Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

(TIỂU LUẬN) NHỮNG điểm mới của LUẬT DOANH NGHIỆP 2020 đối với một số QUY ĐỊNH về CÔNG TY cổ PHẦN, DOANH NGHIỆP tư NHÂN và NHÓM CÔNG TY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.14 KB, 100 trang )

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2
STT Họ và tên Mã

sinh Cơng việc được giao Đánh giá

viên
1

Đặng Thị 2014810033 Phân tích các điều Hoàn thành tốt,
Thùy Linh

Thêm phần nhận xét
của cá nhân về ý
kiến của các chuyên
gia, nhà làm luật,
doanh nghiệp,... ở
chương III;
Tổng hợp nhận xét
của các bạn, nêu
điểm chung và làm
phần ý

kiến của

nhóm trong chương
III.
2

Ngơ
Ngọc Mai


Thị 201481


3

Nguyễn
Phương
Nga

4

Nguyễn
Thuý Lam

5

Phạm
Phương
Linh


6

Trần

Thu 18

Hương
- Trả lời câu hỏi của


các nhóm

chưa hồn thành

thầy và

việc đặt câu hỏi,

khác;
Thêm phần nhận Nhưng chủ động xét
của cá nhân về ý trao đổi với các kiến
của các chuyên thành viên (9/10) gia,
nhà làm luật,
doanh nghiệp,... ở
-

chương III
7

Hoàng Thị 2014810034
Nhật Linh


8

Nơng Đồn 1619210133
Diệu Linh

-


Trả lời câu hỏi của

thầy và các nhóm
khác;
Làm lại ví dụ thực tế,
chỉnh sửa lại nội
dung so sánh (ngồi
so sánh thì cần đưa
thêm phân tích các
điểm mới).
9


Ngân

Thị 1712


10

Dương Thái 1516610080
Ngân

BI.

Đánh giá của các

nhà làm luật.

Từ viết tắt

LDN
CP
HĐQT
DN


ĐHĐCĐ
M&A
A&M
TNHH
HĐQT
BKS
ĐBQH
PPP

OECD
CTCP
NĐ-CP
CK
HĐQT



MỤC LỤC
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VÀ SỰ
RA ĐỜI CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2020
I.1. Sơ lược về Luật Doanh nghiệp 2014
I.2. Những hạn chế của Luật Doanh Nghiệp 2014
I.3. Sự cần thiết phải ban hành luật 2020
CHƯƠNG II: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2020

ĐỐI VỚI MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN, DOANH
NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ NHĨM CƠNG TY
II.1. Điểm mới đối với một số quy định về công ty cổ phần:
II.2. Điểm mới đối với một số quy định về doanh nghiệp tư nhân:
II.3. Điểm mới đối với một số quy định về nhóm cơng ty:
CHƯƠNG III. NHẬN XÉT VỀ CÁC ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT DOANH
NGHIỆP 2020
III.1. Nhận xét của nhà làm luật:
III.2. Nhận xét của các chuyên gia:
III.3. Nhận xét của các doanh nghiệp
III.4. Đánh giá của nhóm và cá nhân:


LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội con người luôn thay đổi và biến chuyển từng ngày, nền kinh tế càng có
những thay đổi và biến chuyển nhanh hơn, tốc độ phát triển của đất nước ta
cũng ngày càng tăng cao. Với nền kinh tế thị trường đầy biến động, mỗi nhà
nước luôn có một khung pháp lý nhất định để điều chỉnh và đặt ra luật chơi
riêng, nước Việt Nam ta cũng vậy. Kể từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp
2005, nước ta đã nhìn thấy được nhiều sự đóng góp đáng kể vào q trình
hồn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh, từ đó phát triển mơi trường kinh
doanh lành mạnh, thơng thống, thuận lợi cho doanh nghiệp. Thực tế nền kinh
tế đầy biến động và không ngừng phát triển mỗi ngày, nước ta đã có nhiều sự
điều chỉnh trong Luật Doanh nghiệp. Qua từng thời kỳ, những điều luật cũ đã
khơng cịn hợp thời và bộc lộ những hạn chế nhất định. Vì vậy, việc sửa đổi
Luật Doanh nghiệp cho phù hợp với xu hướng hiện thời là thực sự cấp thiết
để có thể giúp doanh nghiệp kinh doanh thuận lợi, góp phần thúc đẩy nền
kinh tế nước nhà ngày một đi lên.
Gần đây nhất là những thay đổi quan trọng trong Luật Doanh nghiệp 2020,
được Bộ Kế hoạch và Đầu tư giới thiệu thông qua tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội

khóa XIV. Theo đó, Luật Doanh nghiệp 2020 vừa được Quốc hội thơng qua
có 10 chương, 218 điều với nhiều điểm đột phá, tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp và có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Luật Doanh nghiệp 2020 đã có
những thay đổi rất thiết thực, trong đó đã có nhiều sự điều chỉnh liên quan
đến vấn đề cơ cấu nội bộ của công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và nhóm
cơng ty.
Chính vì vậy, nhóm 2 chúng em đã tìm tịi và nghiên cứu các điểm mới này của
LDN 2020, từ đó so sánh các điểm nổi trội với LDN 2014, và thực hiện thu
hoạch bài báo cáo với đề tài “Phân tích những điểm mới của LDN 2020 so


với LDN 2014 đối với một số quy định về cơng ty cổ phần, doanh nghiệp tư
nhân và nhóm cơng ty”
Bài thu hoạch được chia làm ba phần, bao gồm những nội dung chính như
sau:
Chương I: Khái quát về Luật Doanh nghiệp 2014 và sự ra đời của Luật
Doanh nghiệp 2020;
Chương II: Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2020 đối với một số quy
định về công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và nhóm cơng ty;
Chương III: Nhận xét về các điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2020;
Trong quá trình làm việc, dù đã cố gắng hết sức để tìm tịi và nghiên cứu,
nhóm chúng em vẫn cịn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong có thể nhận
được ý kiến đóng góp từ thầy và các bạn để có thể bổ sung và hồn thiện bài
thu hoạch này một cách xuất sắc nhất.
Em xin chân thành cảm ơn!


CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT DOANH
NGHIỆP 2014 VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA LUẬT DOANH
NGHIỆP 2020

I.1. Sơ lược về Luật Doanh nghiệp 2014
Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Luật
số: 68/2014/QH13), có hiệu lực kể từ 01/7/2015; Luật này quy định về việc
thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của
doanh nghiệp, bao gồm cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công
ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân; quy định về nhóm cơng ty.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 có 10 chương, 213 điều, tăng 41 điều so với
Luật Doanh nghiệp năm 2005; Chương IV quy định về Doanh nghiệp nhà
nước với 22 điều là chương mới hoàn toàn; Điều 10 quy định về tiêu chí,
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội cũng mới hoàn toàn.
Mục lục Luật doanh nghiệp 2014 gồm 10 chương như sau:
Chương 1. Những quy định chung
Chương 2. Thành lập doanh nghiệp
Chương 3. Công ty trách nhiệm hữu hạn
Chương 4. Doanh nghiệp nhà nước
Chương 5. Công ty cổ phần
Chương 6. Công ty hợp danh
Chương 7. Doanh nghiệp tư nhân
Chương 8. Nhóm cơng ty
Chương 9. Tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp


Chương 10. Tổ chức thực hiện
1. Hoàn cảnh ra đời
Luật doanh nghiệp 2014 ra đời trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả
đã đạt được của Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005. đồng
thời khắc phục những hạn chế, bất cập và thể chế hóa các vấn đề mới phát
sinh từ thực tiễn.
Luật Doanh Nghiệp 2014 ra đời với mục tiêu cao nhất là tạo ra mơi trường
kinh doanh thơng thống hơn, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, nhất là những

