Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bình luận quy định của pháp luật hiện hành về thẩm định nội dung lồng ghép Bình đẳng giới và TTHC trong dự thảo VBQPPL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.38 KB, 16 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VBQPPL
QPPL
BĐG
TTHC
GDĐT

Văn bản quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật
Bình đẳng giới
Thủ tục hành chính
Giao dịch điện tử

1


Mục lục

Mở đầu
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước mở cửa, hội nhập; mục tiêu phát triển kinh
tế được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu. Để đất nước phát triển hùng mạnh cả
về kinh tế lẫn nội lực chính trị thì cơ sở kiên quyết là phải có được một hệ thống
pháp luật nói chung và VBQPPL nói riêng hồn thiện, có chất lượng tốt, đảm bảo
tính thống nhất, khả thi, công khai... Muốn thực hiện được điều này thì trong quy
trình xây dựng VBQPPL cụ thể là ngay trong công tác thẩm định, thẩm tra phải
được coi trọng và thực hiện tốt. Thẩm định, thẩm tra dự thảo VBQPPL là hoạt
động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xem xét đánh giá chất lượng
của dự thảo văn bản đó – đây là một hoạt động có vai trị quan trọng trong quy
trình xây dựng VBQPPL. Nhận thức được vai trò quan trọng của của hoạt động
thẩm định, thẩm tra dự thảo VBQPPL; trong khn khổ đề bài, sau đây em xin
trình bày lập luận của mình về các câu hỏi đề tài:



Nội dung
Câu 1. (5 điểm) Bình luận quy định của pháp luật hiện hành về thẩm định nội
dung lồng ghép BĐG và TTHC trong dự thảo VBQPPL
* Khái niệm thẩm định dự thảo VBQPPL:
2


Dưới góc độ pháp lý, theo Từ điển Luật học do Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp biên soạn, thì “thẩm định có nghĩa là việc xem xét, đánh giá và đưa ra kết
luận mang tính pháp lý bằng văn bản về một vấn đề nào đó”.
Như vậy, thẩm định dự thảo VBQPPL là hoạt động nghiên cứu, xem xét, đánh
giá về nội dung và hình thức, kỹ thuật soạn thảo đối với dự thảo VBQPPL theo nội
dung, trình tự, thủ tục do luật định nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống
nhất và đồng bộ của VBQPPL trong hệ thống pháp luật1.
1. Bình luận quy định của pháp luật hiện hành về thẩm định nội dung lồng
ghép BĐG trong dự thảo VBQPPL.
1.1 Quy định pháp luật về thẩm định nội dung lồng ghép BĐG trong dự thảo
VBQPPL.
- Luật BĐG năm 2006 tại Khoản 7 Điều 5 đã lí giải: Lồng ghép vấn đề BĐG
trong xây dựng VBQPPL là biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu BĐG bằng cách
xác định vấn đề giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để
giải quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được VBQPPL điều chỉnh. Điều
21, 22 của luật này cũng quy định rất rõ về vấn đề lồng ghép vấn đề BĐG trong
xây dựng VBQPPL và việc thẩm tra lồng ghép vấn đề BĐG.
- Luật ban hành VBQPPL năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2020 quy định về nội dung
thẩm định: sẽ tập trung vào việc lồng ghép vấn đề BĐG trong dự thảo văn bản,
nếu trong dự thảo văn bản có quan đến vấn đề BĐG - cụ thể hóa trong nhiều điều
khoản như: Đ đ khoản 3 Điều 58; khoản 6 Điều 65; Điểm d Khoản 3 Điều 98 ...
Đồng thời luật còn quy định về trách nhiệm của các tổ chức liên quan trong vấn đề

thẩm định nội dung lồng ghép BĐG trong dự thảo VBQPPL (điều 69).
- Nghị định 48/2009/NĐ-CP quy định về các biện pháp bảo đảm BĐG trong đó
tại Chương 3 nội dung lồng ghép vấn đề BĐG cũng được quy định cụ thể. Đồng
1 Hoạt động thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL của bộ tư pháp – Luận văn Thạc sĩ luật học- Trịnh Hồng Lê,tr.10.

