1
Họ và tên: Lê Văn Thành
Mã sinh viên: 2172202010125
Khoá/Lớp: 59.51.04
Niên chế: CQ59/51.04
STT: 24
Ngày nộp bài: 19/2/2022
Bài điều kiện môn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin
Hình thức thi: Tiểu luận
ĐỀ BÀI (ĐỀ SỐ 01)
“NỘI DUNG LÝ LUẬN TIỀN TỆ CỦA KARL MARX VÀ SỰ VẬN
DỤNG LÝ LUẬN NÀY TRÊN THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM”
BÀI LÀM
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế tiền tệ, mọi quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông
qua công cụ tiền tệ. Vì vậy tất yếu dẫn đến các cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế đều có nhu cầu về tiền tệ để thực hiện các quan hệ kinh tế. Bởi lẽ
công cụ tiền tệ là một công cụ thuận lợi nhất để thực hiện các dịch vụ mua bán
thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt và tiêu dùng của mọi người, cũng như thoả mãn nhu
cầu dự trữ nguyên liệu, mua sắm máy móc thiết bị, trả lương cơng nhân của các
doanh nghiệp… và khi có nhu cầu về tiền tệ, tất nhiên dẫn đến việc tìm nguồn
cung cấp tiền tệ để thoả mãn nhu cầu đó. Trong lịch sử, W. Petty là người đầu
tiên nghiên cứu số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông trên cơ sở thiết lập mối
quan hệ giữa khối lượng hàng hố trong lưu thơng và tốc độ chu chuyển của tiền
tệ. Nhưng đó chính là cơ sở để Karl Marx hồn chỉnh lý luận về lưu thơng tiền
tệ cũng như đã đưa lý luận giá trị hàng hóa đến bậc thang cao nhất trong nhận
thức về nguồn gốc của giá trị. Do đó, học thuyết tiền tệ của Karl Marx trở thành
học thuyết triệt để nhất trong lịch sử mà khơng nhà kinh tế nào có thể so sánh
được. Quy luật lưu thơng tiền tệ có ứng dụng rất lớn trong thực tế, đặc biệt là
ứng dụng trong kinh tế vĩ mô, giúp cho các nhà nước can thiệp vào lưu thơng
tiền tệ để kiểm sốt và phát triển nền kinh tế, là cơ sở để xây dựng nên chính
sách tiền tệ để điều tiết nền kinh tế.
Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu về giá trị về mặt lý luận và mặt thực
tiễn của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của bài tiểu luận được
chia làm 2 phần: Nội dung lý luận tiền tệ của Karl Marx và sự vận dụng lý luận
này trong nền kinh tế hiện nay ở Việt Nam.
2
NỘI DUNG
PHẦN 1: NỘI DUNG LÝ LUẬN TIỀN TỆ CỦA KARL MARX
1.1. Nguồn gốc và bản chất của tiền
Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế
hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản
phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội
trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời
và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Theo Karl Marx, tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới
hàng hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hố
khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa
những người sản xuất hàng hóa.
Nghiên cứu sự ra đời khách quan của tiền tệ giúp lý giải một cách khoa
học nguyên nhân vì sao tiền có thể mua được mọi hàng hóa. Lịch sử ra đời
khách quan của tiền tệ trải qua 4 hình thái sau:
Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên: Đây là hình thái sơ khai của tiền tệ,
xuất hiện trong thời kỳ sơ khai của trao đổi hàng hố. Tính chất của trao đổi là
trao đổi trực tiếp hàng hố này lấy hàng hố khác.
Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: Khi trình độ phát triển của sản xuất
được nâng lên, trao đổi thường xuyên hơn, một hàng hố có thể đặt trong quan
hệ trao đổi với nhiều hàng hố khác (Ví dụ: 1 con gà = 10 kg thóc, hoặc = 5 kg
chè, hoặc = 2 cái rìu, hoặc = 0,2 gam vàng...)
Hình thái chung của giá trị: Khi trình độ phát triển của sản xuất cao hơn,
hàng hóa phong phú hơn, trao đổi thường xun hơn thì hình thức trao đổi trực
tiếp khơng cịn phù hợp; lúc này hình thái chung của giá trị ra đời.Tuy nhiên ở
mỗi vùng, mỗi nước lại có những quy ước khác nhau về vật ngang giá chung.
Điều này gây khó khăn cho trao đổi giữa các vùng, các nước, địi hỏi sự ra đời
của một hình thái giá trị mới.