doanh nghiệp vừa và nhỏ, đưa doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh
doanh rẻ hơn, an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư để qua đó tăng
cường thu hút và huy động hơn nữa mọi nguồn lực và vốn đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh.
Theo báo cáo tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp 2005, kể từ khi Luật này
có hiệu lực thi hành vào năm 2006, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập
hàng năm luôn tăng so với năm trước.
Về mặt xây dựng pháp luật, có thể nói Luật Doanh nghiệp năm 2005 là một
bước đột phá về thể chế khi lần đầu tiên, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế có được sân chơi chung. Luật doanh nghiệp 2005 cũng tạo
điều kiện, cơ hội để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút ngoại tệ để phát
triển kinh tế.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc triển khai Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng
gặp phải khơng ít vướng mắc, hạn chế đối với hồn thiện và nâng cao chất
lượng mơi trường kinh doanh nói chung và phát triển doanh nghiệp nói riêng,
làm suy giảm niềm tin của nhà đầu tư và không phát huy được hết tiềm lực
của các doanh nghiệp. Nói chung, vẫn tồn đọng một số vấn đề dưới đây.


Một là, thủ tục thành lập doanh nghiệp vẫn còn phức tạp, tốn kém thời gian,
chi phí.
Hai là, các quy định về vốn của cơng ty cịn nhiều điểm chưa hợp lý, quy định
về vốn điều lệ của Công ty cổ phần chưa rõ ràng.
Thứ ba, các quy định về quản trị cơng ty chưa phù hợp, cịn nhiều điểm bất
cập, gây lãng phí và phiền hà cho chính doanh nghiệp.
Thứ tư, về bảo vệ các cổ đông, đặc biệt là cổ đông thiểu số, Luật Doanh
nghiệp năm 2005 chưa thể hiện rõ nét đặc tính này.
Thứ năm, các quy định về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp trong Luật Doanh
nghiệp 2005 cịn rất sơ sài, khó áp dụng và thiếu tính đồng bộ.
Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời nhằm sửa chữa, khắc phục những hạn chế của

Luật Doanh nghiệp 1005, đồng thời để thích nghi và phù hợp hơn với tình
hình kinh tế hiện hành. Cụ thể, nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển lên tầm
cao mới, mức độ hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng hơn. Điều này đòi hỏi
cần đặt ra những yêu cầu mới đối với doanh nghiệp, đồng thời Nhà nước cần
tạo môi trường kinh doanh phù hợp hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp thành lập, hoạt động hiệu quả, buộc doanh nghiệp tăng cường năng lực
cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
2. Thực tiễn áp dụng
2.1.

Trong quá trình gia nhập thị trường

Thứ nhất, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bãi bỏ các yêu cầu về điều kiện kinh
doanh tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp, chuyển hoàn toàn từ
“tiền kiểm” sang “hậu kiểm”.


Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005, đối với doanh nghiệp khi kinh
doanh các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định địi hỏi phải có vốn
pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề, thì doanh nghiệp đó chỉ được đăng ký
kinh doanh để thành lập doanh nghiệp khi có đủ vốn pháp định hoặc chứng
chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc đăng ký thành lập
doanh nghiệp về bản chất là việc ghi nhận sự ra đời, công nhận về mặt pháp
lý sự xuất hiện của doanh nghiệp trên thị trường. Các yêu cầu về vốn pháp
định và chứng chỉ hành nghề chỉ nên được coi là điều kiện kinh doanh để
doanh nghiệp được hoạt động. Quy định như Luật hiện hành đã tỏ ra khơng
hợp lý, khơng có hiệu lực quản lý nhà nước, gây ra khó khăn, tốn kém khơng
cần thiết cho nhà đầu tư khi thành lập mới doanh nghiệp.
Do vậy, việc bỏ yêu cầu về các điều kiện kinh doanh nêu trên tại thời điểm
đăng ký thành lập doanh nghiệp là hồn tồn phù hợp. Theo đó, tại thời điểm

đăng ký thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp không phải đáp ứng các yêu
cầu về điều kiện kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Sau khi
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp được phép
kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện kể từ khi đáp ứng được các
yêu cầu về điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Với quy định này, Luật Doanh nghiệp 2014 đã chuyển cơ chế đăng ký thành
lập doanh nghiệp từ “tiền kiểm” hoàn toàn sang “hậu kiểm”.
Thứ hai, Luật Doanh nghiệp 2014 đã tách bạch thủ tục đăng ký thành lập
doanh nghiệp với các thủ tục về đăng ký đầu tư.
Theo Luật Đầu tư 2005, nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam
phải có dự án đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế; Giấy chứng nhận đầu
tư cấp cho nhà đầu tư nước ngoài đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh


doanh. Quy định về Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh nhằm mục tiêu đơn giản hóa thủ tục cho nhà đầu tư nước
ngoài nhưng trên thực tế đã dẫn đến rất nhiều khó khăn cho nhà đầu tư bởi
đây là hai loại giấy tờ hoàn toàn khác nhau về bản chất pháp lý.
Nhằm khắc phục hạn chế nêu trên, Luật Đầu tư 2014 đã tách bạch thủ tục
đăng ký đầu tư và thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp đối với nhà đầu tư
nước ngồi tại Việt Nam. Theo đó, sau khi thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập doanh
nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh như nhà đầu tư trong nước.
Quy định này đã phân biệt rõ địa vị pháp lý của pháp nhân và của hoạt động
đầu tư cụ thể, đồng thời, giảm phiền hà cho nhà đầu tư khi thực hiện điều
chỉnh các thông tin liên quan đến pháp nhân trong quá trình hoạt động.
Thứ ba, Luật Doanh nghiệp 2014 đã giảm thời gian xử lý hồ sơ đăng ký
doanh nghiệp, rút ngắn thời gian gia nhập thị trường cho doanh nghiệp.
Theo quy định hiện hành, thời gian xử lý hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là 5
ngày làm việc, trong đó, 2 ngày để cơ quan thuế cấp mã số doanh nghiệp, 3

ngày để cơ quan đăng ký kinh doanh tiếp nhận, xử lý hồ sơ và cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Với cơ chế này, việc cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp phải phụ thuộc vào việc chờ cấp Mã số doanh nghiệp
từ Cơ quan thuế, làm kéo dài thời gian thực hiện thủ tục hành chính.
Để tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp tham gia thị trường, Luật
Doanh nghiệp 2014 đã giảm thời gian xử lý hồ sơ đăng ký doanh nghiệp
xuống còn 3 ngày làm việc. Để hiện thực hóa quy định nêu trên, hiện tại, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng Thơng tư liên
tịch hướng dẫn về việc trao đổi thông tin đăng ký doanh nghiệp, thông tin về


tình hình hoạt động của doanh nghiệp và thơng tin về báo cáo tài chính của
doanh nghiệp. Theo đó, Hệ thống đăng ký thuế sẽ tự động tạo mã số thuế mà
không cần sự kiểm tra, xem xét của cán bộ đăng ký thuế.
Thứ tư, Luật Doanh nghiệp 2014 đã trao việc quyết định về hình thức, số
lượng và nội dung con dấu cho doanh nghiệp.
Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005 và Nghị định số 58/2001/NĐ-CP
thì cơ quan quản lý nhà nước sẽ quyết định hình thức, số lượng và nội dung
con dấu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn hoạt động phải xin phép khắc
dấu và phải được cơ quan quản lý nhà nước đồng ý cho khắc dấu và cấp giấy
đăng ký mẫu dấu.
Để tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp khi khởi sự kinh doanh, giảm thiểu
chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp mới đã chuyển quyền
quyết định nêu trên về cho doanh nghiệp. Cụ thể, Điều 44 Luật Doanh nghiệp
2014 quy định doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và
nội dung con dấu của doanh nghiệp. Trước khi sử dụng, doanh nghiệp có
nghĩa vụ thơng báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công
khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Với quy định
này, con dấu của doanh nghiệp chỉ mang tính chất là dấu hiệu nhận biết doanh
nghiệp, do doanh nghiệp tự thiết kế. Quy định này sẽ công nhận quyền tự do

kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có việc cơng nhận quyền tự sáng tạo
mẫu dấu của doanh nghiệp; Nhà nước cũng không hướng tới việc quản lý chặt
chẽ đối với con dấu như quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005.
Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2014 cũng quy định về lưu giữ và quản lý con
dấu. Theo đó, thay vì quy định cứng như trong Luật Doanh nghiệp 2005 là
phải lưu giữ và bảo quản tại trụ sở chính của doanh nghiệp, Luật Doanh


nghiệp 2014 cho phép Điều lệ công ty quy định việc quản lý, sử dụng và lưu
giữ con dấu.
Cải cách này sẽ giảm bớt rất nhiều sự vướng mắc trong sử dụng con dấu ở
ngồi trụ sở chính của doanh nghiệp trong thời gian vừa qua. Người đại diện
theo pháp luật có thể mang con dấu đi bất kỳ địa điểm nào để tiện cho việc
quản lý và sử dụng, mà không lo đã làm trái quy định như hiện nay.
2.2.