3


thời Thông tư số 17/2014/TT-BTP quy định về lồng ghép vấn đề BĐG trong xây
dựng VBQPPL: về thẩm định nội dung lồng ghép BĐG đối với dự thảo VBQPPL
được thực hiện theo quy định tại Điều 5, Điều 6, Điều 7, Điều 8 và Điều 9 của
Thông tư.
1.2 Ưu điểm
- Thứ nhất, việc thẩm định nội dụng lồng ghép BĐG trong quá trình xây dựng
VBQPPL giúp kịp thời nhận diện tình trạng bất bình đẳng giữa nam và nữ trong
các lĩnh vực. Để đáp ứng các yêu cầu về nội dung trong dự thảo xây dựng
VBQPPL thì cơ quan có nhiệm vụ thẩm định phải tập trung tìm hiểu, nghiên cứu
so sánh các quy định trong dự thảo với thực tế về vấn đề BĐG mà dự thảo điều
chỉnh hợp lí, hiệu quả khơng - đây là u cầu tất yếu để đảm bảo nội dung của dự
thảo có tính khả thi, chất lượng tốt. Nếu không tiến hành thẩm định dự thảo liên
quan đến vấn đềlồng ghép BĐG trong quá trình xây dựng pháp luật sẽ dẫn đến
nguy cơ không nhận ra bất BĐG hoặc định hướng sai về BĐG và có thể bỏ qua
hoặc khơng bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của một nhóm nào đó (nam
hoặc nữ).
- Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc
đảm bảo BĐG. Luật và các văn bản dưới luật khác nêu trên đều có quy định về
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thẩm định nội lồng ghép vấn đề
BĐG trong dự thảo xây dựng VBQPPL; như vậy, khi tham gia xây dựng VBQPPL
có liên quan đến vấn đề về BĐG, cá nhân/tổ chức có nhiệm vụ thẩm định đều phải
có trách nhiệm đảm bảo thực hiện BĐG và phải nhận thức rất rõ ràng về vấn đề

BĐG. Điều này còn thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề giới.
- Thứ ba, đảm bảo chất lượng dự thảo về vấn đề lồng ghép BĐG, cải thiện thực
tế tồn tại bất BĐG và hướng tới BĐG: Nam giới và nữ giới chịu tác động khác
nhau từ cùng một chính sách phát triển kinh tế - xã hội vì thế các quy định về BĐG
4


là vô cùng cần thiết. Nhờ hoạt động thẩm định dự thảo vấn đề về BĐG được thực
hiện nghiêm túc hơn, khi áp dụng dự thảo vào thực tế sẽ cải thiện tình trạng phân
biệt đối xử về giới..BĐG hướng tới thực tế.
1.3 Hạn chế
Thứ nhất, quy định của pháp luật về yêu cầu nội dụng thẩm định còn chưa cụ
thể: Luật ban hành VBQPPL 2015 hay Thông tư số 17/2014/TT-BTP đều có quy
định về nội dung thẩm định tập trung vào một số vấn đề như: sự phù hợp với
đường lối, chủ trương của Đảng, tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lí, ... Điều này dẫn
đến chất lượng dự thảo khá thấp, các vấn đề lồng ghép liên quan đến BĐG cịn
mang tính đối phó, chưa sâu sát; tình trạng thực hiện lồng ghép vấn đề BĐG còn
mang nặng tính hình thức. Đồng thời nội dung lại khơng bám sát vào thực tiễn, lí
luận về BĐG cịn hạn chế. Để dự thảo VBQPPL đảm bảo cả về hình thức và nội
dung thì cần bổ sung, hồn thiện các quy định pháp luật như: quy định chi tiết hơn
về yêu cầu chất lượng của dự thảo khi thực hiện công tác thẩm định trong xây
dựng dự thảo.
Thứ hai, yêu cầu về nội dung báo cảo thẩm định về vấn đề BĐG chưa thống
nhất:

