Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

(TIỂU LUẬN) sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trung hoa và đại việt trong nhà nước phong kiến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.38 KB, 14 trang )

BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

MỤC LỤC
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................... 1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................................................................... 1
I. NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ KẾT HỢP.................................................................. 1
II. BIỂU HIỆN CỦA SỰ KẾT HỢP....................................................................... 2
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................. 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................... 10

0


BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Việt Nam vốn là một nước nhỏ với nền văn hố riêng, có hồn cảnh xã hội,
vị trí địa lí riêng. Cái mạnh của Việt Nam không phải ở chỗ đã khởi xướng, phát
minh mà là ở khả năng thích ứng và biến hố. Nhà nước phong kiến Việt Nam với
thiết chế quân chủ tập quyền là một mơ hình ngoại nhập và ảnh hưởng từ Trung
Hoa, với nền văn hố Đơng Á, dưới hình thức cưỡng bức và tự nguyện. Tuy nhiên
ảnh hưởng không có nghĩa là sao chép tồn bộ. Nó đã được kết hợp hài hoà và
chỉnh sửa, đẽo gọt, thu nhỏ kích cỡ cho phù hợp với những điều kiện cụ thể, đặc
thù của lịch sử, xã hội Việt Nam, vốn có một cơ tầng văn hố Đơng Nam
Á Đó là một hạt giống ngoại sinh, được gieo trồng và đơm hoa kết trái trên một


mảnh đất và trong một khí hậu nội sinh. Để tìm hiểu sự kết hợp này như thế nào,
Tổ 4, VB2-K7 xin chọn đề tài: “Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố Trung Hoa và
Đại Việt trong nhà nước phong kiến Việt Nam”, làm nội dung bài tập của tổ
mình.
B. GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ I. NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ KẾT HỢP

Trung Quốc là một quốc gia lớn, có lịch sử lâu đời. Lịch sử cho thấy nước
này đã từng đem quân chinh phạt nhiều quốc gia xung quanh, trong đó có Việt
Nam, một quốc gia nhỏ bé có vị trí địa lý gần với Trung Quốc. Theo lịch sử Việt
Nam, Trung Hoa xâm lược và cai trị Đại Việt trên một ngàn năm qua ba thời kỳ
chính:
- Thời kỳ thứ nhất, thời nhà Triệu, từ năm 207 - 39 TCN
- Thời kỳ thứ hai, thời Đông Ngô, từ năm 43 - 543
- Thời kỳ thứ ba, thời nhà Đường, từ năm 603 - 939
Chính các cuộc xâm chiếm ấy đã làm cho Việt Nam phải gánh chịu những
ảnh hưởng nhất định về văn hóa của họ đặc biệt là chính trị xã hội. Biểu hiện rõ
nhất của ảnh hưởng về chính trị xã hội chính là ở tổ chức bộ máy nhà nước thời
xưa. Theo đó, nước ta cũng có thể chế tổ chức bộ máy tập quyền tương tự như
Trung Quốc với người đứng đầu là vua, dưới có các tể tướng, tướng quân,…
Mỗi triều đại lại có những sự xắp xếp tổ chức bộ máy khác nhau cho phù hợp
với khả năng cai trị của đất nước nhưng nhìn chung thì thể chế quân chủ đó đều
có nhiều nét ảnh hưởng từ Trung Quốc. Sự ảnh hưởng về chính trị của Trung
Quốc cùng với những chính sách đồng hóa người Việt trong hơn 1000 năm Bắc
thuộc đã phần nào gây ra rất nhiều xáo trộn và thay đổi của văn hóa gốc đặc
trưng của người Việt cổ. Tuy nhiên, xuất phát từ điều kiện lịch sử, địa lí, văn
hóa, kinh tế đặc thù, Nhà nước phong kiến Việt Nam không tiếp thu nguyên vẹn
1



BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

mơ hình của Trung Hoa mà đã có sự lựa chọn những yếu tố phù hợp với mục
tiêu cai trị, tình hình kinh tế, xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa của người
Việt, tạo nên yếu tố đặc thù trong mơ hình nhà nước phong kiến Việt Nam.
II. BIỂU HIỆN CỦA SỰ KẾT HỢP

