TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LUẬT
-------***-------
BÀI TẬP LỚN
MÔN PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP
PHÂN TÍCH ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT
DOANH NGHIỆP 2020 SO VỚI LUẬT
DOANH NGHIỆP 2014 VỀ BỘ PHẬN
PHÁP LUẬT ĐẦU VÀO ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP NÓI CHUNG VÀ CƠ CẤU TỔ
CHỨC QUẢN LÝ CỦA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC NĨI RIÊNG
Nhóm thực hiện:
Lớp tín chỉ:
Người hướng dẫn:
01
PLU401 (GD2-HK1-2021).3
PGS., TS. Bùi Ngọc Sơn
Hà Nội, tháng 12/2021
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM
STT
1
2
3
4
Chi tiết
đánh giá
ở Bảng
5
đánh giá
cơng việc
6
7
8
9
10
11
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VÀ SỰ RA
ĐỜI CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2020
1.1. Sơ lược về Luật Doanh nghiệp 2014
1.2. Những hạn chế của Luật Doanh nghiệp 2014
1.3. Sự cần thiết phải ban hành Luật Doanh nghiệp 2020
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2020 VỀ
BỘ PHẬN PHÁP LUẬT ĐẦU VÀO ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NÓI CHUNG
VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC NÓI
RIÊNG
2.1. Điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2020 về bộ phận pháp luật đầu vào đối
với doanh nghiệp nói chung
2.1.1. Điểm mới về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp
2.1.2. Điểm mới về điều kiện thành lập doanh nghiệp
2.1.3. Điểm mới về trình tự - thủ tục đăng ký doanh nghiệp
2.2. Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2020 về cơ cấu tổ chức quản lý của
doanh nghiệp nhà nước nói riêng
2.2.1. Những đổi mới và kế thừa của Luật Doanh nghiệp 2020
2.2.2. Ý nghĩa của các đổi mới trong Luật Doanh nghiệp 2020 đối với cơ cấu tổ chức quản lý
của doanh nghiệp nhà nước
2.2.3. Một số ví dụ thực tiễn sau áp dụng thay đổi của Luật Doanh nghiệp 2020
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VỀ CÁC ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP
2020
3.1. Nhận xét của chuyên gia
3.2. Nhận xét của nhóm
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BẢNG ĐÁNH GIÁ CÔNG VIỆC
LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp làm tha y
đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp. Xét về phạ m vi,
mức độ và tính phức tạp, sự dịch chuyển này không giống với bất kỳ điề u gì mà
con người từng trải qua. Song song với sự phát triển đó, nước ta cũng đã và đang
trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, với một nền kinh tế thị trư ờng phát
triển mạnh mẽ đã kéo theo sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp với đủ các
loại hình cũng như ngành nghề kinh doanh vô cùng đa dạng và pho ng phú. Đó là
một trong những thành tựu của nền kinh tế thị trường đã làm tha y đổi bộ mặt của
đất nước một cách đáng kể. Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt q uan trọng của nền
kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm quốc nội. Nhờ tham gia vào hoạt
động thương mại quốc tế, các doanh nghiệp có thể tăng hiệu quả sản xuất - kinh
doanh, mở rộng quy mơ và đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh nhằm tạo lợi
nhuận tốt hơn cho doanh nghiệp. Và trong những nă m gần đây, các hoạt động
của doanh nghiệp đã có những bước phát triển đột p há, góp phần giải phóng, gia
tăng sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực v ào việc phát triển nền kinh tế
đồng thời giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội.
Song song với sự phát triển đó, nước ta cũng đã và đang đưa ra các chính s
ách nhằm quản lý các loại hình doanh nghiệp một cách phù hợp để đảm bảo
sự kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh và tạo điều kiện phát triển cho các
do anh nghiệp. Luật Doanh nghiệp 2020 hiện nay đã được sửa đổi, bổ sung
thay t hế cho Luật Doanh nghiệp 2014 nhằm giải quyết những hạn chế, bất cập
và gó p phần tạo điều kiện mở ra môi trường kinh doanh phù hợp với xu
hướng phát triển của thế giới.
Từ việc đánh giá, tìm hiểu về pháp luật doanh nghiệp tại Việt Nam, cho ph ép
khẳng định, cho đến nay, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một các h cơ
bản, toàn diện và có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về các loại h ình
doanh nghiệp và quy định pháp luật về doanh nghiệp nói chung, từ đó chỉ r a cơ
sở khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về các loại hình doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh sự hoàn hảo về mặt nội dung lẫn hì
1
nh thức đó cịn ẩn sâu rất nhiều những lý luận, kiến thức mà chính chúng ta ha
y những người đang hoạt động trên phương diện đại diện cho một doanh nghiệ
p phải hiểu rõ và tường tận hơn nữa, đặc biệt là về pháp luật đầu vào đối với d
oanh nghiệp nói chung và cơ cấu tổ chức, quản lý của DNNN nói riêng.
Hiểu được vấn đề đó, nhóm đã lựa chọn đề tài: “Phân tích điểm mới của
Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014 về bộ phận pháp
luật đầu vào đối với doanh nghiệp nói chung và cơ cấu tổ chức quản lý của
doanh nghiệp nhà nước nói riêng” với mục đích là tập trung nghiên cứu và s
o sánh những điểm khác biệt, lý do của sự thay đổi cũng như giữ nguyên nhữn
g điều luật đó và đưa ra những ví dụ minh họa cụ thể và xác đáng.
Bài tiểu luận của nhóm bao gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát về Luật Doanh nghiệp 2014 và sự ra đời của Luật Doanh
nghiệp 2020
Chương 2: Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2020 về bộ phận pháp luật
đầu vào của doanh nghiệp nói chung và cơ cấu tổ chức quản lý của doanh
nghiệp nhà nước nói riêng
Chương 3: Nhận xét về các điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2020
Lần đầu được tiếp cận và nghiên cứu mơn Pháp luật doanh nghiệp, nhó
m chúng em khơng tránh khỏi những thiếu sót trong việc triển khai đề tài cũng
như kiến thức chuyên môn nên bài viết cịn nhiều hạn chế. Kính mong nhận đ
ược sự góp ý và bổ sung từ thầy để bài của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy PGS., TS. Bùi Ngọc
Sơn vì sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy trong quá trình học đã giúp nhóm chú
ng em hồn thành bài tiểu luận!