Hình thái tiền tệ của giá trị : Khi lực lượng sản xuất và phân công lao
động phát triển hơn, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình
3
hình có nhiều hàng hóa đóng vai trị vật ngang giá sẽ gây trở ngại cho sản xuất
và trao đổi giữa các vùng, các địa phương…Do đó, địi hỏi khách quan phải có
một loại hàng hóa làm vật ngang giá chung thống nhất. Lúc đầu có nhiều thứ
kim loại đóng vai trị tiền tệ, sau này vai trị đó được cố định ở vàng vì vàng có
nhiều ưu điểm vượt trội so với các kim loại khác.
Như vậy, bản chất của tiền là một hàng hóa đặc biệt được tách ra từ
trong thế giới hàng hóa, làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa đem ra
trao đổi; nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản
xuất hàng hóa.
1.2. Chức năng của tiền tệ
Thước đo giá trị: Tiền tệ dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của hàng
hoá. Giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng 1 lượng tiền nhất định, được gọi
là giá cả của hàng hóa.
Phương tiện lưu thơng: Tiền làm mơi giới trong q trình trao đổi hàng
hóa theo cơng thức: H – T – H. Trong đó: H – T là q trình bán, T – H là quá
trình mua. Làm phương tiện lưu thơng, tiền khơng nhất thiết phải có đủ giá trị.
Tiền giấy ra đời, bản thân nó khơng có giá trị mà là sự quy ước của giá trị, là
dấu hiệu của giá trị được công nhận trong phạm vi quốc gia.
Phương tiện cất trữ: Tiền tệ rút khỏi lưu thông được cất trữ để khi cần
đem ra mua hàng. Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị,
tức là tiền vàng, bạc.
Phương tiện thanh toán: Tiền được dùng để chi trả sau khi giao dịch,
mua bán.
Tiền tệ thế giới: Khi tiền có chức năng tiền tệ thế giới đó là khi trao đổi
hàng hóa vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá
trị (bằng vàng hoặc tiền tín dụng được cơng nhận là phương tiện thanh tốn
quốc tế). Việc trao đổi tiền của nước này với tiền của nước khác được tiến hành
theo tỷ giá hối đoái.
4
Năm chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hóa quan hệ mật thiết
với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản
xuất và lưu thơng hàng hóa.
1.3. Quy luật lưu thơng tiền tệ
Quy luật yêu cầu việc lưu thông tiền tệ phải căn cứ vào u cầu của lưu
thơng hàng hóa và dịch vụ. Theo đó, đưa số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông
trong mỗi thời kỳ nhất định phải thống nhất với lưu thơng hàng hóa. Việc khơng
thống nhất có thể dẫn tới trì trệ hay lạm phát. Cơng thức tổng qt sau: M =
PQ/V; trong đó:
M là khối lượng tiền cần thiết cho trong lưu thông
P là giá cả của đơn vị hàng hoá và dịch vụ
Q là khối lượng hàng hoá và dịch vụ đưa vào lưu
thơng V là số vịng lưu thơng của đồng tiền
Ở
đây, khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số
giá cả hàng hoá và dịch vụ đưa ra thị trường và tỉ lệ nghịch với tốc độ lưu thông
của đồng tiền.
Trong điều kiện lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh tốn khơng dùng
tiền mặt trở nên phổ biến thì số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông được xác
định theo công thức sau:
M = PQ – (G1 + G2) + G3/V
Trong đó G1 là tổng giá cả hàng hoá bán chịu; G2 là tổng giá cả hàng hóa
khấu trừ cho nhau; G3 là tổng giá cả hàng hoá đến kỳ thanh toán; PQ là tổng giá
cả hàng hố.
Dựa vào quy luật lưu thơng tiền tệ, các nhà nước phát hành tiền tệ phải căn
cứ vào quy luật này; nếu khơng tn thủ, có thể dẫn tới các trường hợp sau: Phát
hành quá mức sẽ dẫn đến lạm phát; phát hành chưa đủ mức sẽ dẫn đến suy thối.
Bởi vậy, nhà nước khơng thể in và phát hành tiền giấy một cách tuỳ tiện mà phải
tuân theo nguyên lý của quy luật lưu thông tiền tệ.
5
PHẦN 2: SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN TIỀN TỆ TRONG NỀN
KINH TẾ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM.