5


Luật ban hành VBQPPL 2015 tại Khoản 4 Điều 58 có nêu rõ Báo cáo
thẩm định phải thể hiện rõ ý kiến của cơ quan thẩm định về n ội dung

thẩm định tại khoản 3 Điều này mà trong yêu cầu về nội dung thẩm
định theo Điểm đ Khoản 3 điều này thì nội dung thẩm định ph ải nêu rõ:
Việc lồng ghép vấn đề BĐG trong dự thảo văn bản, nếu trong dự th ảo
văn bản co quy định liên quan đến vấn đề BĐG; ta có thể hiểu nếu dự
thảo văn bản khơng có quy định liên quan đến v ấn đ ề BĐG thì khi đó
trong nội dung thẩm định sẽ không phải đề c ập đến v ấn đ ề BĐG. Tuy
nhiên, Thông tư số 17/2014/TT-BTP tại Điều 18 lại quy định:
“...Trường hợp xác định dự thảo văn bản không quy định nội dung liên
quan đến vấn đề BĐG thì trong báo cáo cần thể hiện rõ đã xem xét, đánh
giá vấn đề này trong quá trình thực hiện việc thẩm định dự thảo văn
bản”. Có thể hiểu cho dù trong dự thảo khơng có bất cứ quy định gì liên
quan đến vẫn đề BĐG nhưng khi thẩm định, cơ quan thẩm định vẫn
phải phân tích, đề cập và xem xét vấn đề BĐG. Như vậy, căn c ứ nào để
xác định một dự thảo là lồng ghép vấn đề BĐG trong khi không quy đ ịnh
nội dung liên quan đến vấn đề BĐG. Và với một d ự th ảo khơng có quy
định, nội dung nào liên quan đến vấn đề BĐG, thì quá trình thẩm định
có phải phân tích, đánh giá, đề cập đến vấn đề lồng ghép n ội dung BĐG
hay khơng? Có sự khơng thống nhất và gây khó hiểu giữa Luật ban hành
VBQPPL với Thông tư 14, điều này sẽ gây khó khăn trong q trình th ực
hiện thẩm tra. 2. Bình luận quy định của pháp luật hiện hành về thẩm định
nội dung TTHC trong dự thảo VBQPPL
2.1 Quy định pháp luật về thẩm định nội dung lồng ghép TTHC trong dự thảo
VBQPPL

6


- Luật ban hành VBQPPL năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2020 quy định về về thẩm
định nội dung lồng ghép TTHC trong dự thảo VBQPPL yêu cầu: Sự cần thiết, tính
hợp lý, chi phí tuân thủ các TTHC trong dự thảo nghị định, nếu trong dự thảo nghị

định có quy định TTHC – Điều này được cụ thể hóa trong điểm đ Khoản 3 Điều 39,
điểm c Khoản 3 Điều 58,; điểm d Khoản 3 Điều 92...
- Thông tư số 07/2014/TT-BTP ngày 24/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng
dẫn việc đánh giá tác động của TTHC và rà sốt, đánh giá TTHC. Thơng tư số
03/2022/TT-BTP ngày 10/02/2022 hướng dẫn việc đánh giá tác động của TTHC
trong lập đề nghị xây dựng VBQPPL và soạn thảo dự án, dự thảo VBQPPL có hiệu
lực từ ngày 28/3/2022 thay thế thơng tư 07/2014/TT-BTP được thực hiện đối với
hồ sơ được gửi sau ngày có hiệu lực, cịn hồ sơ được gửi trước đó vẫn sử dụng
thơng tư 07. Phạm vi áp dụng của thông tư 07 và 03 đều áp dụng đối với cơ quan
thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL có quy định TTHC2. Theo đó quy định cụ thể
trách nhiệm, thủ tục, nội dung hoạt động thẩm định của cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó nghị định 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát TTHC, được sửa đổi bởi
Nghị định 48/2013/NĐ-CP; và Nghị định số 92/2017/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một
số điều của các Nghị định liên quan đến kiểm soát TTHC cũng quy định vấn đề
liên quan.
2.2 Ưu điểm
- Pháp luật quy định trong hoạt động thẩm định thì cơ quan thẩm định phải đảm
bảo về sự cần thiết, tính hợp lý của các TTHC nếu trong dự thảo có quy định
TTHC, điều này đảm bảo được dự thảo có những quy định về TTHC phù hợp,
tránh tính trạng xuất hiện những quy định không cần thiết, nhiều thủ tục dẫn đến
trong q trình áp dụng khó thực hiện, mất thời gian cũng như chí phí...Như vậy,
chất lượng nội dung của dự thảo được đảm bảo.
2 Khoản 2 Điều 2 Thông tư 03/2022/TT-BTP

7


Đồng thời cơ quan thẩm định có thể kịp thời phát hiện, chỉnh sửa nhiều bất cập về
quy định TTHC trong dự thảo; giúp cơ quan/cấp có thẩm quyền ban hành văn bản
QPPL có thêm thơng tin để quyết định ký ban hành hoặc thông qua văn bản QPPL.