2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VÀ
SỰ RA ĐỜI CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2020
1.1. Sơ lược về Luật Doanh nghiệp 2014
LDN 2014 vừa tiếp tục kế thừa và phát huy các thành tựu các quy định của
LDN 2005, nhưng đồng thời nhiều quy định mới được sửa đổi, bổ sung nhằm loại bỏ
những hạn chế, khiếm khuyết của luật cũ, tiếp tục tạo môi trường đầu tư, kinh doanh
thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thơng qua LDN 2014, có hiệu lực kể từ ngày
01/07/2015. So với LDN 2005, LDN 2014 có 10 chương, 213 điều, tăng 41 điều.
1.1.1 Chương 1: Những quy định chung (Điều 1 - Điều 17)
Chương này gồm 17 chương, tăng 5 điều so với LDN 2005. LDN 2014 có
các thuật ngữ được bổ sung, các quy định bổ sung mới gồm quy định về quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng sản phẩm dịch vụ cơng ích, tiêu chí, quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội. Đặc biệt, LDN 2014 còn bổ sung thêm chế định
về người đại diện và trách nhiệm của họ.
1.1.2. Chương 2: Thành lập doanh nghiệp (Điều 18 - Điều 46)
Trong chương này, LDN đã sửa đổi các điều khoản: Điều 18 (Quyền thành
lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp), Điều 20
(hồ sơ đăng ký doanh nghiệp của doanh nghiệp tư nhân), Điều 21 (CTCP), Điều 23
(CTCP).... Các quy định đều được cập nhật sửa đổi theo hướng giảm thiểu thủ tục
hành chính, thời gian, chi phí chuẩn bị.
Trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp cũng được sửa đổi theo
hướng rút ngắn thời gian cấp GCNĐKDN xuống còn 3 ngày (Điều 27) so với trước
đây là 10 ngày làm việc. Các quy định về công bố thông tin liên quan đến doanh
nghiệp như công bố nội dung đăng ký kinh doanh (Điều 33), cung cấp thông tin về
nội dung đăng ký doanh nghiệp (Điều 34) đều được sửa đổi, bổ sung theo hướng
minh bạch hơn. Về con dấu doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép doanh
nghiệp được tự quyền quyết định về số lượng và hình thức con dấu cũng như cách
quản lý và sử dụng con dấu được cụ thể hóa trong điều k của doanh nghiệp (Điều
44).
3
Về tên doanh nghiệp, LDN 2014 cũng bổ sung một quy định về tên chi nhánh
văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp tại Điều 41.
1.1.3. Chương 3: Công ty TNHH (Công ty TNHH HTV trở lên (Điều 47 - Điều
72); Công ty TNHH MTV (Điều 73 - Điều 87)
Các nội dung sửa đổi ở Chương 3 bao gồm việc rút ngắn thời gian mà thành
viên phải nộp khi thành lập cơng ty xuống cịn 90 ngày kể từ ngày được cấp
GCNĐKDN (Điều 48), cho phép công ty áp dụng các thủ tục linh hoạt, giảm tỉ lệ
thành viên dự họp bắt buộc phải có để đủ điều kiện triệu tập họp HĐTV nhằm tăng
cường khả năng quản trị điều hành công ty (Điều 59); thi nhận giá trị pháp lý của
cuộc họp HĐTV dưới hình thức hội nghị trực tuyến hoặc phương tiện thông tin
tương tự khác (Điều 60).
Về nội dung bổ sung LDN 2014 có hai bổ sung đáng chú ý đối với loại hình
cơng ty TNHH MTV là: Hiệu lực nghị quyết của HĐTV (Điều 63) và Cơ chế khởi
kiện người quản lý (Điều 72).
1.1.4. Chương 4: DNNN (Điều 88 - Điều 109)
Đây là một Chương hoàn toàn thời trong LDN 2014. Tại chương này, các quy
định cơ bản về DNNN được xác định và điều chỉnh loại hình doanh nghiệp đặc thù
này. Các quy định tại chương này bao gồm: cơ cấu tổ chức quản lý, HĐTV, Chủ tịch
HĐTV, quyền và nghĩa vụ của thành viên trong HĐTV, Chủ tịch công ty, Giám
đốc/Tổng Giám đốc cơng ty, Ban kiểm sốt và cơng bố thông tin.
1.1.5. Chương 5: CTCP (Điều 110-Điều 171)
LDN 2014 bổ sung nhiều quy định nhằm minh bạch hóa CTCP như cơng
khai các lợi ích liên quan trong CTCP (Điều 159) hay công khai thông tin của CTCP
(Điều 171). Một quy định bổ sung quan trọng khác là LDN 2014 đưa thêm quy định
về phát hành cổ phiếu phần riêng lẻ đối với CTCP không phải là công ty đại chúng
một cách hợp lý, đơn giản hơn so với các quy định hiện hành (Điều 123).
1.1.6 Chương 6: Công ty hợp danh (Điều 172-Điều 182)
Chương 6 quy định về công ty hợp danh khơng có nhiều thay đổi so với LDN
2005, chủ yếu sửa đổi bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên
hợp danh (Điều 176), điều hành kinh doanh của công ty hợp danh (Điều 179), chấm
dứt tư cách thành viên hợp danh (Điều 180) và quyền, nghĩa vụ của thành viên góp
vốn (Điều 183)
4
1.1.7. Chương 7: Doanh nghiệp tư nhân (Điều 183-Điều 187)
Chương 7 quy định về doanh nghiệp tư nhân cũng không có nhiều biến động
so với LDN 2005. Nội dung sửa đổi cơ bản tập trung vào làm rõ địa vị pháp lý của
doanh nghiệp tư nhân và hạn chế của chủ doanh nghiệp tư nhân khi không được
đồng thời làm chủ hộ kinh doanh hay thành viên công ty hợp danh khác (Điều 183).
1.1.8. Chương 8: Nhóm cơng ty (Điều 188-Điều 191)
LDN 2014 xác định rõ hơn khái niệm “Tập đồn kinh tế” và “Tổng cơng ty".
Đây là nhóm các cơng ty có mối quan hệ với nhau thơng qua sở hữu cổ phần, phần
vốn góp hoặc liên kết khác mà khơng phải là một loại hình doanh nghiệp, khơng có
tư cách pháp nhân, khơng phải đăng ký thành lập theo LDN (Điểu 188).