Trong quá trình hoạt động kinh doanh

Thứ nhất, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bãi bỏ nội dung về ngành, nghề kinh
doanh trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp có nghĩa vụ đăng ký
ngành, nghề kinh doanh và sau đó, được quyền kinh doanh theo đúng ngành
nghề đã đăng ký và được ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Như
vậy, doanh nghiệp chỉ được quyền tự do kinh doanh những ngành, nghề ghi
trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; trường hợp muốn bổ sung, thay
đổi ngành, nghề kinh doanh thì ngồi việc phải thực hiện đăng ký kinh doanh với
cơ quan quản lý có thẩm quyền trong lĩnh vực kinh doanh cụ thể, doanh nghiệp
còn phải tiến hành thủ tục bổ sung, điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp. Tuy nhiên, quy định như Luật Doanh nghiệp hiện hành đã khơng cịn
phù hợp khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 đã mở rộng hơn

nữa quyền tự do kinh doanh. Theo đó Điều 33 Hiến pháp quy định: “Mọi người
có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”.
Để thể chế hóa đầy đủ quyền tự do kinh doanh quy định tại Điều 33 Hiến pháp,
Luật đã chuyển từ nguyên tắc tự do kinh doanh những gì ghi trên Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp sang nguyên tắc tự do kinh doanh những gì mà pháp
luật khơng cấm thơng qua việc bỏ nội dung về ngành, nghề kinh doanh trên Giấy
chứng nhận đăng ký


doanh nghiệp. Quy định như vậy không những giảm đáng kể chi phí tuân thủ
thực hiện thủ tục hành chính mà cịn nâng cao tính chủ động, linh hoạt cho
doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, Luật Doanh nghiệp 2014 đã thống nhất cách hiểu về vốn điều lệ
công ty và thời hạn thực hiện góp vốn điều lệ.
Phải thừa nhận rằng, cùng một khái niệm về vốn nhưng Luật Doanh nghiệp
năm 2005 và các văn bản hướng dẫn lại sử dụng các thuật ngữ khác nhau. Cụ
thể, Luật Doanh nghiệp hiện hành sử dụng thuật ngữ “cổ phần được quyền
chào bán”; trong khi đó, Nghị định số 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành
Luật Doanh nghiệp lại sử dụng thuật ngữ “cổ phần đã phát hành”, “cổ phần
được quyền phát hành”. Đồng thời, bản chất vốn điều lệ theo quy định tại
Luật Doanh nghiệp là vốn đăng ký hay vốn cam kết góp đã gây ra những tác
động khơng mong muốn như: nhầm lẫn về cơ cấu sở hữu thực tế trong doanh
nghiệp, tranh chấp khơng đáng có trong nội bộ cơng ty... Ngồi ra, thời hạn để
thực hiện việc góp vốn đối với các loại hình doanh nghiệp là khơng thống
nhất. Đối với loại hình cơng ty cổ phần, người tham gia góp vốn có thời hạn
90 ngày để hồn thành việc góp vốn; trong khi đó, thời hạn này đối với loại
hình trách nhiệm hữu hạn là 36 tháng.
Để giải quyết bài toán nêu trên, khái niệm vốn điều lệ trong Luật lần này đã
được thay đổi căn bản là vốn thực góp. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho doanh
nghiệp lúc mới thành lập, Luật đã quy định tại thời điểm đăng ký thành lập

doanh nghiệp, vốn điều lệ là vốn mà các thành viên, cổ đông cam kết
góp/đăng ký mua vào cơng ty; thành viên, cổ đơng phải thanh tốn phần vốn
góp, số cổ phần cho công ty đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết/đăng ký
mua khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Nếu sau thời hạn nêu trên