1. Vua - nhân vật trung tâm của nền quân chủ
Theo quan niệm của phong kiến Trung Hoa, vua có hai bậc: bậc đế và bậc
vương. Đế hay Hoàng đế là danh xưng của vua Trung Hoa còn vua của các nước
chư hầu chỉ có quyền xưng vương. Trong chế độ phong kiến, đặc biệt là theo
quan niệm của Nho giáo Trung Hoa, vua được coi là Thiên tử (con trời). Theo
thuyết “Mệnh trời” (thiên mệnh), địa vị của vua được hiểu như sau:
Vua là người đại diện cho thượng đế (trời) để cai trị dân “thay trời hành
đạo” đồng thời là người đại diện cho dân trước thượng đế.
- Địa vị và chức năng làm vua là do trời đã định sẵn cho người đó
(thiên
mệnh).
Vua chỉ đứng dưới một người là Trời, cịn đứng trên muôn người: Trong
nước, quan lại là bầy tôi của vua, nhân dân là thần dân của vua. Nước (sơn hà,
xã tắc) là của vua.
Với địa vị như vậy, vua là người nắm trọn vương quyền: Vua là người duy
nhất có quyền đặt ra luật pháp; có tồn quyền bổ nhiệm, thăng giáng, thưởng
phạt, thuyên chuyển, quy định quyền hạn, trách nhiệm và lương bổng đối với
quan lại trong cả nước và có quyền quyết định cuối cùng đối với bất cứ vụ án
nào. Chỉ có vua mới có quyền đại xá hoặc đặc xá cho các can phạm.
Ngoài vương quyền, vua cịn nắm thần quyền: Chỉ có vua mới có quyền tế
trời, cịn thần dân chỉ được thờ cúng tổ tiên mình và thần thánh. Vua là người

đứng đầu bách thần trong cả nước, có quyền phong chức tước cho thần thánh
(bằng các sắc phong thần), điều động thần thánh (quy định nơi thờ cúng thần
thánh).
Người đứng đầu nhà nước quân chủ chuyên chế (vua, quốc vương, hoàng
đế) thường được kế truyền theo ba nguyên tắc:
Nguyên tắc ngôi vua khơng thể chia, nước chỉ được có một vua, ngôi
vua chỉ truyền cho một người.
- Nguyên tắc trọng nam, chỉ truyền ngôi cho con trai, không truyền cho
con

gái.
Nguyên tắc trọng trưởng, trọng đích, ngơi vua chỉ có thể truyền cho con
trai trưởng.


2


BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

Trong chế độ phong kiến, vai trò, quyền lực của vua và phương thức
truyền ngôi vua tuy không được ghi thành luật thành văn nhưng đã trở thành
những tập quán chính trị cơ bản nhất, bền vững và có hiệu lực nhất.
Trong nhà nước phong kiến Việt Nam, địa vị của vua không phải khi nào
cũng độc tôn vì có nhiều triều đại thiết lập chế độ nhà nước lưỡng đầu, quyền
lực nhà nước tối cao do hai vua cùng nắm giữ (nhà Trần, Hồ, Mạc) hoặc bị chia
sẻ cho chúa (nhà Lê - Trịnh từ 1599- 1786). Điều đó thể hiện sự áp dụng mềm
dẻo và linh hoạt các quan điểm chính trị-pháp lí Nho giáo vào quá trình tổ chức

và thực hiện quyền lực nhà nước tối cao của một số triều đại phong kiến Việt
Nam.
Lịch sử phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam cũng cho thấy
quyền lực của vua không phải là tuyệt đối và vơ hạn. Có một sổ yếu tố hạn chế
quyền lực của nhà vua:
Trách nhiệm yêu dân như yêu con của vua xuất phát từ quan điểm “thiên
mệnh”. Nhà vua muốn thực hiện được thiên mệnh, nhà vua phải thân dân. Ở
Việt Nam, trong thời kỳ phong kiến, thân dân của nhà vua không chỉ xuất phát
từ tư tưởng thân dân của Nho giáo, mà còn xuất phát từ việc thực hiện chức
năng cơ bản của nhà nước. Nằm ở phía Nam của phong kiến Trung Quốc, người
Việt ln phải đối phó với nạn bành trướng bá quyền của Trung Quốc. Chức
năng chống ngoại xâm trở thành chức năng cơ bản hàng đầu của tất cả các
vương triều phong kiến Việt Nam: nhà Lý chống Tống, nhà Trần chống Nguyên
Mông, nhà Lê chống Minh, nhà Tây Sơn chống Thanh… Để thực hiện chức
năng đó, các triều đại phong kiến Việt Nam ln phải tính đến việc thu phục
lịng dân, củng cố khối đoàn kết dân tộc bằng cách thân dân. Bổn phận thân dân
luôn được khẳng định trong các tuyên bố của vua phong kiến. Ví như khi đại
thắng quan Minh, Lê Lợi tuyên bố: “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Minh
Mạng tự coi mình là cha mẹ của dân, vua đối với dân cũng như cha hiền đối với
con.
Các tập qn chính trị đã được hình thành từ các đời vua cha theo quan
điểm pháp tiên vương. Các tập quán chính trị thời phong kiến (cách thức xử sự
truyền thống) có sức sống mãnh liệt, bởi nó có chỗ dựa vững chắc từ quan điểm
“ pháp tiên vương” của đạo Nho. Khi vào Việt Nam, quan điểm “pháp tiên
vương” đã bị thay đổi, bên cạnh việc học tập các điển chương, chế độ của các
ông vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc như Nghiêu,Thuấn, Hán, Đường, các
vua Lê, Nguyễn còn đưa ra quan điểm “pháp tổ” (noi theo tổ tiên ). Các triều đại
phong kiến Việt Nam lấy cách thức xử sự của tiên vương bao gồm chính lệnh,
luật pháp, tập quán cai trị làm khn mẫu trong cách thức cai trị của mình. Cách
thức xử sự truyền thống trong cai trị của các tiên vương làm cho các hồng đế