Ngồi ra, LDN 2014 có bổ sung thêm các quy định về nhóm các cơng ty mẹ cơng ty con trong đó quy định quan trọng là cấm các công ty con của cùng một công
ty mẹ khơng được cùng nhau góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau (Điều
189). Nhằm làm rõ hơn cơ cấu và mối liên hệ giữa các công ty con trong cùng một
tập đồn và để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động của công ty mẹ, công ty con,
LDN 2014 cũng bổ sung thêm các quy định về quyền và trách nhiệm của công ty mẹ
đối với công ty con (Điều 190) và đưa ra một số u cầu về báo cáo tài chính của
cơng ty mẹ, công ty con (Điều 191).
1.1.9. Chương 9: Tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp (Điều 192 - Điều
207)
Ngoài việc kế thừa các quy định trước đây, LDN 2014 đã tập trung vào việc
hoàn thiện các quy định bất cập, thiếu tính khả thi khi áp dụng thực tiễn thời gian
qua. Luật mở rộng đối tượng được quyền hợp nhất, sáp nhập, chia tách công ty và
cho phép các cơng ty có cùng bản chất có thể được hợp nhất, sáp nhập, chia, tách mà
không bắt buộc phải có cùng loại hình tổ chức như ở LDN 20051.
LDN 2014 cũng bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục, phương thức hợp
nhất sáp nhập, chia, tách doanh nghiệp cũng như quy định chi tiết cách thức chuyển
đổi công ty và đăng ký kinh doanh lại doanh nghiệp sau khi thực hiện các thủ tục
này2. Bên cạnh đó, LDN 2014 còn quy định chi tiết hơn về các trường hợp điều kiện
Điều 192, 193, 194, 195 LDN 2005
Điều 196, 197, 198, 199
1
2
5
giải thể doanh nghiệp, trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp và hướng dẫn doanh
nghiệp chuẩn bị hồ sơ giải thể một cách rõ ràng3.
1.1.10. Chương 10: Tổ chức thực hiện (Điều 208-Điều 213)
LDN 2014, quy định về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp và quy định
về tổ chức thực hiện được gộp vào làm một vì về bản chất toàn bộ LDN đã thể hiện
được nội dung quản lý đối với doanh nghiệp bao gồm cả việc tổ chức quản lý, tổ
chức lại và giải thể doanh nghiệp. Nội dung thay đổi quan trọng nhất ở chương này
là là thu hẹp các trường hợp thu hồi GCNĐKDN so với luật cũ. Theo luật mới, chỉ
còn 4 trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi GCNĐKDN so với 8 trường hợp ở LDN
20054.
Điều 201, 202, 203 LDN
Điều 211 LDN 2005
3
4
6
1.2. Những hạn chế của Luật Doanh nghiệp 2014
LDN 2014 có nhiều quy định mới góp phần tạo ra một kênh pháp lý an toàn
cho việc thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu
tư, kinh doanh của nước ta. Song sau khi đưa vào thi hành, LDN 2014 bộc lộ một số
những tồn tại, hạn chế cần hoàn thiện.
Một là, về việc đăng ký kinh doanh:
Tại Điều 3 LDN 2014 có quy định về Áp dụng LDN và các luật chuyên
ngành, mà theo đó: “Trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc
thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh
nghiệp thì áp dụng quy định của Luật đó”. Nhưng hiện nay, các hoạt động như luật
sư, công chứng, giám định, trọng tài thương mại cũng đã được LĐT 2014 quy định
rõ là lĩnh vực đầu tư, thương mại. Tại Cơ quan đăng ký thương mại, nhưng chỉ theo
quy định của Luật Luật sư năm 2006 để cấp giấy phép và đăng ký kinh doanh riêng;
Luật Công chứng năm 2006; Luật Giám định tư pháp 2012, Luật Trọng tài thương
mại 2010;... Do đó, nhiều tổ chức hành nghề, chẳng hạn như các công ty luật và các
pháp nhân khác hoạt động như các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hồn tồn khơng có
thơng tin về “Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và thương mại” quy
định tại khoản 6 Điều 4 LDN 2014.
Tương tự, việc đăng ký kinh doanh của các ngân hàng thương mại và công ty
tài chính cũng giống như các doanh nghiệp khác, cịn cơng ty bảo hiểm, với tư cách
là doanh nghiệp điển hình, khơng thực hiện thủ tục này. Vì theo Điều 65 Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2000 “Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Do đó, nên xem xét quy định này của LDN 2014
hay LĐT 2014 yêu cầu thống nhất đăng ký kinh doanh tập trung đối với tất cả các
công ty và pháp nhân có hoạt động kinh doanh.
Năm là, về cơ cấu tổ chức CTCP:
Theo quy định tại điểm b, khoản 1, điều 134 LDN 2014, CTCP có quyền lựa
chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một mơ hình: “Đại hội đồng cổ đơng, Hội
đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp này ít nhất 20% số
thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ban kiểm tốn nội bộ
trực thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập thực hiện chức năng giám sát
và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành công ty”.
Trong mơ hình tổ chức này, có sự xuất hiện của Ban kiểm tốn nội bộ. Ban
này có chức năng “giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều
hành công ty”. Tức là, Ban kiểm toán nội bộ phải là thuộc Đại hội đồng cổ đơng, có
quyền kiểm sốt đối với việc quản lý, điều hành công ty của Hội đồng quản trị, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc và các cấp quản lý điều hành khác trong công ty. Tuy nhiên,
quy định tại điểm b, khoản 1, điều 134 LDN 2014 quy định Ban kiểm toán nội bộ
phải trực thuộc Hội đồng quản trị, tức là ban này do Hội đồng quản trị lập ra và thực
hiện nhiệm vụ được Hội đồng quản trị giao phó. Điều này khiến cho việc thực hiện
nhiệm vụ kiểm soát của Ban đối với hoạt động của Hội đồng quản trị gặp rất nhiều
khó khăn.
Khơng những vậy, LDN 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng khơng
có bất cứ quy định nào về cơ cấu tổ chức quản lý của Ban kiểm toán nội bộ, trách
nhiệm của Ban kiểm toán nội bộ, điều kiện, tiêu chuẩn thành viên và Trưởng Ban
kiểm toán nội bộ, các chế độ về lương lẫn các quyền lợi của thành viên Ban kiểm
toán nội bộ, việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên và Trưởng Ban kiểm toán
nội bộ;… Điều này khiến các CTCP gặp nhiều khó khăn khi muốn áp dụng mơ hình
vào cơ cấu tổ chức quản lý cơng ty.
