, BP cũng không gây ra bất
kỳ thiệt hại nào với AQ nên BP khơng có trách nhiệm phải bồi thường bất cứ
khoản thiệt hại cho AQ.
3.3. Đề nghị thương lượng của AQ
Theo những lập luận trên đây thì hợp đồng giữa AQ và BP chưa hề
được giao kết nên BP không thể gây bất kỳ thiệt hại hay phải có trách nhiệm
đối với việc kinh doanh của AQ liên quan đến bên thứ ba cùng tình hình thực
tế về nội bộ đình cơng của BP nên tại thời điểm này việc thương lượng đối
với BP là hoàn toàn bất khả thi. Bên cạnh đó, việc AQ yêu cầu khởi kiện với
BP tại cơ quan giải quyết tranh chấp AIAC là hoàn tồn vơ lý, thiếu căn cứ
khi hợp đồng giữa BP và AQ thậm chí chưa được giao kết và AQ càng không
9
có căn cứ để tin về việc đã giao kết thành công hợp đồng này khi chưa nhận
được thông tin trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng với AQ từ phía BP.
Do vậy, BP cảm thấy khơng cần thiết cho việc thương lượng về vi phạm
cơ bản cũng như yêu cầu bồi thường thiệt hại của AQ
KẾT LUẬN
Công ước Viên 1980 được ra đời giữa bối cảnh sự gia tăng ngày càng
nhiều các giao dịch thương mại quốc tế và các tranh chấp phát sinh từ lĩnh
vực này cũng gia tăng thường xuyên và liên tục. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của Cơng ty BP chính là minh chứng thực tiễn rõ nhất về việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế liên quan đến việc chào hàng,
chấp nhận chào hàng giữa bên bán và bên mua trên thị trường quốc tế, mà cụ
thể là bên bán đã nhận được lời chào hàng mua từ bên mua nhưng không
được thông báo đầy đủ, và cụ thể về những chào hàng, sửa đổi lời chào hàng,
hoàn giá chào gây ra những thiệt hại cho cả hai bên trong giao dịch. Do đó,
khi thực hiện hợp đồng thương mại quốc tế các bên cần phải tìm hiểu kỹ đối
tác, và chuẩn bị đầy đủ tất cả các thơng tin, dự liệu những phương án dự
phịng cho mọi trường hợp có thể xảy ra trong quá trình giao kết hợp đồng
thương mại quốc tế.
Qua đây, các DN Việt Nam cần nghiên cứu, tìm hiểu kỹ các quy định
của CISG để khai thác hiệu quả và hạn chế các rủi ro trong quan hệ thương
mại quốc tế.
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình:
1. Hanoi Law University, Textbook International Trade and Business Law,
People’s Public Security Publishing House, Hanoi, (2012);
2. Giáo trình luật thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội (Nxb.
CAND, Hà Nội, 2015 )
Sách:
101 Câu hỏi – đáp về Công ước của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa
quốc tế (CISG) (Nhóm CISGVN thuộc Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam
VIAC và Trường Đại học Ngoại thương biên soạn – Nxb. Thanh niên, Hà
Nội, 2016)
Website:
/>
11
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
NỘI DUNG .................................................................................................... 1
1. Tóm tắt thông tin vụ kiện ........................................................................... 1
a. Thông tin các bên liên quan ........................................................................ 1
b. Sự kiện pháp lý........................................................................................... 2
c. Vấn đề pháp lý............................................................................................ 3
d. Luật áp dụng............................................................................................... 3
2. Luận điểm bảo vệ quyền và lợi ích cho BP ................................................. 3
2.1. Việc chấp nhận chào hàng của BP. .......................................................... 3
2.2. Việc thực hiện đơn hàng theo hợp đồng 8989-HĐNK-AQBP của BP ..... 5
3. Luận điểm phản đối của BP đối với những yêu cầu của AQ ....................... 6
3.1. Về khẳng định BP vi phạm cơ bản hợp đồng số 8989-HĐNK-AQBP...... 6
3.2. Yêu cầu bồi thường của AQ .................................................................... 7
3.3. Đề nghị thương lượng của AQ ................................................................. 8
KẾT LUẬN .................................................................................................... 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 10