đương quyền khơng thể hồn tồn cai trị theo ý chí của mình.
3


BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

Chế độ đình nghị trong hoạt động của triều đình. Phương thức đình nghị
là một tập qn chính trị trong các triều đại phong kiến Việt Nam, trước khi đưa
ra các quyết sách quan trọng, nhà vua phải tham khảo ý kiến của Hội đồng đình
thần trong các phiên triều. Mặc dù ý kiến của hội đồng đình thần, của các quan
chức trực tiếp quản lý và giải quyết chỉ có giá trị tư vấn song ý kiến của họ khiến
nhà vua khi quyết định chính sách, ban hành pháp luật khơng thể cực đoan. Ví
như Bà Chiêu Linh - Thái Hậu dưới thời nhà Lý định phế Thái Tử Long Cán,
con trai vua Lý Anh Tông (1176-1210) để lập con riêng của mình là Long
Xưởng lên làm vua. Theo sử thì bà Thái Hậu này mặc dù nắm quyền hành trong
nước lúc bấy giờ đã không sao thi hành được ý định của mình vì đình thần nhất
định tuân theo di chiếu, phản đối việc phế lập này.
Chế độ tuyển dụng quan lại qua khoa cử. Thể lệ thi cử thời đó khá cơng
bình và dân chủ: sang hèn giàu nghèo ai cũng có quyền ứng thi và người nào đỗ
đạt sẽ được làm quan. Khoa cử với một đặc trưng khách quan vô tư đã lựa chọn
được nhân tài cho đất nước, song mặt khác khoa cử khiến nhà vua không thể
mặc sức theo ý muốn của mình mà bổ nhiệm quan lại. Nhà vua bên cạnh việc
đặt ra thể lệ cách thức bổ nhiệm còn phải căn cứ vào kết quả xếp loại khoa cử
của các nho sĩ để bổ nhiệm quan lại. Chính điều này khiến nhà vua hạn chế được
sự độc đoán chuyên quyền.
Chế độ tự trị - tự quản truyền thống của làng xã trên tất cả các lĩnh vực:
lập pháp, hành pháp, tư pháp, kinh tế và tín ngưỡng. Khi nhà nước phong kiến ra
đời, hoạt động lập pháp được tăng cường, pháp luật được ban hành thống nhất

trong phạm vi toàn quyền nhưng làng xã với phong tục từ ngàn đời vẫn điều
chỉnh quan hệ trong nội bộ làng xã bằng phong tục tập quán và nhà nước lại
buộc phải thừa nhận hợp pháp hóa lệ làng. Quyền hành của nhà vua bị hạn chế
do chế độ tự trị của làng xã. Sở dĩ như vậy vì làng nào cũng có phong tục tập
quán riêng. Làng nào cũng có Hội đồng kỳ mục do dân cử ra để trông coi mọi
việc trong làng. Đứng đầu là tiên chỉ, thứ chỉ rồi có lý trưởng, phó lý do Hội
đồng kỳ mục cử ra để giao thiệp với cấp trên. Sự giao tiếp giữa làng và nước ở
đây có chăng chỉ là hai việc lớn, một là việc đóng thuế hàng năm cho cơng khố,
và hai là cung cấp số lính cần thiết cho quân đội hoàng gia. Nhưng trong hai
việc này, vua không trực tiếp giao thiệp với dân chúng trong xã mà buộc phải
dùng tổng xã làm trung gian. Bởi vậy mới có câu ngạn ngữ nổi tiếng: “phép vua
thua lệ làng”.
Ngoài ra, trong chế độ phong kiến Việt Nam, phương thức truyền ngôi
vua đã được áp dụng mềm dẻo hơn so với ngun tắc truyền ngơi vua của Trung
Hoa.
Ví dụ: Năm 980, Thái hậu Dương Vân Nga của nhà Đinh trong bối cảnh
quân Tống sắp kéo sang đánh Đại Cồ Việt, nhận thấy các tướng sĩ đều thuận
4


BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

việc tơn Thập đạo tướng qn Lê Hồn lên làm vua để lãnh đạo kháng chiến.Với
tư cách nhiếp chính của triều đình lúc bấy giờ, bà đã đem áo long cổn của con
trai mình là Đinh Thiếu Đế Đinh Tồn khốc lên mình nhân vật này, mở ra triều
đại Tiền Lê. Hoặc như Nhân Tơng là vị hồng đế trị vì lâu dài nhất trong lịch sử
Việt Nam, tuy nhiên ơng khơng có con. Vì vậy, ơng chọn trong các con em
hoàng tộc một người để kế vị và chọn được Lý Dương Hoán, là con của người

em Sùng Hiền hầu, tức là cháu gọi ông bằng bác. Năm 1128, Lý Nhân Tông qua
đời, hưởng thọ 63 tuổi, Dương Hốn lúc đó mới 11 tuổi lên nối ngơi, tức là Lý
Thần Tông. Việc Nhân Tông qua đời và truyền ngôi cho Thần Tông đánh dấu sự
chuyển dời ngôi vua từ chi trưởng cho chi dưới và cũng kết thúc thời kỳ phát
triển đỉnh cao của nhà Lý.
2. Cơ quan trong bộ máy nhà nước ở Trung ương
Thời kỳ Lý - Trần - Hồ (thế kỷ XI - XV) có thể được coi như giai đoạn
tiền mơ hình. Ngay từ khi lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, Lý Thái
Tổ đã có một tầm nhìn chiến lược, xây dựng một vương triều ổn định lâu dài,
mô phỏng những thiết chế của chế độ quân chủ tập quyền Trung Hoa. Qua thời
Trần, những thiết chế đó càng được củng cố và kiện toàn hơn với sự tham chính
của ngày càng nhiều của tầng lớp quan liêu nho sĩ. Cơ cấu, chức danh của hệ
thống hành chính quan chế, các lễ nghi, việc đặt tên các cung điện cũng đều
được mô phỏng - đôi khi là gần như nguyên vẹn - theo các thể chế Trung Hoa.
Bộ máy nhà nước Lý, Trần, Hồ: Đứng đầu nhà nước là vua, vua quyết
định mọi việc quan trọng, giúp vua có tể tướng và các đại thần, bên dưới là sảnh,
viện, đài. Bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế được cải tiến hoàn chỉnh hơn.
Tuy nhiên bộ máy nhà nước mơ phỏng quan chế Trung Quốc tỏ ra khơng thích
hợp với một nước nhỏ là Đại Việt. Thiết chế tự trị - tự quản của của cộng đồng
các làng xã với chế độ ruộng công và những quan hệ xã hội mang tính bình đẳng
vẫn cịn giữ vai trị chủ đạo ở nông thôn, chưa bị biến chất bởi sự can thiệp, chi
phối của nhà nước phong kiến.
Chế độ phong kiến nhà nước quan liêu Việt Nam đã phát triển tới giai
đoạn mơ hình dưới thời Lê Sơ (thế kỷ XV). Triều đại này ra đời trên cơ sở
những thành quả của cuộc kháng chiến chống Minh và đồng thời là những
chuyển biến xã hội Đại Việt dưới thời thuộc Minh.
Hai thập kỷ thuộc Minh đầu thế kỷ XV thực sự đã là cuộc Bắc thuộc lần
thứ hai, có những tác động sâu sắc tới xã hội Đại Việt, tạo nên một bước ngoặt
lịch sử. Với chế độ trực trị quận huyện, nhà Minh đã du nhập và áp đặt vào Đại
Việt gần như nguyên vẹn những thiết chế chính trị và hệ tư tưởng của chế độ

quân chủ tập quyền chuyên chế kiểu Trung Quốc ở giai đoạn phát triển cao.