2.1. Vận dụng lý luận tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Áp dụng những lý luận về tiền tệ để đảm bảo giá cả được ổn định, giữ
giá đồng tiền, phát triển kinh tế một cách bền vững là một trong những mục tiêu
quan trọng của việc quản lý nền kinh tế vĩ mô của nhà nước. Trong các công cụ
điều tiết vĩ mô của nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách
quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Những
nội dung chính của chính sách tiền tệ ở Việt Nam bao gồm:
- Cung ứng và điều hoà khối lượng tiền tệ ngân hàng nhà nước tăng hay giảm
khối lượng tiền tệ để duy trì tương quan giữa tổng cung và tổng cầu giữa tiền và
hàng.
- Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: khi các ngân hàng thương mại và có các
tổ chức tín dụng thiếu khả năng thanh tốn thì họ đến ngân hàng trung ương, xin
tái cấp vốn. Ngân hàng trung ương ln đóng vai trị là một tổ chức cho vay
cuối cùng để thúc đẩy các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng huy động.
tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đầu tư phát triển kinh tế.
- Chính sách quản lý ngoại hối: hướng vào việc ngăn chặn tích cực ngoại tệ
trong các doanh nghiệp và tầng lớp nhân dân. Đề thực hiện việc ổn định giá cả
của đồng tiền quốc gia, ngân hàng nhà nước thực hiện các nhiệm vụ: quản lý
ngoại hối, lập bảng theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện
các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức điều tiết thị trường hối đoái, xây dựng và thống
nhất quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia....
- Chính sách tạm ứng cho ngân hàng nhà nước
+ Trường hợp ngân sách cân bằng: Chính phủ thu thuế vào ngân sách, ngân sách
chỉ ra cho bộ máy quản lý nhà nước và nền kinh tế lượng tiền vẫn nằm. nguyên
trong lưu thông.
6
+ Trường hợp ngân sách thiếu hụt: lúc này chi lớn hơn thu, giải quyết bằng bốn
cách: vay của dân, vay của hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng, vay của
ngân hàng nhà nước, vay nợ nước ngoài.
+ Trường hợp ngân sách thặng dư: khối lượng tiền tệ trong thị trường được rút
bớt cất đi.
Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản chủ yêu nhất của Ngân hàng trung
ương. Có thể nói chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt mọi hoạt động của
Ngân hàng trung ương. Các hoạt động khác của Ngân hàng trung ương đều
nhằm thực thi chính sách tiền tệ đạt được các mục tiêu đó.
2.2. Các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh của đại dịch
Covid-19
Kinh tế trong nước năm 2021 đối mặt với những khó khăn chưa từng có
do tác động nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 lên đời sống nhân dân và sản
xuất, kinh doanh, lưu thơng hàng hóa, dịch vụ. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà
nước đã kịp thời đưa ra các quyết sách hỗ trợ nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã
hội. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với sứ mệnh điều hành chính sách tiền tệ,
kiểm sốt lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đã chỉ đạo
toàn ngành ngân hàng triển khai nhiều giải pháp căn cơ để tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp và người dân, duy trì vốn cho sản xuất, góp phần thực hiện chính
sách an sinh xã hội, bao gồm những giải pháp sau đây:
Thứ nhất, bảo đảm thanh khoản trên thị trường tiền tệ, tạo điều kiện để
các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục giảm lãi suất cho vay, sẵn sàng nguồn vốn hỗ
trợ các TCTD đẩy mạnh tín dụng. Đại dịch COVID-19 khiến nhiều hoạt động
ngưng trệ, di chuyển của người dân bị hạn chế, sản xuất, lưu thơng đứt gãy, dịng
tiền gián đoạn. Giải pháp hỗ trợ thanh khoản được hầu hết các Ngân hàng
Thứ hai, ổn định lãi suất điều hành ở mức thấp, tạo điều kiện để mặt
bằng lãi suất cho vay và huy động của TCTD giảm. Với đặc điểm của một nền
kinh tế đang phát triển, nhu cầu vốn lớn song lại phụ thuộc nhiều vào hệ thống
ngân hàng nên việc giảm lãi suất cho vay tại Việt Nam không dễ dàng. Để kịp
thời tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp và người dân, ngay trong năm 2020 khi
7
dịch bệnh mới xuất hiện, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã 3 lần giảm lãi suất
điều hành với mức giảm từ 1,5%/năm đến 2%/năm và là một trong những Ngân
hàng Trung ương giảm lãi suất mạnh nhất khu vực; trong năm 2021, NHNN giữ
nguyên các mức lãi suất thấp này, kết hợp với việc duy trì thanh khoản dồi dào
trên thị trường tiền tệ. Kết quả là, đến cuối tháng 9-2021, lãi suất huy động và
cho vay bằng VND bình quân của các TCTD giảm tương ứng khoảng
0,46%/năm và 0,72%/năm so với cuối năm 2020 sau khi đã giảm khoảng
1%/năm trong năm 2020.