Sáu là, về vấn đề họp hội đồng quản trị CTCP:
Theo quy định tại khoản 8, Điều 153 LDN 2014, cuộc họp Hội đồng quản trị
chỉ được tiến hành khi có từ 3/4 tổng số thành viên dự họp (đối với lần triệu tập thứ
nhất) và khi có hơn 1/2 thành viên Hội đồng quản trị dự họp (đối với lần triệu tập
họp thứ 2 sau lần thứ nhất). Tuy nhiên trên thực tế, sẽ có khơng ít trường hợp người
có thẩm quyền triệu tập cuộc họp Hội đồng quản trị đã gửi thông báo mời họp hợp lệ
đến các thành viên 2 lần nhưng vẫn không tiến hành họp được do không đủ số
lượng, làm ảnh hưởng đến quá trình điều hành hoạt động của cơng ty. Chính vì vậy,
cần thiết phải có giải pháp về mặt pháp luật để giúp doanh nghiệp tháo gỡ vướng
mắc này.
8
1.3. Sự cần thiết phải ban hành Luật Doanh nghiệp 2020
LDN và các nghị định hướng dẫn thi hành đã có những tác động tích cực tron g
tạo lập mơi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, thúc đẩy thành lập, phát triển v
à mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp. Năm 2018, cả nước có 131.275 doanh
n ghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 1.478.101 tỷ đồng. So với năm 2014
(trướ c khi LDN có hiệu lực), số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng gấp 1,75 lần
(so v ới 74.842 doanh nghiệp năm 2014) và số vốn đăng ký thành lập mới tăng gấp
3,4 lần (so với 432.286 tỷ đồng năm 2014). Một số nội dung quan trọng của Luật
như đăng k ý doanh nghiệp, bảo vệ cổ đông thiểu số được ghi nhận đã có thay đổi
mạnh mẽ. The o đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chỉ số khởi sự kinh doanh của
Việt Nam năm 20 19 đã tăng 21 hạng, hiện xếp hạng 104/190 (từ hạng 125/190 năm
2014); tổng thời gi an thực hiện thủ tục này giảm từ 34 ngày xuống chỉ còn 17 ngày.
Quy định về bảo vệ cổ đơng, nhà đầu tư có cải thiện mạnh mẽ, hiện xếp hạng 89/190
quốc gia (tăng 28 h ạng so với năm 2014 và 90 hạng so với năm 2013).
Thực tế cho thấy LDN và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những tác độ
ng tích cực trong tạo lập mơi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng; thúc đẩy huy đ
ộng vốn, phát triển và mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp; góp phần duy trì tă
ng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, đánh giá thực hiện LDN trong
hơn 8 năm qua cho thấy LDN bộc lộ những khiếm khuyết, gây ra khó khăn, vướng
m ắc, hạn chế việc hồn thiện và nâng cao chất lượng mơi trường kinh doanh nói
chung và phát triển doanh nghiệp nói riêng. Quan trọng hơn, một số nội dung của
Luật cần được hoàn thiện thêm nhằm nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh
theo yêu cầ u của Chính phủ và nâng cao chất lượng tổ chức quản trị doanh nghiệp
đạt chuẩn mự c của thông lệ tốt khu vực và quốc tế. Các khiếm khuyết cần khắc phục
và các nội du ng cần nâng cao chất lượng hơn nữa bao gồm như sau:
Thứ nhất, quá trình khởi sự kinh doanh và gia nhập thị trường hiện đang xếp
hạng ở mức thấp so với một số quốc gia trong khu vực và thế giới, bao gồm 8 thủ tục
và tổng thời gian thực hiện khoảng 17 ngày. Trong đó, một số thủ tục hành chính the
o quy định của LDN khơng cịn cần thiết, tạo ra gánh nặng chi phí như: thủ tục thơng
báo mẫu dấu (Điều 44) hoặc thủ tục đăng ký kinh doanh (Điều 27) chưa hoàn toàn đi
ện tử (vẫn phải nộp hồ sơ giấy) đã góp phần làm chậm q trình gia nhập thị trường.
Thứ hai, một số quy định của Luật về quản trị doanh nghiệp chưa thực sự tạo
thuận lợi cho cổ đông, nhà đầu tư thực hiện quyền của mình; ngược lại, tạo thêm rào
9
cản hoặc bị cổ đông lớn và công ty lạm dụng, gây tổn hại đến lợi ích của cổ đơng nh
ỏ Cụ thể, Luật quy định một số yêu cầu, điều kiện gây khó khăn cho cổ đơng tiếp cậ
n thông tin về hoạt động công ty và thực hiện quyền quan trọng, như: triệu tập họp Đ
ại hội đồng cổ đông, khởi kiện người quản lý công ty trong trường hợp họ lạm dụng
địa vị, quyền hạn gây thiệt hại cho cơng ty, cổ đơng,...Ngồi ra, một số quy định khá
c của Luật về quản trị doanh nghiệp cũng chưa phù hợp với thực tiễn, như: yêu cầu k
iểm soát viên CTCP do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phải là kiểm toán vi
ên hoặc kế tốn viên đã có chứng chỉ hành nghề là u cầu cao hơn so với thực tế do
số lượng kiểm tốn viên, kế tốn viên đã có chứng chỉ này là không nhiều.
Thứ ba, quy định về tổ chức lại doanh nghiệp cịn có một số bất cập, hạn chế,
như: quy định về chia doanh nghiệp và tách doanh nghiệp không bao quát được hết c
ác phương thức, các trường hợp chia, tách doanh nghiệp trên thực tế; dẫn đến hạn ch
ế quyền, lựa chọn của doanh nghiệp trong tổ chức lại doanh nghiệp. Đồng thời, các q
uy định về hợp nhất, sáp nhập khơng cịn tương thích với quy định mới của Luật Cạn
h tranh 2018.
Thứ tư, về tổ chức quản trị đối với DNNN và doanh nghiệp có phần vốn góp
của Nhà nước: Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN là một ch
ủ trương lớn của Đảng và Chính phủ ở nước ta. Quan điểm chỉ đạo đã được chỉ rõ
rằng DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh
giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộ
c các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật5. Đồng thời, Nghị quyết số
97/NQ-CP ngày 2/10/2017 của Chính phủ cũng đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghi
ên cứu để quy định tại LDN về nội dung này.
Do đó, các quy định về tổ chức quản trị của LDN đối với doanh nghiệp mà N
hà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và các doanh nghiệp mà Nhà nước có cổ phần hoặ
c phần vốn góp chi phối cũng cần được rà sốt lại, bổ sung, sửa đổi nhằm thể chế
hóa đầy đủ quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 12-NQ/TW.