Như vậy, ngay trong quá trình xây dựng VBQPPL việc ban hành mới các TTHC đã
được kiểm sốt chặt chẽ; khơng chỉ thực hiện vấn đề cải cách hành chính mà Đảng
và Nhà nước đặt ra mà còn nâng cao chất lượng tất cả các TTHC trong mọi lĩnh
vực.
- Thẩm định nội dung lồng ghép TTHC trong dự thảo VBQPPL giúp đảm bảo
chi phí tn thủ các TTHC từ đó lựa chọn phương án, giải pháp tối ưu để thực hiện
chính sách. Tính chi phí tn thủ TTHC là việc lượng hóa các chi phí mà cá nhân,
tổ chức phải bỏ ra khi thực hiện TTHC dự kiến ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ
sung hoặc lượng hóa chi phí cắt giảm khi TTHC được bãi bỏ. Trong quá trình thẩm
định, cơ quan thẩm định lại một lần nữa xem xét trong đề nghị xây dựng dự thảo
chi phí đưa ra đã hợp lý hay chưa. Điều này đảm bảo ngân sách nhà nước sử dụng
hiệu quả, chi phí sử dụng là thấp nhất.
- Thông tư số 03/2022/TT-BTP ngày 10/02/2022 hướng dẫn việc đánh giá tác động
của TTHC trong lập đề nghị xây dựng VBQPPL và soạn thảo dự án, dự thảo quy
định khá cụ thể về mẫu Biểu mẫu đánh giá tác động. Theo đó Cơ quan thẩm định
khơng tiếp nhận hồ sơ gửi thẩm định nếu dự án, dự thảo VBQPPL có quy định về
TTHC chưa có bản đánh giá tác động về TTHC và ý kiến góp ý của cơ quan cho ý
kiến -quy định tại Khoản 1 Điều 9 của Nghị định 63/2010/NĐ-CP (sửa đổi bổ sung
bởi Nghị định 48/2013/NĐ-CP và Nghị định 92/2017/NĐ-CP ). Biểu mẫu được
minh họa rõ ràng với các câu hỏi và câu hỏi lựa chọn nhờ vậy giúp cho cơ quan
thẩm định có thể thực hiện hoạt động dễ dàng và hiệu quả.

8


2.3 Hạn chế
Công tác đánh giá tác động TTHC đã được thực hiện, song chưa thực sự chủ
động và nghiêm túc. Đa số bản đánh giá tác động TTHC còn hình thức, sơ sài, chất
lượng chưa đảm bảo theo đúng hướng dẫn. Một số cơ quan, đơn vị không thực
hiện việc đánh giá tác động TTHC trong quá trình lập đề nghị, xây dựng dự án, dự

thảo VBQPPL, hồ sơ gửi cơ quan thẩm định khơng có Bản đánh giá TTHC theo
quy định dẫn đến bị trả lại hồ sơ, yêu cầu bổ sung Bản đánh giá tác động TTHC
theo đúng quy định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, cơ quan thẩm định vẫn
tiến hành thẩm định khi chưa có Bản đánh giá tác động TTHC trong hồ sơ. Hệ quả
của vấn đề này là không tạo ra được thói quen, thay đổi cách làm việc, tạo sự
nghiêm túc, kỷ luật trọng hoạt động đánh giá tác động TTHC của các cơ quan chủ
trì soạn thảo.
Điều này dẫn đến hệ quả: năm 2019, Bộ Tư pháp đã thực hiện thẩm định đối với
324 TTHC tại 45 dự thảo văn bản QPPL; Văn phịng Chính phủ đã thực hiện thẩm
tra đối với 280 TTHC tại 52 dự thảo văn bản QPPL có quy định TTHC, trong đó,
đề nghị khơng quy định 42 TTHC, sửa đổi, bổ sung 161 TTHC không cần thiết,
không hợp lý, chiếm 72,5% số TTHC quy định trong dự thảo văn bản QPPL. Thêm
nữa, tuy đã được kiểm soát nhưng một số quy định TTHC tại một số văn bản QPPL
vẫn chưa thực sự được đơn giản hóa, thậm chí rườm rà, gây phiền hà cho cá nhân,
tổ chức, doanh nghiệp trong thực hiện TTHC.
Câu 2. (5 điểm) Với tư cách là cơ quan thẩm định, thẩm tra, hãy phát biểu về
sự cần thiết ban hành của dự thảo Luật GDĐT(sửa đổi).
2.1 Giới thiệu về Luật GDĐT
GDĐT:là giao dịch được thực hiện bằng phương thức điện tử3.