Thứ ba, bảo đảm cung ứng vốn tín dụng đầy đủ và kịp thời cho nhu cầu
sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế, linh hoạt điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng
tín dụng định hướng đối với các TCTD theo hướng tăng trưởng tín dụng đi đơi
với chất lượng. Với đặc thù thị trường tài chính phụ thuộc nhiều vào hệ thống
ngân hàng, việc điều hành tín dụng ln cần có sự hài hịa, hợp lý. Tăng trưởng
tín dụng quá cao gây rủi ro lạm phát, song tăng trưởng tín dụng q thấp lại có
thể ảnh hưởng đến nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở mục tiêu tăng
trưởng kinh tế 6,5% và lạm phát khoảng 4% do Quốc hội và Chính phủ đề ra,
NHNN đã đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 12% trong năm 2021,
có điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình thực tế.
Thứ tư, ổn định thị trường ngoại tệ. Nền kinh tế Việt Nam có độ mở cao
(tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cuối năm 2020 khoảng 200% GDP), việc điều
hành tỷ giá của Việt Nam luôn phải đối mặt với những thách thức đến từ bên
ngoài như việc các nước lớn đang dần thu hẹp các gói nới lỏng tiền tệ, đồng
USD lên giá... Trước tình hình đó, cơng tác điều hành tỷ giá vẫn tiếp tục bảo
đảm linh hoạt, bám sát cung cầu thị trường, các cân đối vĩ mơ, tiền tệ và mục
tiêu chính sách tiền tệ (CSTT).
Thứ năm, triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ khách hàng
bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19. Ngân hàng nhà nước chỉ đạo các TCTD
đồng hành, sát cánh với các doanh nghiệp, người dân thông qua triển khai hàng
loạt các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi đại dịch, liên tục rà soát,
chỉnh sửa để các biện pháp hỗ trợ ngày càng thiết thực hơn, bao gồm: cơ cấu lại
8
thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách
hàng chịu ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 ; hỗ trợ người sử dụng lao động
trả lương ngừng việc cho người lao động, …
Bám sát các chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ động, quyết liệt, chỉ đạo hệ
thống các tổ chức tín dụng (TCTD) triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp
điều hành chính sách tiền tệ (CSTT), phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa
(CSTK) và các chính sách vĩ mơ khác nhằm bảo đảm kiểm sốt lạm phát, góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời triển khai hàng loạt các giải pháp hỗ trợ,
tháo gỡ khó khăn, đồng hành với doanh nghiệp và người dân.
KẾT LUẬN
Như vậy, theo phân tích ở trên, những lý luận về tiền tệ, đặc biệt là chính sách
tiền tệ và các cơng cụ của nó có vai trị rất quan trọng trong việc quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở nước ta, trong quá
trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì việc áp dụng những lý luận về
tiền tệ ln địi hỏi sự chính xác, phù hợp. Chính sách tiền tệ với những đổi mới
hồn thiện của nó đã tác động tích cực tới quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường, duy trì sự ổn định và tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh
hưởng tiêu cực của những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu
vực hay do dịch bệnh Covid-19, tạo cơ sở vững chắc cho Việt Nam mở cửa và
hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới an toàn và hiệu quả. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, các cơng cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ đã
bộc lộ rõ những hạn chế trong khi các công cụ gián tiếp chưa thực sự phát huy
hết hiệu quả. Từ đó địi hỏi phải có những định hướng và giải pháp đúng đắn
trong việc hồn thiện các cơng cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định
hướng đúng đắn của Đảng cần phải có phát triển đồng bộ về năng lực của Ngân
hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại cùng các sự phối hợp đồng
bộ khác.
9
Thơng qua những nội dung trên đây sẽ góp phần hoàn thiện và thúc đẩy
việc sử dụng những lý luận về tiền tệ, đem lại hiệu quả tích cực cho việc phát
triển và tăng trưởng của nền kinh tế định hướng theo xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
10