Thứ năm, về đăng ký và tổ chức hoạt động của hộ kinh doanh: Hộ kinh doan
h hiện nay được đăng ký và tổ chức hoạt động theo Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đă
ng ký doanh nghiệp6.
Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại,
đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN
6 Hướng dẫn thi hành khoản 2, Điều 212 LDN
5
10
Từ những phân tích nêu trên về bất cập, khiếm khuyết của Luật, thay đổi của
pháp luật có liên quan, thay đổi kinh tế xã hội trong bối cảnh cách mạng công nghiệp
4.0 và yêu cầu chủ động cải cách mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng môi trường ki
nh doanh của nước ta, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã cho thấy sự cần thiết phả
i sửa đổi LDN.
11
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP
2020 VỀ BỘ PHẬN PHÁP LUẬT ĐẦU VÀO ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP NÓI CHUNG VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ CỦA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC NÓI RIÊNG
2.1. Điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2020 về bộ phận pháp luật đầu vào
đối với doanh nghiệp nói chung
2.1.1. Điểm mới về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi thành lập doanh
nghiệp
a. Điểm mới về quyền của doanh nghiệp
LDN 2020 được ban hành với một số điểm mới sau về quyền của doanh nghiệp:
(i) Quyền tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động:
LDN 2020 đã hoàn thiện hơn điều khoản về quyền tuyển dụng, thuê và sử
dụng lao động của doanh nghiệp. Cụ thể, nếu theo Khoản 6, Điều 7 LDN 2014,
doanh nghiệp có quyền: “Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh
doanh” thì Khoản 6, Điều 7 LDN 2020 đã điều chỉnh thành: “Tuyển dụng, thuê và
sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động”.
Việc thay đổi từ “theo yêu cầu kinh doanh” thành “theo quy định của pháp
luật về lao động” giúp điều khoản về quyền này của doanh nghiệp trở nên chặt chẽ
và hoàn thiện hơn. Sự thay đổi này khơng có nghĩa LDN 2020 cấm cản doanh nghiệp
tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh. Điều khoản này chỉ
nhấn mạnh khi tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động, doanh nghiệp phải đảm bảo
tuân thủ chặt chẽ những quy định, điều khoản mà pháp luật đã đưa ra về lao động
trong các bộ luật, nghị định, văn bản có liên quan.
Tóm lại, doanh nghiệp vẫn có quyền tự do tuyển dụng, thuê và sử dụng người
lao động khi có nhu cầu cho việc kinh doanh, sản xuất của mình, tuy nhiên, khi thực
hiện quyền tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động này của mình, doanh nghiệp phải
đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của pháp luật về lao động và đặc biệt
là những quy định của BLLĐ 2019.
(ii) Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:
Điều này được bổ sung tại Khoản 7, Điều 7 LDN 2020. Cụ thể, doanh nghiệp
có quyền “được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật về sở hữu
12
trí tuệ”. LDN 2014 trước đó đã quy định về việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ:
“Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên
quan đến tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các
quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá
nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử
dụng tài sản đó để góp vốn”7.
Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ đã được LDN 2014 quy định và khi quyền
này đã được tính vào phần vốn góp của doanh nghiệp, nó cũng sẽ trở thành một loại
tài sản của doanh nghiệp, vì vậy nó cũng cần được bảo vệ chặt chẽ. Bên cạnh đó,
trong q trình hoạt động, doanh nghiệp có thể có những sản phẩm, thành quả được
đăng ký quyền sở hữu trí tuệ hoặc mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ.
Chung quy lại, dù quyền sở hữu trí tuệ đã được cơng nhận là một loại tài sản của
doanh nghiệp và pháp luật sở hữu trí tuệ đã quy định về quyền và trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong Luật SHTT: “Tổ chức, cá
nhân có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ của mình và có trách nhiệm tơn trọng quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức,
cá nhân khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan”8.
Tuy nhiên, trước đó, LDN 2014 cịn chưa đề cập đến vấn đề được bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ này cho doanh nghiệp. Dù doanh nghiệp vẫn có thể áp dụng
Luật SHTT để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình nhưng việc chỉnh lý, bổ sung
thêm quyền này vào trong LDN 2020 là một thay đổi tích cực, giúp doanh nghiệp
thuận tiện hơn trong việc áp dụng pháp luật doanh nghiệp kết hợp với Luật SHTT để
đảm bảo quyền lợi được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của mình và trong các trường
hợp tranh chấp, điều khoản này cũng sẽ giúp quá trình tố tụng, kiện cáo của doanh
nghiệp trở nên thuận tiện và dễ dàng hơn.
(iii) Quyền tố cáo của doanh nghiệp:
LDN 2020 đã xoá bỏ một quyền lợi của doanh nghiệp là “quyền tố cáo”. Cụ
thể, theo Khoản 10 và Khoản 11 Điều 7 LDN 2014 quy định, doanh nghiệp có
quyền: “Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo” và
“Tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, trong LDN 2020, doanh
Khoản 2, Điều 35, LDN 2014
Điều 9, Luật SHTT 2005
7
8
13
nghiệp lại chỉ còn quyền: “Khiếu nại, tham gia tố tụng theo quy định của pháp
luật”9. Như vậy, kể từ thời điểm bộ luật này được áp dụng vào ngày 01/01/2021,
doanh nghiệp sẽ khơng cịn quyền tố cáo theo quy định của pháp luật về tố cáo.
Xét ở góc độ lập pháp và học thuật, việc thay đổi theo hướng bỏ quy định về
“quyền tố cáo” là cần thiết và phù hợp với sự phát triển và thống nhất của hệ thống
pháp luật Việt Nam. Bởi lẽ, dù LDN 2014 có ghi nhận quyền tố cáo của doanh
nghiệp nhưng bản thân Luật Tố cáo chỉ quy định: “Người tố cáo là cá nhân thực
hiện việc tố cáo”10. Tương tự, BLHS 2015 quy định: “Cá nhân có quyền tố cáo với
cơ quan, người có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” 11. BLTTDS 2015
cũng quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố
cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong hoạt động tố
tụng dân sự,...”12.