3 Khoản 6 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử 2005

9


Luật GDĐT là bộ luật được ban hành nhằm hướng dẫn các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân thực hiện những GDĐT theo quy định của pháp luật và đảm bảo
quyền lợi của các bên tham gia.Luật GDĐT năm 2005 được xem là luật khung,
quy định những vấn đề kỹ thuật, đặc thù phát sinh trên môi trường điện tử. Hiện
nay, Chính phủ ban hành Nghị quyết 152/NQ-CP về phiên họp chuyên đề về xây

dựng pháp luật tháng 11/2021, trong đó có nội dung đề nghị xây dựng Luật GDĐT
sửa đổi.
2.2 Sự cần thiết ban hành của dự thảo Luật GDĐT (Sửa đổi).
Sau gần nhiều năm thực hiện, Luật GDĐT và các luật chuyên ngành khác đã tạo
hành lang pháp lý hỗ trợ mạnh mẽ ứng dụng công nghệ thông tin thúc đẩy GDĐT.
Mặc dù Luật GDĐT đã có đóng góp tích cực nhưng với bối cảnh đổi thay của cơng
nghệ, với tư cách là cơ quan thẩm định, thẩm tra nhận thấy rất cần một Luật GDĐT
sửa đổi hoàn thiện hơn, khắc phục những hạn chế từ trước và giải quyết những vấn
đề phát sinh mới; cần thiết ban hành Luật GDĐT sửa đổi– bởi các nguyên nhân
sau:
- Khắc phục những vướng mắc do thiếu thống nhất của Luật GDĐT với những
VBQPPL khác được Quốc hội ban hành sau.
Luật GDĐT (2005) có một số quy định về an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật
GDĐT. Tuy nhiên Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 và Luật An ninh mạng
năm 2018 đã có nhiều quy định cụ thể về an tồn thơng tin mạng và an ninh mạng
cho các GDĐT, dẫn đến của các quy định về an ninh, an tồn, bảo vệ, bảo mật trong
Luật GDĐT (2005) khơng cịn giá trị áp dụng thực tế. Hiện nay đã có nhiều Luật
chuyên ngành liên quan được ban hành như: Bộ Luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật
Đầu tư, Luật An tồn thơng tin mạng, Luật An ninh mạng, ... và các văn bản hướng
dẫn. Nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn hoặc trùng lặp với các quy định chuyên
ngành.
10


Khi thẩm định, thẩm tra dự thảo Luật GDĐT sửa đổi ta thấy dự thảo Luật GDĐT
đã được sửa đổi cải thiện những bất cấp của luật cũ; xây dựng một Luật thống nhất
để tạo một hành lang pháp lý hoàn thiện hơn trong việc thực hiện chuyển đổi các
hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực.
Đồng bộ, thống nhất các quy định trong Luật GDĐT với các VBPL được Quốc hội,
Chính phủ ban hành từ năm 2005 đến nay.

- Khắc phục được những bất cập, tồn tại, hạn chế của Luật hiện hành, đặc biệt là
đối với vấn đề bảo đảm giá trị pháp lý của GDĐT.
Luật GDĐT năm 2005 là Luật khung, được ban hành sớm, sau khi có Luật mẫu
của Liên Hợp Quốc. Nội dung cơ bản bám theo Luật mẫu của Liên Hợp Quốc nên
cịn mang tính khung và mang tính nguyên tắc chung. Luật mẫu của Liên Hợp Quốc
có xu hướng viết cho các nước đã phát triển, nơi có hệ thống, pháp luật và văn hố
khá khác biệt với Việt Nam. Vì vậy, khi áp dụng vào Việt Nam thì nảy sinh một số
bất cập khó thực thi trong thực tế, đặc biệt là đối với vấn đề đảm bảo giá trị pháp lý
của GDĐT.
Luật GDĐT đã bộc lộ một số bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn phát triển hiện
nay như: các quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật; quy định chưa rõ ràng giá trị
pháp lý của các loại hình thông điệp dữ liệu và hồ sơ, chứng từ điện tử; thiếu quy
định trong Luật GDĐT về chứng từ, hồ sơ tương ứng với các quy định về “bản gốc”,
“bản chính”, “bản sao” trong pháp luật truyền thống; các vấn đề quy định về quy
trình, thủ tục và pháp lý cụ thể của các bước trong giao kết hợp đồng điện tử…Từ
thực tiễn quản lý tại Trung tâm Chứng thực điện tử quốc gia, đã tổng kết“Luật
GDĐT năm 2005 chưa quy định rõ ràng về thông điệp dữ liệu an toàn và chữ ký
điện tử an toàn, dẫn đến sự thiếu tin tưởng của các bên khi tham gia GDĐT. Bên
cạnh đó, Luật cịn thiếu quy định về định danh, xác thực điện tử, dẫn tới hạn chế