mà thành viên, cổ đơng chưa thanh tốn hoặc chưa thanh tốn đủ số cổ phần
đã cam kết góp/đăng ký mua, công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ
bằng giá trị thực góp. Cổ đơng chưa thanh tốn hoặc chưa thanh toán đủ số cổ
phần đã đăng ký mua phải chịu trách nhiệm tương ứng với tổng giá trị mệnh
giá cổ phần đã đăng ký mua đối với các nghĩa vụ tài chính của cơng ty phát
sinh trong thời hạn 90 ngày nêu trên.
Thứ ba, Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần có thể có hơn một người đại diện theo pháp luật.
Quy định này nhằm hướng tới việc tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp, cho
phép doanh nghiệp toàn quyền quyết định số lượng người đại diện theo pháp
luật cho mình trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao
dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các
quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Có thể nói, đây là một trong những nội dung thay đổi cơ bản so với Luật
Doanh nghiệp năm 2005 (công ty trách nhiệm hữu hạn và cơng ty cổ phần chỉ
có duy nhất một người đại diện theo pháp luật). Đứng dưới khía cạnh đảm
bảo quyền tự do kinh doanh, đây là một quy định mang tính đột phá trong
việc cho doanh nghiệp tồn quyền quyết định số lượng người đại diện theo
pháp luật, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể hội nhập nhanh hơn, tận
dụng được mọi cơ hội kinh doanh thông qua các đại diện theo pháp luật.
Đồng thời, quy định này sẽ góp phần tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp
trong trường hợp người đại diện duy nhất của doanh nghiệp bất hợp tác,

không thực hiện các yêu cầu của thành viên/cổ đơng trong q trình quản lý
điều hành doanh nghiệp trong nội bộ cũng như giao dịch với bên ngồi cơng


ty. Bằng cách có nhiều hơn 1 người đại diện, sự lạm quyền, bất hợp tác như
đã nói trên sẽ bị vơ hiệu hóa.
Ngồi ra, doanh nghiệp phải bảo đảm ln có ít nhất một người đại diện theo
pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại
diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền
bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện
theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Nếu hết thời hạn ủy quyền mà
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam và
khơng có ủy quyền khác, người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong
phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp trở lại làm việc, hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng
thành viên, Hội đồng quản trị quyết định cử người khác làm người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp. Đây là điểm mới, tiến bộ của Luật Doanh
nghiệp 2014 khi đưa ra cơ chế giải quyết trong trường hợp người đại diện
theo pháp luật thường xuyên vắng mặt tại Việt Nam.
2.3.

Trong quá trình tổ chức lại, rút lui khỏi thị trường

Thứ nhất, Luật Doanh nghiệp 2014 đã mở rộng các đối tượng được quyền
hợp nhất, chia, tách, sáp nhập công ty.
Theo quy định hiện hành, việc hợp nhất, chia, tách, sáp nhập chỉ áp dụng đối
với các công ty cùng loại. Quy định nêu trên đã không còn phù hợp với thực
tế, đang hạn chế và cản trở việc tổ chức lại hay mở rộng kinh doanh theo cách
thức hợp nhất, chia, tách, sáp nhập công ty, làm giảm cơ hội đầu tư của doanh

nghiệp. Do vậy, Luật đã cho phép các cơng ty khác loại hình có thể hợp nhất,
chia, tách, sáp nhập. Ngồi ra, Luật cũng đã bổ sung thêm quy định hướng