Như vậy, mặc dù LDN 2014 ghi nhận quyền tố cáo của doanh nghiệp nhưng
các luật chuyên ngành lại không ghi nhận quyền tố cáo của cơ quan, tổ chức. Bởi lẽ,
các cơ quan, tổ chức không thể tự mình phát hiện ra sự tồn tại của hành vi vi phạm
pháp luật để tố cáo, mà việc này chỉ có cá nhân mới có thể phát hiện ra những sai
phạm và tố cáo. Việc quy định người tố cáo chỉ có thể là cá nhân cịn giúp cá thể hóa
trách nhiệm của người tố cáo, người tố cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hành vi tố cáo của mình, nếu tố cáo sai sự thật thì phải bị xử lý về hành chính hoặc
hình sự tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm. Cơ quan, tổ chức không được quyền
tố cáo để tránh phát sinh những vấn đề phức tạp trong việc xác minh thông tin về
người tố cáo, xác định trách nhiệm của người tố cáo trong trường hợp tố cáo sai sự
thật. Sự khác biệt, trái ngược giữa những điều luật này đã gây ra sự mâu thuẫn trong
quy định pháp luật, gây khó khăn trong việc thực hiện quyền tố cáo của doanh
nghiệp. Do đó, việc thay đổi, điều chỉnh quy định pháp luật về quyền của doanh
nghiệp, loại bỏ quyền này của doanh nghiệp là hợp lý và cần thiết để hệ thống pháp
luật Việt Nam trở nên thống nhất và hợp lý hơn.
9
10
11
12
14
Khoản 10, Điều 7 LDN 2020
Khoản 4, Điều 2, Luật Tố cáo 2018
Điều 487, BLHS 2015
Điều 25, BLTTDS 2015
Theo Cơng ty Luật TNHH Khoa Tín, nếu chỉ căn cứ vào câu chữ trong các
quy định của pháp luật, nhiều người sẽ lầm tưởng rằng doanh nghiệp sẽ hoàn toàn
mất quyền tố cáo và băn khoăn nếu doanh nghiệp phát hiện những vi phạm trong
hoạt động quản lý nhà nước của công chức, viên chức, cũng như của các cơng ty đối
tác hoặc chính nhân viên của mình,... thì doanh nghiệp phải làm như thế nào? Các vụ
việc doanh nghiệp đã và đang tố cáo sẽ được giải quyết như thế nào, và phải chăng
doanh nghiệp đang mất đi một công cụ để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bản thân doanh nghiệp?
Tuy nhiên, nếu xét về thực tiễn và áp dụng pháp luật, cần phải nắm rõ bản
chất các quy định pháp luật về tố cáo. Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định: “Tố cáo
hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là tố cáo về hành
vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của bất kỳ cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào về việc chấp hành quy định của pháp luật, trừ hành vi vi phạm
pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, cơng cụ” 13. Theo đó, trong q trình thực
hiện các thủ tục, làm việc với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, nếu phát
hiện ra bất cứ hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước thì doanh nghiệp có
quyền và đồng thời có nghĩa vụ tố cáo để góp phần chấn chỉnh, xử lý các hành vi sai
phạm làm ảnh hưởng tới uy tín và sự vững mạnh của cơ quan nhà nước, cũng như tự
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, doanh nghiệp là một tổ chức, khơng thể tự mình phát hiện ra sai
phạm mà chỉ có thể thơng qua người đại diện theo pháp luật, người được uỷ quyền
hoặc người được giao nhiệm vụ làm việc với cơ quan nhà nước. Do đó, nếu tổ chức
thực hiện quyền tố cáo, bản thân tổ chức khơng thể tự trình bày ý kiến, nội dung vụ
việc mà phải thơng qua người đại diện. Khi đó, có thể người pháp hiện hành vi vi
phạm là một người nhưng tổ chức lại cử người khác đại diện thực hiện quyền tố cáo
khiến cho việc giải quyết tố cáo thêm phức tạp, thiếu chính xác. Do vậy, tổ chức cử
người đại diện làm việc với cơ quan Nhà nước, nếu phát hiện sai phạm, bản thân
người phát hiện có quyền tự mình thực hiện việc tố cáo theo quy định pháp luật về tố
cáo mà không cần thông qua pháp nhân. Khi đó, việc tố cáo được thực hiện trực tiếp,
tường minh và cụ thể hơn nhưng vẫn khơng làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp.
13
15
Khoản 3, Điều 2, Luật Tố cáo 2018
Chung quy lại, việc LDN 2020 điều chỉnh theo hướng lược bỏ quyền tố cáo
của doanh nghiệp là hoàn toàn có cơ sở pháp lý, thống nhất hệ thống pháp luật mà
khơng làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Bởi lẽ, dù có
sự thay đổi nhưng với cách thức khác là thông qua cá nhân, doanh nghiệp vẫn có thể
tố cáo những sai phạm để đảm bảo lợi ích của mình, từ đó doanh nghiệp có thể hoạt
động trong mơi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, ổn định.
Sự thay đổi, cập nhật của LDN 2020 đã được thể hiện ngay trong những lá
đơn tố cáo từ các đại diện pháp luật của công ty từ khi luật này được áp dụng chính
thức từ ngày 01/01/2021:
Nếu trước đó, theo báo Kinh tế Mơi trường đưa tin, năm 2019, Công ty
TNHH Ngọc Khánh đã tham gia đấu thầu gói thầu có số TBMT là 20190938124: Thi
cơng xây dựng cơng trình Kênh Nội đồng từ thơn Tân Lập, thôn Xuân Thịnh đi thôn
Vụ Bản, tuyến kênh Cống Nổ đá đi Phốc Cột, tuyến kênh từ nhà van kênh TX 17 đi
Đồng Un, Tân Lập xã Xuân Dương, huyện Thường Xuân. Dự án này do ban quản lý
dự án đầu tư xây dựng huyện Thường Xuân là chủ đầu tư. Trong q trình đấu thầu,
nhận thấy có dấu hiệu “thông thầu” giữa chủ đầu tư là Ban Quản lý Dự án đầu tư xây
dựng Thường Xuân và đơn vị tư vấn là CTCP tư vấn đầu tư và xây dựng Đức Phong,
đơn vị tham gia dự thầu là Công ty Ngọc Khánh đã làm đơn tố cáo đến đồng chí Bí
thư tỉnh ủy Thanh Hóa. Nội dung lá đơn tố cáo đề cập nhiều nội dung có dấu hiệu vi
phạm nghiêm trọng Luật đấu thầu và công tác quản lí chứng thư điện tử lỏng lẻo của
các bên liên quan14. Qua lá đơn tố cáo của doanh nghiệp được đính kèm bài báo này,
có thể thấy lúc này trên lá đơn tố cáo, chủ thể tố cáo vẫn là Công ty TNHH Ngọc
Khánh.