11


trong xác định trách nhiệm pháp lý của các bên liên quan trong GDĐT...”4 Điều
này gây ảnh hưởng tới tính pháp lý và sự tin tưởng của các bên khi tham gia GDĐT.
Đối với dự thảo Luật GDĐT sửa đổi, cụ thể qua quá trình thẩm định, thẩm tra
nhận thấy: dự thảo luật GDĐT sửa đổi đã quy định đảm bảo giá trị pháp lý của thông
điệp dữ liệu; quy định bảo đảm giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, quản lý dịch vụ
chứng thực chữ ký điện tử; quy định đảm bảo giá trị pháp lý của tài khoản giao dịch
và dịch vụ tạo lập, xác thực tài khoản giao dịch; quy định đảm bảo giá trị pháp lý

của hợp đồng điện tử, quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử; quy định
về dịch vụ tin cậy và dịch vụ hỗ trợ GDĐT...các khái niệm “mới” đã xuất hiện trong
luật. Những quy định cụ thể này là cơ sở cho việc thực hiện hoạt động GDĐT có
hiệu quả trong thực tế.
- Với xu thế pháp triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin cần những quy định mới
để đảm bảo điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh, tạo khuôn khổ pháp lý cho
hoạt động GDĐT an toàn.
Sau 16 năm, cùng với sự phát triển đột phá của khoa học và công nghệ, đặc biệt là
sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn, sinh trắc học, blockchain ... đã tạo
điều kiện thuận lợi cho ứng dụng và phát triển GDĐT sâu rộng hơn. Ứng dụng công
nghệ mới trong GDĐT đã phát sinh những vấn đề mới mà Luật GDĐT chưa quy
định. Thêm vào đó trong giai đoạn đất nước hội nhập sâu rộng hơn với sự tham gia
các hiệp định thương mại; đồng thời cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra với công cuộc
chuyển đổi số, kinh tế số, chính phủ số đặt ra nhiều thách thức về chính sách và mơ
hình quản lý GDĐT.
Trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 trong hai
năm gần đây, giãn cách xã hội diễn ra khi đó nhu cầu GDĐT cũng bùng phát mạnh
mẽ trong tất cả các lĩnh vực, môi trường và phương thức giao dịch cũng có nhiều
4 />
12


thay đổi với sự xuất hiện ngày càng nhiều các nền tảng số làm trung gian cho các
GDĐT trực tuyến, địi hỏi phải có khung pháp lý phù hợp đáp ứng nhu cầu thực tế,
đảm bảo thể chế pháp luật phải theo kịp sự phát triển mà Luật GDĐT cũ không thể
thiếu chỉnh hết các QPPL dẫn đến xuất hiện lỗ hổng trong quy định pháp luật, tình
trạng bỏ lọt tội phạm, phạm tội do lách luật diễn ra khá thường xuyên. Mặt khác
ngay ở Luật GDĐT năm 2005 quy định về tranh chấp và xử lý vi phạm trong GDĐT
còn thiếu, nhất là liên quan đến các luật chuyên ngành với đặc thù trong giải quyết
tranh chấp.