dẫn cụ thể trình tự, thủ tục về phương thức hợp nhất, chia, tách, sáp nhập và
đăng ký lại sau khi hợp nhất, chia, tách, sáp nhập công ty.
Thứ hai, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định rõ hơn và hợp lý hơn về trình tự,
thủ tục giải thể doanh nghiệp.
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta gặp rất
nhiều khó khăn. Điều này tác động lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp.
Theo số liệu thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, tổng số doanh
nghiệp giải thể, ngừng hoạt động trong năm 2011, 2012, 2013 và 2014 lần
lượt là 53,9 ngàn, 54,2 ngàn, 60,7 ngàn và 67,8 ngàn doanh nghiệp. Do vậy,
song song với việc đơn giản hóa thủ tục đăng ký gia nhập thị trường của
doanh nghiệp, việc đơn giản hóa thủ tục đăng ký rút khỏi thị trường của
doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm đúng mức. Điều này sẽ góp phần hạn
chế tình trạng bức xúc của xã hội và cộng đồng doanh nghiệp trong thời gian
vừa qua về các vấn đề như: doanh nghiệp “chết” mà khơng được chơn, tình
trạng doanh nghiệp chật vật xin được chết... [1]; đồng thời, sẽ góp phần làm
“sạch” dữ liệu về doanh nghiệp.
Nhằm khắc phục những vướng mắc nêu trên, quy trình giải thể doanh nghiệp
quy định đã được thiết kế theo hướng “tự động”. Theo đó, thời hạn tối đa để
cơ quan đăng ký kinh doanh thực hiện thủ tục xóa tên doanh nghiệp là 5 ngày
làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ giải thể. Đồng thời, doanh nghiệp sẽ được tự
động giải thể sau 180 ngày kể từ ngày cơ quan đăng ký kinh doanh nhận được
quyết định giải thể của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các cơ quan, đặc biệt
là cơ quan thuế sẽ phải khẩn trương thực hiện thủ tục quyết toán thuế cho
doanh nghiệp.



Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2014 cũng bổ sung quy định về giải thể doanh
nghiệp trong trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc
theo quyết định của Tịa án.
Trong bối cảnh Chính phủ đang quyết tâm cải thiện hơn nữa môi trường đầu
tư kinh doanh, sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 2014 được kỳ vọng sẽ góp
phần tạo ra những bước chuyển biến mạnh mẽ để nền kinh tế nước ta có thể
bứt phá trong giai đoạn tới đây
2.4. Thành tựu
Bên cạnh việc phát huy nội lực của cộng đồng doanh nghiệp, nỗ lực của hệ
thống cơ quan đăng ký đầu tư, đăng ký kinh doanh đã đóng góp một phần lớn
tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ này. Trong đó, sự thay đổi đáng kể nhất
là chất lượng dịch vụ công thể hiện ở thời gian tiếp nhận, xử lý hồ sơ, thủ tục
đăng ký kinh doanh và thái độ, tính chuyên nghiệp của cán bộ nghiệp vụ tại
các địa phương. Hà Tĩnh là địa phương xử lý hồ sơ doanh nghiệp nhanh nhất
chỉ trong 1 ngày; Tiền Giang là 1,3 ngày; Hậu Giang là 1,32 ngày và Đà Nẵng
là 2,52 ngày. Thời gian trung bình xử lý hồ sơ đăng ký thành lập doanh
nghiệp mới của cả nước là 2,9 ngày. Tỷ lệ hồ sơ được chấp thuận ngay lần
đầu tiên và tỷ lệ hồ sơ được trả kết quả đúng hẹn cũng tăng lên đáng kể.
I.2. Những hạn chế của Luật Doanh Nghiệp 2014
Hai là, việc báo cáo nội dung thay đổi, Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2014
quy định về Báo cáo thay đổi thông tin của người quản lý doanh nghiệp, như
sau: “Doanh nghiệp phải báo cáo Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh
nghiệp có trụ sở chính trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có thay đổi thông tin
về họ, tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng
minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của những
người sau đây:


1)


Thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần;

2)

Thành viên Ban kiểm soát hoặc Kiểm soát viên;

3)

Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;

Ba là, về trách nhiệm của Người đại diện theo pháp luật. Khoản 2 Điều 13
Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định về người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp, như sau: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và cơng ty cổ phần
có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy
định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp.”
Như vậy, cơng ty có thể tìm cách trốn tránh trách nhiệm trong các trường hợp
bất lợi. Đồng thời gây khó khăn và rủi ro rất lớn cho đối tác giao dịch với
cơng ty, vì không phải lúc nào cũng tiếp cận được Điều lệ và khơng bảo đảm
việc xác định được chính xác nội dung phân quyền cũng như bản Điều lệ nào
có hiệu lực thật sự.
I.3. Sự cần thiết phải ban hành luật 2020


CHƯƠNG II: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT DOANH
NGHIỆP 2020 ĐỐI VỚI MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ CÔNG TY
CỔ PHẦN, DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ NHĨM CƠNG
TY
II.1. Điểm mới đối với một số quy định về công ty cổ phần:
1.