14
16
Báo Kinh tế Môi trường, ngày 15/11/2019
Hình 1. Lá đơn tố cáo của doanh nghiệp
Trong khi đó, theo Thơng báo số 132/TB-UBND ngày 25/01/2021 của Chủ
tịch UBND tỉnh Quảng Bình về việc khơng thụ lý giải quyết tố cáo của ông Nguyễn
Văn Minh, đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Phát triển đầu tư và xây dựng
Đại Long. Theo chi tiết thông báo, đại diện cho Công ty TNHH Phát triển đầu tư và
xây dựng Đại Long, ông Nguyễn Văn Minh đã làm đơn tố cáo các hành vi tham
nhũng và nhũng nhiễu vụ lợi chi phí hành chính và cố ý khơng thực hiện để vụ lợi
chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng của ơng Phạm Quang Ánh – Phó Giám đốc
(nay là Giám đốc) Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình. Vì trong buổi làm
việc trực tiếp với Thanh tra tỉnh, người tố cáo không cung cấp được các tài liệu,
chứng cứ và khơng có cơ sở để xác minh, kết luận hành vi vi phạm pháp của người
bị tố cáo nên vụ việc đã không được thụ lý giải quyết. 15 Có thể thấy, cho rằng quyền
lợi của công ty bị ảnh hưởng xấu bởi những hành vi không đúng với pháp luật, ông
15
17
Cổng thông tin điện tử tình Quảng Bình, ngày 02/02/2021
Nguyễn Văn Minh, đại diện pháp luật của Công ty TNHH Phát triển đầu tư và xây
dựng Đại Long đã thực hiện thay mặt cho công ty để tố cáo những hành vi này.
b. Điểm mới về nghĩa vụ của doanh nghiệp
Bên cạnh những điểm mới về quyền của doanh nghiệp, điều khoản về nghĩa
vụ của doanh nghiệp trong LDN 2020 cũng có một số thay đổi như sau:
(i) Nghĩa vụ đối với doanh nghiệp trong ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều
kiện đối với nhà đầu tư nước ngồi:
Theo bà Nguyễn Thanh Hà - Phó Giám đốc Cơng ty Luật TNHH Vietthink,
một trong những đổi mới đáng chú ý trong LĐT 2020 là sự xuất hiện của nhóm quy
định mới liên quan đến điều kiện tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài theo
hướng tiếp cận “chọn-bỏ” tại Điều 9 LĐT 2020 16. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài sẽ
được áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường như quy định đối với Nhà đầu tư trong
nước, trừ trường hợp lĩnh vực đầu tư thuộc: danh mục ngành, nghề nhà đầu tư nước
ngoài chưa được tiếp cận thị trường, danh mục ngành, nghề nhà đầu tư nước ngồi
được tiếp cận thị trường có điều kiện. Cơ chế “chọn-bỏ” này được cho là sẽ giúp các
nhà đầu tư nước ngồi có thể tiếp cận thuận lợi hơn đối với thị trường Việt Nam. Và
từ sau khi Nghị định 31/2021/NĐ-CP được ban hành với những quy định và hướng
dẫn chi tiết, những nhà đầu tư nước ngoài đã có cơ sở rõ ràng hơn để hưởng chính
sách mới này.
Bên cạnh sự thay đổi của LĐT 2020, LDN 2020 cũng bắt kịp cùng với sự bổ
sung đối tượng doanh nghiệp hoạt động trong ngành, nghề tiếp cận thị trường có
điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngồi trong Khoản 1 Điều 8 về nghĩa vụ của
doanh nghiệp trong nghĩa vụ đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh và
đảm bảo duy trì đủ điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt q trình hoạt động
kinh doanh. Điều khoản này về nghĩa vụ của doanh nghiệp cụ thể như sau:“Đáp ứng
đủ điều kiện đầu tư kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện; ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước
ngoài theo quy định của pháp luật và bảo đảm duy trì đủ điều kiện đó trong suốt q
trình hoạt động kinh doanh”.
16
Nguyễn Thanh Hà, 2021, Về điều kiện tiếp cận thị trường với nhà đầu tư nước ngoài theo
Luật Đầu tư 2020 và Nghị định 31/2021/NĐ-CP, truy cập tại: Về điều kiện tiếp cận thị trường với nhà
đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư 2020 và Nghị định 31/2021/NĐ-CP - Nghiên cứu - Trao đổi
(vietthink.vn)
18
Sự thay đổi này giúp LDN 2020 khớp và đồng bộ hơn với hệ thống pháp luật,
chứng tỏ việc LDN luôn liên tục cập nhật và đổi mới để phù hợp với những luật khác
trong hệ thống và trong trường hợp này cụ thể là LĐT 2020. Điều này đã góp phần
giúp hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và LDN nói riêng trở nên chặt chẽ,
thống nhất và hoàn thiện hơn.
(ii) Nghĩa vụ đối với người lao động:
Điều khoản về nghĩa vụ đối với người lao động của doanh nghiệp cũng được
bổ sung và thay đổi một số điểm như sau trong LDN 2020 so với LDN 2014:
-
Bổ sung “không ngược đãi lao động”
Theo Luật sư Lê Trọng Thêm từ Công ty Luật LTT&Lawyers chia sẻ ngày
22/02/2020: “BLLĐ hiện hành và kể cả BLLĐ năm 2019 chưa có khái niệm cụ thể
về hành vi ngược đãi lao động. Ngoài việc quy định cho phép người lao động được
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi bị ngược đãi mà khơng cần báo
trước thì chưa có biện pháp chế tài nào khác để xử lý hành vi này”17.
Việc bổ sung “không ngược đãi lao động” vào trong nghĩa vụ của doanh
nghiệp với người lao động trong LDN 2020 như sau: “Bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người lao động theo quy định của pháp luật; không phân biệt
đối xử, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người lao động trong doanh nghiệp;
không ngược đãi lao động, cưỡng bức lao động hoặc sử dụng lao động chưa thành
niên trái pháp luật; hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia
đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề; thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động
theo quy định của pháp luật”18.