5


BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

Chính quyền phong kiến nhà Lê Sơ được tổ chức theo tổ chức bộ máy nhà
Minh. Được hoàn thiện dần và đến thời vua Lê Thánh Tơng thì hồn chỉnh nhất.
Đứng đầu triều đình là vua. Để tập trung quyền lực vào nhà vua, Lê Thánh Tông
bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như tướng quốc, đại tổng quản, đại hành
khiển. Vua trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả chức tổng chỉ huy quân đội.
Giúp việc vua có các quan đại thần. Ở triều đình có sáu bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh,
Hình, Cơng). Ngồi ra, cịn có một số cơ quan chun mơn như Hàn lâm viện
(soạn thảo công văn), Quốc sử viện (viết sử), Ngự sử đài (can gián vua và các
triều thần) . Đến giữa thời Lê Trung Hưng, các chúa Trịnh nắm hết quyền hành,
lập ra lục phiên (Lễ phiên, Lại phiên, Công phiên, Hộ phiên,..) nằm trong phủ
chúa, tồn tại song song với lục bộ. Lúc này lục bộ chỉ còn là hình thức, mọi việc
do Lục phiên đảm trách. Có thể nói, Lục bộ là mơ hình bộ máy hành chính trung
ương theo lối quan liêu Nho giáo của Trung Quốc được áp dụng hết sức thành
công thời Lê sơ-giai đoạn thịnh trị nhất của chế độ phong kiến Đại Việt.
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, chế độ phong kiến nhà nước quan liêu
Việt Nam bước vào giai đoạn hậu mơ hình. Thiết chế chính trị và hệ tư tưởng
chính thống lúc này đã trở nên chật hẹp, lạc hậu so với thực thể đời sống xã hội
phát triển, đã mang nhiều yếu tố vượt qua tính chất phong kiến truyền thống.
Trải qua rất nhiều những thăng trầm, biến động lịch sử, thiết chế quân chủ
tập quyền vẫn được duy trì ở Việt Nam. Thời Trịnh - Nguyễn, đất nước bị phân
liệt thành Đàng Ngoài và Đàng Trong, nhưng ở mỗi miền, vẫn là một nhà nước

phong kiến tập quyền, về đại thể là giống nhau. Qua nhiều chao đảo, tới thế kỷ
XIX, chế độ quân chủ chuyên chế lại được phục hồi, củng cố, thậm chí phát
triển đến giai đoạn cao nhất và tột cùng dưới thời Nguyễn.
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh thiết lập vương triều Nguyễn
(1802-1945). Về thể chế chính trị, chế độ quân chủ tập quyền của triều Nguyễn
gắn với 4 đời vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Giai đoạn 18021884 là thời kỳ độc lập, tự chủ của vương triều Nguyễn. Kế thừa những di sản từ
mô hình thể chế chính trị và tổ chức bộ máy chính quyền trước đó, nhà Nguyễn
thiết lập được thiết chế quân chủ với tính tập quyền cao nhất trong lịch sử chính
trị Việt Nam.
Trong tổ chức bộ máy nhà nước thời Nguyễn, nhà vua là người đứng đầu
cả nước, tập trung trong tay toàn bộ quyền lực. Thực hiện tư tưởng tôn quân đại
thống nhất, triều Nguyễn đặt ra lệ “Tứ bất: bất lập Tể tướng, bất lập Hoàng hậu,
bất phong vương, bất lập Trạng nguyên”, đồng thời hạn chế phong các tước
công, hầu nhằm tập trung cao độ quyền lực nhà nước cho nhà vua. Ở trung
ương, các cơ quan trực thuộc Hồng đế gồm có: Tam Nội viện (sau đổi thành
Văn thư phòng và Nội các) đảm nhiệm chức năng văn phòng; Viện cơ mật dự
bàn những việc cơ mưu trọng yếu cùng nhà vua; Lục Bộ (Binh, Hình, Lễ, Lại,
6


BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

Công, Hộ) được nhà vua giao quản lý các lĩnh vực quan trọng nhất của nhà nước
về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bộ Lại: Giữ những chính sự thăng
giáng về quan văn trong kinh và ở các tỉnh, chỉnh đốn phương pháp làm quan để
giúp chính sự trong nước. Bộ Hộ: Nắm giữ các chính sách về điền thổ, hộ khẩu,
tiền thóc trong nước bình chuẩn việc phát ra thu vào, để điều hòa nguồn của cải
nhà nước. Bộ Lễ: Giữ trật tự 5 lễ, hòa hài giữa thần và người, trên và dưới, để