Với tư cách là cơ quan thẩm định, thẩm tra nhận thấy: Dự luật GDĐT đã nêu rõ
các hành vi bị nghiêm cấm như cản trở hoạt động hợp pháp hoặc hỗ trợ hoạt động
bất hợp pháp về GDĐT; lợi dụng hoạt động GDĐT gây phương hại đến lợi ích quốc
gia, quốc phịng, an ninh, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; tạo ra
hoặc phát tán chương trình phần mềm làm rối loạn, thay đổi, phá hoại hệ thống điều
hành hoặc có hành vi khác nhằm phá hoại hạ tầng công nghệ về GDĐT... (Điều 8
Dự thảo Luật GDĐT sửa đổi) Điều này đảm bảo cho việc thực hiện các hoạt động
GDĐT lành mạnh, công khai, minh bạch.Quyền và lợi ích của các bên tham gia đều
được bảo vệ, mơ hình quản lý GDĐT hồn thiện giúp giải quyết hầu hết các quy
phạm phát sinh liên quan trong tình hình thời đại mới.
- Mở rơng phạm vi điều chỉnh của GDĐT, tạo điều kiện cho GDĐT phát triển.
Luật GDĐT 2005 quy định phạm vi điều chỉnh là trong hoạt động của các cơ
quan nhà nước; trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực khác
do pháp luật quy định.5 Tuy nhiên hiện nay các công nghệ mới phát triển rất nhanh
đang tác động đến hầu hết các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội. Điều này khiến cho
Luật GDĐT 2005 không điều chỉnh được hết gây bất cập và hạn chế.

5 Điều 1 Luật GDĐT 2005

13


Xem xét, đánh giá dự thảo Luật GDĐT sửa đổi, nhận thấy dự thảo đã mở rộng
phạm vi điều chỉnh của Luật GDĐT tới tất cả các hoạt động đời sống xã hội (Luật
GDĐT (sửa đổi) sẽ gồm 11 chương, 103 điều, quy định về GDĐT trong hoạt động
của cơ quan nhà nước, trong hoạt động kinh tế, xã hội, dân sự, thương mại, tài chính,
ngân hàng và các lĩnh vực khác do pháp luật quy định) – Điều 1,dự luật GDĐT sửa
đổi.
Từ thực tiễn đã phân tích ra thấy rõ Luật GDĐT 2005 đã và đang tồn tại nhiều bất
cập, vì vậy vấn đề đặt ra là việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định phải đáp

ứng phù hợp với sự phát triển của nền công nghiệp 4.0, kinh tế số. Qua qua trình
thẩm định, thẩm tra nhận thấy dự thảo Luật GDĐT đã đáp ứng hầu hết các yêu cầu
hiện nay, sửa đổi hoàn thiện khung pháp lí cho hoạt động GDĐT có hiệu quả.

Kết luận
Kỹ năng thẩm định, thẩm tra dự thảo VBQPPL là môn học có tính ứng dụng
cao, mơn học trang bị cho người học kỹ năng, nghiệp vụ thẩm định, thẩm tra dự thảo
VBQPPL trong tình huống cụ thể. Với tình huống đề bài đưa ra, trên đây là những
phân tích, tìm hiểu của bản thân em về những câu hỏi của đề tài thông qua kiến thức
đã được học. Bài tiểu luận cịn nhiều thiết sót, rất mong nhận được sự thông cảm của
quý thầy cô, em xin chân thành cảm ơn!

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2020.
2. Thông tư số 07/2014/TT-BTP ngày 24/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
hướng dẫn việc đánh giá tác động của TTHC và rà sốt, đánh giá TTHC.
3. Thơng tư số 03/2022/TT-BTP ngày 10/02/2022 hướng dẫn việc đánh giá tác
động của TTHC trong lập đề nghị xây dựng VBQPPL và soạn thảo dự án, dự thảo
VBQPPL
14


4. Thông tư số 17/2014/TT-BTP Quy định về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
trong xây dựng VB QPPL.
5. Hoạt động thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của bộ tư pháp
– Luận văn Thạc sĩ luật học, tác giả Trịnh Hồng Lê, năm 2018.
6. Quy định mới về đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong lập đề nghị xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật
/>7. Dự thảo Luật giao dịch điện tử (sửa đổi)

8. Luật Giao dịch điện tử 2005.
9. Hoàn thiện hành lang pháp lý hỗ trợ mạnh mẽ ứng dụng công nghệ thông tin,
thúc đẩy giao dịch điện tử - Tạp chí Tịa án, tác giả Hải Hà.
/>10. />ItemID=51531

15

bieu.aspx?



×