Điểm mới này hiện tại chưa thể giải quyết được vấn đề nhiều doanh nghiệp đang
lợi dụng việc luật chưa có quy định xử phạt cụ thể để thực hiện các hành vi ngược đãi
lao động của mình. Bởi lẽ, bên cạnh việc bổ sung “không ngược đãi lao động” trong
nghĩa vụ của doanh nghiệp, LDN 2020 không đưa ra bất kỳ một biện pháp chế tài nào để
xử phạt những hành vi này. Tuy nhiên, việc bổ sung điều này vào trong nghĩa vụ của
doanh nghiệp đối với người lao động trong LDN 2020 đã một lần nữa nhấn mạnh với
các doanh nghiệp nghĩa vụ của mình với người lao động, và có lẽ
17
Mai Chi, Ngược đãi người lao động, Báo Người Lao động, ngày 22/02/2020, truy cập tại:
Ngược đãi người lao động - Báo Người lao động (nld.com.vn)
18
Khoản 5, Điều 8 LDN 2020
19
cũng là một báo hiệu thể hiện rằng những nhà làm luật khơng hề thờ ơ hay bỏ sót vấn đề
và những hành vi này và sẽ có thể đưa ra những chế tài xử phạt trong tương lai.
-
Thay thế “không được sử dụng lao động trẻ em” bằng “không sử dụng lao
động chưa thành niên trái pháp luật”
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của nước ta, “người chưa thành niên”
và “trẻ em” được BLDS và Luật Trẻ em định nghĩa rất rõ ràng là “người dưới 18
tuổi” và “người dưới 16 tuổi”. Việc thay thế “không được sử dụng lao động trẻ em”
bằng “không sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật” trong nghĩa vụ của
doanh nghiệp với người lao động tại Khoản 5 Điều 8 đã tăng đối tượng của điều
khoản này lên. Sự thay thế này có nghĩa doanh nghiệp khơng chỉ khơng được sử
dụng lao động trẻ em mà còn việc sử dụng những lao động chưa thành niên trái pháp
luật cũng không được cho phép.
Theo BLLĐ 2019: “Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15
tuổi, trừ trường hợp quy định tại Chương XI của Bộ luật này”19. Ở chương XI của
Bộ luật này, cụ thể là ở mục 1 “Lao động chưa thành niên” đã có những quy định
riêng đối với lao động chưa thành niên. Ví dụ cụ thể, điều 144, 145 quy định chặt
chẽ về độ tuổi và mức độ hoạt động của từng độ tuổi: thời gian làm việc của lao
động chưa đủ 15 tuổi không quá 4 giờ/ngày và 20 giờ/tuần, thời gian làm việc của
lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không được quá 8 giờ/ngày và 40
giờ/tuần. Như vậy, bên cạnh việc không được sử dụng lao động trẻ em, theo LDN
2020, doanh nghiệp còn phải tuân theo những quy định cụ thể một cách nghiêm ngặt
về sử dụng lao động chưa thành niên, không được sử dụng những lao động này trái
với những quy định, nguyên tắc mà luật đã đề ra.
Đây là một trong những bổ sung hợp lý và cần thiết. Bởi lẽ dù đã đủ độ tuổi
lao động nhưng những lao động chưa thành niên vẫn chưa đủ 18 tuổi – độ tuổi
trưởng thành theo quy định của pháp luật Việt Nam 20, có thể chưa trang bị đầy đủ
cho bản thân những kiến thức và năng lực để tự bảo vệ bản thân một cách tốt nhất.
Vì vậy, việc có những quy định chặt chẽ đối với doanh nghiệp khi sử dụng những lao
động này là một điều vô cùng cần thiết. Việc chỉnh lý, thay thế này trong LDN 2020
đã không chỉ giúp nhấn mạnh với doanh nghiệp nghĩa vụ của doanh nghiệp với
người lao động, đặc biệt là với những lao động chưa thành niên này mà còn giúp bảo
19
20
20
Khoản 1, Điều 3, BLLĐ 2019
Khoản 1, Điều 20, BLDS 2015
vệ, đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho những lao động chưa thành niên. Đồng thời, việc
bổ sung, chỉnh lý này còn giúp LDN 2020 thống nhất hơn với các quy định của Luật
chuyên ngành về lao động và BLDS.
(iii) Rút ngắn và hợp một số điều khoản:
So với LDN 2014 có chín (09) khoản trong Điều 8 về nghĩa vụ của doanh
nghiệp thì ở LDN 2020, số khoản trong Điều này rút xuống còn sáu (06). Bởi lẽ, một
số điều khoản đã được hợp lại như Khoản 2 và Khoản 3 LDN 2014 được hợp lại
thành Khoản 4, LDN 2020: “Tổ chức cơng tác kế tốn, nộp thuế và thực hiện các
nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật”. Điều khoản này đã trở thành
quy định duy nhất về tổ chức cơng tác kế tốn, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài
chính khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thay đổi này chỉ mang ý nghĩa
rút gọn và hợp lại những nghĩa vụ về kế tốn, tài chính và thuế thành một khoản,
giúp điều khoản về nghĩa vụ của doanh nghiệp trong LDN 2020 cơ đọng và súc tích
hơn.
Bên cạnh đó, một số khoản trong LDN 2014 đã bị bỏ đi và thay thế bằng
Khoản 6: “Nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. Đây đều là những nghĩa vụ
đã được quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều điều khoản, văn bản pháp luật của hệ
thống pháp luật Việt Nam như: “Tuân thủ quy định pháp luật về quốc phòng, an
ninh, trật tự, an tồn xã hội, bình đẳng giới, bảo vệ tài ngun, mơi trường, bảo vệ
di tích lịch sử-văn hoá và danh lam thắng cảnh”21, “Thực hiện nghĩa vụ về đạo đức
kinh doanh để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và người tiêu
dùng”22,... tại Luật Bảo vệ môi trường, Luật Thương mại,... Việc rút ngắn và hợp
những điều khoản này giúp bộ luật trở nên cơ đọng, súc tích hơn, đồng thời khơng
gây ra sự trùng lặp.
Tuy nhiên, hiện tại, vấn đề các doanh nghiệp vẫn cố tình vi phạm những quy
định liên quan đến bảo vệ tài nguyên, môi trường đang rất nghiêm trọng. Có rất
nhiều vụ việc doanh nghiệp vì hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình nên đã có
những tác động, ảnh hưởng rất tiêu cực đến tài nguyên môi trường. Theo ông Chu
Quốc Hùng của Thông tấn xã Việt Nam đưa tin, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Việt
Hưng (xã Quảng Ngãi, huyện Cát Tiên) hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh tơ lụa đã bị xử phạt 195 triệu đồng vì có hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn
21
22
21
Khoản 8, Điều 8, LDN 2014
Khoản 9, Điều 8, LDN 2014