giúp việc lễ cho nước. Bộ Binh: Chuyên việc bổ nhiệm, tuyển dụng các chức võ
trong ngạch, khảo duyệt khí giới, lương thực để giúp việc chính trị trong nước.
Bộ Hình: Giữ việc pháp luật, án từ để nghiêm phép nước. Bộ Công: Coi giữ việc
thợ thuyền đồ dùng trong thiên hạ, phân biệt vật hạng, xét rõ tài liệu để sửa sang
việc nước. Nhà Nguyễn còn vận dụng các cơ quan sáng tạo như: Nội các, các
thanh lại ty trong Lục bộ. Bên cạnh đó cịn có các cơ quan chuyên môn (tự,
giám, quán, phủ, tào…); các cơ quan tư pháp và giám sát (Đại lý tự, Đô sát
viện…). Bộ máy nhà nước thời Nguyễn được đánh giá là bộ máy có quyền lực
mạnh nhất so với các triều đại trước đó. Với một nhà nước tập quyền mạnh, đỉnh
cao dưới thời kỳ vua Minh Mạng (1820-1840), công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước của triều Nguyễn đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
3. Cơ quan trong bộ máy nhà nước ở địa phương
Chính quyền địa phương thời phong kiến của Việt Nam vẫn áp dụng cách
thức quản lý theo các đơn vị hành chính lãnh thổ của Trung Quốc.
Thời các vua Lê trước Lê Thánh Tơng: Chính quyền địa phương gồm các
cấp: Đạo, lộ (trấn, phủ), châu, huyện và xã.
- Thời Hồ: Cấp lộ, cấp phủ, cấp châu, cấp huyện và cấp xã
- Thời Trần: Cấp lộ, cấp phủ - châu, cấp xã
- Thời Lý: Cấp lộ - trại, cấp phủ châu, cấp hương - xã - sách
- Thời tiền Lê: Cấp đạo, cấp hành chính cơ sở giáp, cấp xã
Sự phân chia các cấp trong chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh
Tơng so với các triều vua Lê trước và triều đại Lý - Trần (ngoại trừ nhà Hồ) vẫn
giữ tính vùng miền. Sự phân chia chính quyền địa phương thời vua Lê Thánh
Tơng nhằm thu hẹp quyền hành của chính quyền địa phương và tăng sự lệ thuộc
vào chính quyền trung ương.
Cấp đạo của thời kỳ vua Lê Thánh Tông là kế thừa cấp đạo của thời kỳ
nhà Đường. Nhưng cách thức tổ chức cấp đạo lại kế thừa từ thời kỳ nhà Minh
của Trung Quốc.
Từ năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo và phủ Trung Đơ
(có thời gian được gọi là phủ Phụng Thiên). Năm 1471, Lê Thánh Tông đánh

chiếm thêm một phần đất của người Chămpa và lập thêm đạo Quảng Nam (gồm
7


BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

Quảng Nam, Quảng Bình, Quảng Ngãi ngày nay). Như vậy, từ năm 1471, Đại
Việt có 13 đạo và phủ Trung Đô. Từ năm 1490, đạo được gọi là xứ (hay cịn gọi
là xứ thừa tun), có 13 xứ và Trung Đô phủ. Đồng thời, Lê Thánh Tông bãi bỏ
chức Hành khiển và thay vào đó bằng ba ty (sử sách thường gọi là tam ty), bao
gồm:
- Thừa ty phụ trách hành chính, tài chính, dân sự.
- Đơ ty trong coi việc quân.
Hiến ty có chức năng xét xử và giám sát hai ty trên, giám sát mọi công
việc trong đạo để tâu lên triều đình.
Sự phân chia này nhằm xóa bỏ tình trạng lộng quyền dẫn đến xu hướng
cát cứ ly tâm của quan lại địa phương đồng thời tạo ra sự thống nhất chỉ đạo từ
trên xuống gắn địa phương với trung ương để thống nhất các mặt hoạt động của
đất nước. Ngoài ra để tăng cường hơn nữa sự giám sát của trung ương đối với
cấp đạo, ngự sử đài ở triều đình đã đặt 6 ty ngự sử tại các đạo. Mỗi ty ngự sử đài
giám sát hai hoặc ba đạo. Ty ngự sử không phải là cơ quan địa phương mà là cơ
quan của ngự sử đài trung ương. Đứng đầu ty ngự sử là chức quan giám sát ngự
sử mang hàm chánh thất phẩm. Riêng Trung Đô phủ (phủ Phụng Thiên) quan
đứng đầu phủ là phủ doãn mang hàm chánh ngũ phẩm, chức phó là thiều dỗn
với hàm chánh lục phẩm. Như vậy, tuy phủ Trung Đơ là đơn vị hành chính trung
ương tương đương cấp đạo nhưng có hình thức tổ chức chính quyền khác hẳn
cấp đạo.
Đến thời kỳ nhà Nguyễn, cấp hành chính cao nhất trực thuộc Trung ương là

cấp tỉnh. Cấp tỉnh thời kỳ nhà Nguyễn là kế thừa từ thời kỳ nhà Thanh của Trung
Quốc. Đứng đầu cấp tỉnh thời kỳ nhà Nguyễn cũng giống như của thời kỳ nhà
Thanh. Đó là năm viên quan: Tổng đốc, tuần phủ, án sát, bố chánh và lãnh binh.

Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và chuyên trách
1 tỉnh) coi việc thống trị quân dân và các hàng văn võ, sát hạch quan lại và sửa
sang bờ cõi. Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh) coi việc tuyên bố
đức hoá của nhà vua, vỗ n dân chúng, coi quản chính trị, giáo hóa, trừ hại cho
dân. Giúp việc có Bố chánh coi việc thuế khóa, tài chính trong tồn hạt, chấn
hưng phong hóa, kỷ cương, trừng thanh quan lại, kiêm quản cả việc bưu chính
trong hạt. Án sát lo về an ninh, luật pháp. Phụ trách về quân sự có chức lãnh
binh. Hai ty bố chánh và án sát đều có Thơng phán, Kinh lịch, Bát, Cửu phẩm và
Vị nhập lưu thư lại, theo quan trên làm việc công. Tất cả các quan chức đứng
đầu tỉnh đều do chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm và thường là võ quan
cao cấp (về sau nhà Nguyễn mới bổ dụng thêm các quan văn). Hệ thống chính
quyền được phân biệt rõ rệt giữa trung ương và địa phương và trong hệ thống

8


BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

này nhà vua, người đứng đầu đất nước, nắm nhiều quyền lực hơn hẳn so với các
thời kỳ trước.
Chính quyền địa phương thời phong kiến của Việt Nam vẫn áp dụng cách
thức quản lý theo các đơn vị hành chính lãnh thổ của Trung Quốc. Tuy nhiên,
chính quyền phong kiến Việt Nam đã có nhiều tiếp thu chọn lọc, sáng tạo cách
thức quản lý để phù hợp với mục tiêu cai trị, tình hình kinh tế, xã hội, truyền

thống lịch sử, văn hóa của người Việt, tạo nên yếu tố đặc thù riêng biệt của hệ
thống chính quyền địa phương của Việt Nam so với Trung Quốc. Yếu tố đặc thù
riêng biệt của hệ thống chính quyền địa phương của Việt Nam so với Trung
Quốc chính là cấp xã.
Thời vua Lê Thánh Tông, các xã được chia thành 3 loại: xã lớn (đại xã) có
từ 500 hộ dân trở lên được bầu 5 xã trưởng, xã vừa (trung xã) có từ 300 hộ đến
dưới 500 hộ có 4 xã trưởng và xã nhỏ (tiểu xã) có từ 100 hộ đến dưới 300 hộ có
2 xã trưởng, dưới 60 hộ có 1 xã trưởng. Chức xã quan (xã trưởng) do dân bầu,
Nhà nước chỉ đạo và xét duyệt, tiêu chuẩn là các giám sinh, sinh đồ, từ 30 tuổi
trở lên và có hạnh kiểm tốt. Điều này thể hiện vai trò của nhà nước cũng như
mối quan hệ gắn kết giữa nhà nước trung ương và địa phương.
Ngay từ khi nhà Nguyễn mới ra đời, thời Gia Long và sau này vua Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều tiếp thu, thừa hưởng kinh nghiệm tổ chức cấp xã
thời Lê và có phần sáng tạo thêm. Ở xã, nhà Nguyễn vẫn duy trì xã trưởng người đứng đầu hàng xã với chức năng và nhiệm vụ được quy định khá rõ ràng.
Giúp việc xã trưởng để ghi chép sổ sách, giấy tờ của xã cịn có viên Thủ bạ (Xã
bạ). Thủ bạ lưu giữ các tờ trát, sức, lệnh chỉ (công văn của Nhà nước gửi đến),
bảo quản sổ đinh, sổ điền, địa bạ, hương ước, khoán ước của làng xã. ở một số
nơi do Thủ khoán lưu giữ hương ước và những đơn từ kiện cáo tranh chấp dân
sự, cùng các bản tâu báo về tình hình làng xã sở tại gửi cấp trên hàng năm.
Về quy mô cấp xã thời kỳ đầu nhà Nguyễn, thường gồm một thôn (làng) “Nhất xã nhất thôn” hoặc hai đến bốn năm thôn. Đương nhiên, người đứng đầu
hàng xã là xã trưởng. Dưới thôn (làng) ngay trong thời kỳ Nguyễn Ánh chiếm
được một số vùng đất ở Gia Định đã đặt chức lý trưởng. Lý trưởng là người
đứng đầu thôn làng, chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trực tiếp đốc thúc dân
đinh thực hiện bằng được ba nghĩa vụ cơng ích về thuế, phu, lính. Lý trưởng do
dân làng bầu ra. Tiêu chuẩn được chọn làm Lý trưởng phải là nam giới tuổi từ 25
trở lên, là người có gia sản, biết chữ, có uy tín đối với dân làng. Việc bầu Lý
trưởng diễn ra ở trong thôn. Kết quả bầu cử Lý trưởng được xã, tổng, huyện
công nhận và cấp bằng son, dấu (triện) để làm việc. Thời hạn làm việc của một
khóa Lý trưởng là 3 năm hoặc 6 năm, tùy theo lệ làng.