Những điểm mới của Luật DN 2020 so với Luật DN 2014 từ điều 111

Luật DN 2020 đến điều 121 Luật DN 2020
1.1 Công ty cổ phần ( Điều 110 Luật DN 2014 - Điều 111 Luật DN 2020)
Khoản 3 điều 111 Luật DN 2020 bổ sung “ … trái phiếu và các loại chứng
khốn khác của cơng ty”.
Như vậy cơng ty cổ phần ngoại trừ được phép phát hành cổ phần cơng ty cịn
được phát hành trái phiếu và các loại chứng khoán khác. Điều này phù hợp
với thực tiễn kinh doanh, bởi công ty cổ phần thường là doanh nghiệp có quy
mơ lớn và rất lớn, số lượng chủ sở hữu cơng ty rất nhiều.
1.2 Thanh tốn cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký thành lập DN ( Điều 112
Luật DN 2014 - Điều 113 Luật DN 2020)


Bổ sung thêm điều kiện về thời hạn khi cổ đông góp vốn bằng tài sản

trong khoản 1 Điều 113 “...Trường hợp cổ đơng góp vốn bằng tài sản thì thời
gian vận chuyển nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở
hữu tài sản đó khơng tính vào thời hạn góp vốn này … ”
Nghĩa là sau 90 ngày các đủ đơng chưa thanh tốn hoặc thanh tốn một phần
của cơng ty thì khơng được xem là cổ đông của công ty (xem khoản 3 của
điều luật này). Vì góp vốn bằng tài sản rất phức tạp nên Luật 2020 đã bổ sung
thêm là trường hợp cổ đông góp vốn bằng tài sản thì thời gian vận chuyển
nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản đó


khơng tính vào thời gian này nghĩa là cổ đơng chỉ cần trao quyền tài sản cho
cơng ty đó cịn q trình vận chuyển sẽ khơng được tính vì một số rủi ro thì
q trình chuyển tài sản này có thể kéo dài thêm



Bổ sung thêm quy định ở điểm d khoản 3 Điều 113: “... trừ trường hợp

số cổ phần chưa thanh toán đã được bán hết trong thời hạn này; đăng ký thay
đổi cổ đông sáng lập”
Nghĩa là nếu trong q trình người góp vốn phải thanh tốn cổ phần (tức 30
ngày) nếu xảy ra các trường hợp như số cổ phần chưa thanh toán đã bị bán hết
hay đã thay đổi cổ đơng sáng lập thì người góp vốn khơng cần thực hiện nghĩa
vụ này nữa


Bổ sung khoản 5 Điều 113 “Trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều

này, người góp vốn trở thành cổ đơng của cơng ty kể từ thời điểm đã thanh
tốn việc mua cổ phần và những thông tin về cổ đông quy định tại các điểm b,
c, d và đ khoản 2 Điều 122 của Luật này được ghi vào sổ đăng ký cổ đông”
Nghĩa là các điều kiện để người góp vốn trở thành cổ đơng tức thời điểm
người đó đã thanh tốn cổ phần mình đã mua và những thông tin về cổ đông
quy định trừ các trường hợp khoản 2 đã được quy định ở trên
1.3 Các loại cổ phần ( Điều 113 Luật DN 2014 - Điều 114 Luật DN 2015)


Điểm d khoản 3 Điều 114 bổ sung về các loại cổ phần ưu đãi khác “...

và pháp luật chứng khoán”
Như vậy, Luật DN đã sửa đổi để phù hợp với Luật Chứng khoán


Khoản 3 Điều 113 Luật DN 2014 “Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy


quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết.
Ưu đãi biểu quyết của cổ đơng sáng lập chỉ có hiệu lực trong 03 năm, kể từ
ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký DN. Sau thời hạn đó, cổ
phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần cổ
đông” và được bổ sung vào khoản 1 Điều 116 Luật DN 2020


×