9


BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

Như vậy, ngay sau khi thiết lập vương triều Nguyễn, vua Gia Long đã rất
quan tâm đến việc nắm bắt làng xã thông qua việc xét duyệt và nắm lấy bộ máy
chức dịch ở làng xã. Đến thời vua Minh Mạng đã tiến thêm một bước nữa trong
việc cải cách bộ máy hành chính trên tồn lãnh thổ trong đó có việc lập ra Lý
trưởng ở làng vào năm 1827 và cả một bộ máy hành chính gọn nhẹ mà đắc lực,
nhằm thu phục đồng thời tăng cường khống chế làng xã theo quỹ đạo quân chủ.
Các triều vua Thiệu Trị, Tự Đức tiếp tục duy trì quyền lực ở làng xã mà các tiên
đế đã đặt nền móng.

Sơ đồ tổ chức chính quyền thời Lê sơ (1428 - 1527)
C. KẾT LUẬN

Qua bài phân tích trên đây, phần nào giúp chúng ta hiểu được sự kết hợp
giữa yếu tố Trung Hoa và Đại Việt trong nhà nước phong kiến Việt Nam. Mơ
hình nhà nước qn chủ tập quyền và hệ tư tưởng nho giáo Trung Hoa khi du
nhập và phát triển ở mảnh đất Việt Nam, tất yếu và mặc nhiên đã bị biến thái,
phai nhạt, lai tạp đi nhiều so với nguyên bản của nó ở Trung Hoa. Điều đó càng
được khẳng định một khi nền văn hoá khởi thuỷ của Việt Nam đã dựa trên cơ
tầng Đông Nam Á với nền tảng tư tưởng của Phật giáo và các tín ngưỡng dân
gian, có vai trị đối trọng với hệ tư tưởng Nho giáo chính thống. Xưa kia, vua
10



BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

Trần Nghệ Tông đã đưa ra nhận xét: “Nam và Bắc bên nào cũng có vua nước ấy
làm chủ, khơng cần bắt chước nhau”. Cịn Nguyễn Trãi thì trịnh trọng tuyên bố:
“Núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác”.

11


BÀI TẬP LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Nhóm 4, Đề số 4

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nxb Công An nhân
dân, trường Đại học Luật Hà Nội.
2.
Bài viết Đánh giá mơ hình nhà nước dưới triều vua Lê Thánh Tơng
trên trang />3.
Bài viết: Hành chính Việt Nam thời Nguyễn trên trang:
/>%87t_Nam_th%E1%BB%9Di_Nguy%E1%BB%85n
4.
Bài viết: Hành chính Việt Nam thời Lê sơ trên trang:
/>%87t_Nam_th%E1%BB%9Di_L%C3%AA_s%C6%A1
DANH SÁCH 16 HỌC VIÊN TỔ 4 THAM GIA LÀM BÀI TẬP
1. Bùi Mạnh Toàn – Mã SV: VB2TKS751

2. Bùi Thị Minh Thùy – Mã SV: VB2TKS747
3. Bùi Thị Viễn – Mã SV: VB2TKS758
4. Dương Thị Ngọc Thùy – Mã SV: VB2TKS748
5. Hoàng Thị Mỹ Duyên – Mã SV: VB2TKS713
6. Hoàng Thu Trang – Mã SV: VB2TKS753
7. Khương Tùng Linh – Mã SV: VB2TKS730
8. Lương Ngọc Thủy – Mã SV: VB2TKS749
9. Ngô Nguyệt Thu – Mã SV: VB2TKS7063
10.Nguyễn Gia Long – Mã SV: VB2TKS735
11.Nguyễn Ngọc Yến – Mã SV: VB2TKS759
12.Nguyễn Quyết Tiến – Mã SV: VB2TKS750
13.Nguyễn Thế Tùng – Mã SV: VB2TKS755
14.Nguyễn Thị Hằng – Mã SV: VB2TKS719
15.Nguyễn Thị Thùy Nhinh – Mã SV: VB2TKS7062
16.Nguyễn Trọng Thắng, sinh ngày 15/6/1984 (chưa được cấp mã SV)

0



×